Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận ngôn ngữ học đối chiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.38 KB, 12 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống con người luôn luôn phải giao tiếp với nhau. Sự giao tiếp diễn ra bằng
nhiều hình thức: ngôn ngữ, điệu bộ cử chỉ, hội họa, âm nhạc…Trong các hình thức trên,
hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ là quan trọng nhất. Để hiểu nhau, con người luôn phải
nắm bắt một cái gì đó trong giao tiếp. Cái gì đó chính là đối tượng nghiên cứu của ngữ
âm học và âm vị học.
Âm vị được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo cuốn “Ngữ âm học tiếng Việt
hiện đại”, âm vị là đơn vị nhỏ nhất của ngữ âm có mang chức năng phân biệt nghĩa và
nhận diện từ. Theo cuốn “Ngữ âm tiếng Việt” thì âm vị là tổng thể các nét khu biệt, được
xuất hiện đồng thời (được con người tri giác theo trật tự trước sau) và có chức năng khu
biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị. Như vậy ta có thể hình dung âm vị có thể định
nghĩa như một đơn vị âm vị học: có tác dụng khu biệt, không thể phân tích thành những
đơn vị nhỏ hơn kế tiếp nhau trong thời gian; hoặc được định nghĩa như một tập hợp
những nét khu biệt được thực hiện đồng thời. Số lượng các âm vị trong các ngôn ngữ có
thể giống nhau hoặc khác nhau. Ví dụ: Tiếng Việt không có âm vị [ð], tiếng Anh không
có âm vị [ǎ].
Âm vị đoạn tính là những âm vị được thể hiện riêng rẽ hoặc kế tiếp nhau theo thời gian.
Nguyên âm, phụ âm, bán nguyên âm/bán phụ âm là những âm vị đoạn tính.
Âm vị siêu đoạn tính là những âm vị không được thể hiện riêng rẽ hoặc kế tiếp nhau theo
thời gian mà luôn luôn được thể hiện đồng thời với âm tố hoặc toàn bộ âm tiết. Trọng âm
và thanh điệu là những âm vị siêu đoạn tính.

1


PHẦN NỘI DUNG
1. Đối chiếu âm vị đoạn tính
1.1 . Nguyên âm
Về mặt ngữ âm học (phonetics), nguyên âm (vowel) là âm được phát ra tiếng thanh,
nghĩa là âm mà khi phát âm, luồng hơi phát ra ngoài một cách tự do, có âm hưởng dễ
nghe, êm ái. Về mặt âm vị học (phonology) thì nguyên âm là đơn vị của hệ thống âm vị


của ngôn ngữ.
1.1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1.1. Cơ quan cấu âm

Hình 1.1
Các bộ phận cấu âm chính gồm: răng (teeth), lợi (alveolar ridge), môi (lip), lưỡi (tongue),
ngạc mềm (soft palate hoặc velum), yết hầu (pharynx). Đây chính là cơ quan chủ yếu tạo
ra âm thanh lời nói của con người. Người Việt hay người Anh đều dùng những bộ phận
này để cấu âm (articulation) để phát ra các âm lời nói.
1.1.1.2. Cơ sở xác định nguyên âm về mặt âm học
Để miêu tả nguyên âm cần xác định hộp cộng hưởng miệng, đồng thời xác định hộp cộng
hưởng yết hầu. Đây là nguồn gốc thay đổi âm sắc (timbre) của tiếng thanh (voice) do dây
thanh tạo nên. Cấu tạo một tiếng thanh gồm một âm trầm nhất gọi là âm cơ bản và nhiều
âm cao hơn nhiều lần gọi là họa âm. Mỗi lần thay đổi mối tương quan giữa âm cơ bản với
các họa âm về cao độ và cường độ là một lần thay đổi âm sắc là một lần ta có một nguyên
âm khác. Người ta dựa vào độ mở của miệng, vị trí của lưỡi và hình dáng của môi để
miêu tả nguyên âm: nguyên âm rộng (hoặc thấp) như [a], [e]; nguyên âm hẹp (hoặc cao)
2


như [i], [u]; nguyên âm trước như [i], [ê], [e]; nguyên âm sau như [u], [ô] hay [o]; nguyên
âm giữa như [ư], [ǝ] trong “bird” tiếng Anh, “tơ” trong tiếng Việt; âm tròn môi như [u],
[ô], [o]; nguyên âm không tròn môi như [a], [i], [e]…
1.1.1.3. Cơ sở xác định các âm về mặt âm vị học
− Nét khu biệt âm vị học là nói về mặt xã hội do từng cộng đồng ngôn ngữ quy định.
Mặt cấu âm – âm học (mặt tự nhiên) của ngữ âm do con người phát ra ngôn ngữ nào
cũng có, còn cái nào trong mặt tự nhiên đó được dùng vào để biểu nghĩa, để phân
biệt đơn vị có nghĩa (từ, hình vị) là mặt xã hội lại do từng ngôn ngữ quy định và có
tính quy luật, đây được coi là nét khu biệt có tính quy ước, tính xã hội.
− Âm vị có tính chất trừu tượng, còn âm tố (sound) có tính chất cụ thể vì nó bảo gồm

cả những nét khu biệt lẫn nét không khu biệt. Âm vị là đơn vị của hệ thống ngôn
ngữ, còn âm tố là đơn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói. Âm tố có thể tách ra về mặt
cấu âm và thường tương ứng với âm vị. Nói đến âm vị là nói đến chức năng khu biệt
có tính xã hội.
− Âm vị bao giờ cũng hiện thực hóa bằng âm tố cụ thể. Mỗi âm vị tùy ngữ cảnh lời
nói mà thể hiện thành âm tố này hay âm tố khác. Sự biểu hiện cụ thể đó gọi là biến
thể âm vị.
Các nguyên âm chuẩn có thể được hình dung khai quát trên hình thang nguyên âm sau:

Hình 1.2
1.1.2. Đối chiếu
Trong tiếng Việt, nguyên âm được coi là âm chính, tức là âm đảm nhận thành phần chính
của âm tiết. Tiêu chí để xác lập và phân loại nguyên âm chủ yếu là âm sắc. Âm sắc
thường được phân biệt ở độ trầm bổng và tính cố định hay biến đổi.
1.1.2.1. Độ trầm bổng
Độ bổng/ trầm thường chia ra làm hai khả năng:
− Bổng phân biệt với trầm kèm theo một đặc trưng nào đó.
− Bổng phân biệt với trầm mà âm sắc được giữ nguyên từ đầu đến cuối.
3


Theo cách phân chia này, nguyên âm đơn (vowel) tiếng Việt được chia ra làm 3 âm sắc là
bổng/ trầm/ trầm vừa như sau:

Hình 1.3
Theo sự phân chia của giáo trình “Ngữ âm tiếng Việt” thì tiếng Việt có 13 âm đơn, trong
đó có 9 nguyên âm dài (i, e, ε, a, ă, ɔ, o, ɤ, u, ɯ) và 4 nguyên âm ngắn (ɛ , ɔ , ɤ ).
Theo kết quả phân lập của Peter Roach trong cuốn “English phonetics and phonology”,
tiếng Anh có 11 nguyên âm đơn gồm 5 nguyên âm dài và 6 nguyên âm ngắn.


Hình 1.4
1.1.2.2. Tính cố định và biến đổi âm sắc
− Nguyên âm tiếng Việt cũng như tiếng Anh có một số âm cố định âm sắc, một số
khác biến dổi âm sắc như bảng sau:

Hình 1.5
− Những nguyên âm không cố định âm sắc là âm sắc có biên đổi từ lúc xuất phát
đến lúc kết thúc hay chính là âm đôi (dipthongs). Các nguyên âm đôi tiếng Việt
4


hầu như đóng vai trò trung tam (chính âm của âm tiết) trong khi đó 8 nguyên âm
đôi tiếng Anh phân bố ở các vị trí khác nhau.
Tiếng Việt

Ví dụ

Tiếng Anh

Ví dụ

ɪ e ̮

Việt, miến

iǝ, ǝʊ, ʊǝ

fierce, go, poor…

ɯ ̮ɤ


trường, thương

eǝ, ei, ai, aʊ, ͻi

aired, pain, face…

Bảng 1.1
Ở đây chúng ta cần chú ý: âm đệm của tiếng Việt và âm ba (tripthongs) của tiếng Anh.
Nét riêng của tiếng Việt là sự hiện diện của âm đệm /ṷ/. Âm đệm này khác với yếu tố cấu
thành âm đôi và cả với âm dài (trường độ). Nó vốn không mang âm sắc chủ yếu của âm
tiết nên phát âm như âm lướt, một nguyên âm không ở đỉnh âm tiết (ví dụ: quả).
Nét đặc trưng riêng của tiếng Anh là ở nguyên âm ba. Nó thường khó phát âm và cũng
khó nghe. Một âm ba là một sự trượt từ một nguyên âm này qua nguyên âm khác và đến
cả âm thứ 3, tất cả diễn ra nhanh mà không líu lặp. Nó có thể hình dung như một tổ hợp 5
âm đôi đóng với âm /ǝ/ (ví dụ: “hour” /aʊǝ/ ← aʊ + ǝ).
1.1.2.3. Chữ viết
Chữ viết tiếng Việt và tiếng Anh đều là chữ viết ghi âm nhưng thể hiện trong 2 ngôn ngữ
vẫn có điểm khác nhau.
Nguyên âm đơn:
Việt

Anh

5


/i/: tin, ý kiến, suy nghĩ
/ɯ/: ưng, mừng, tưng bừng
/u/: tung, hung, du

/e/: mệt, tên, mê
/ɤ/: mơ, lớn, hơn
/ ɤ ̌/: tân, cần, thân
/o/: tô, một, công cộng
/ ɛ /:
̌ ̌ anh ách, sách xanh
/ǎ/: ay, rau đay, au
/ ɔ / ̌ : ong óc, tóc, vòng
/ɛ/: em, them, đem, đẹp
/ͻ/: xoong, mooc, tooc
/a/: ta, mang, lan man
/ ṷ/: toán, hoàng, ao, lào

/i/: bit, fish, pin
/i:/: mean, peace
/ʊ/: pull, put, push
/u:/: food, soon, lose
/e/: men, bet, yes
/з:/: fern, purse, bird
/ͻ:/: board, horse, torn
/æ/: man, gas, bat
/ʌ/: but, some, rush
/a:/: card, half, pass
/ɒ/: pot, gone, cross

6


Nguyên âm đôi:
Việt


Anh

/ie/: hiền, miền, tiên
/ɯǝ/: hươu, hương, hướng
/uo/: uống thuốc, lúa úa

/iǝ/: fierce, beard, ian
/ʊǝ/: tour, moored
/eǝ/: aired, scare, cain
/ei/: pain, paid, face
/ai/: nice, time
/ͻi/: loin, voice, void
/ǝʊ/: home, most, load
/aʊ/: gown, house, loud

Nguyên âm ba trong tiếng Anh:
/eiǝ/: layer, player
/aiǝ/: liar, fire
/ͻiǝ/: loyal, royal
/ǝʊǝ/: mower, lower
/aʊǝ/: power, hour
1.2 . Phụ âm
Phụ âm (consonant) là những âm được phát ra bị một cản trở nào đó như qua khe hở của
dây thanh, sự tiếp xúc của đầu lưỡi với răng, sự khép chặt của môi… làm cho tiếng phát
ra không dễ nghe, không êm tai, có tiếng động, tần số không ổn định.
1.2.1. Cơ sở lí luận
1.2.1.1. Cơ sở xác định phụ âm về mặt ngữ âm học
− Về phương thức cấu âm ta có phụ âm xát, phụ âm tắc, phụ âm bật hơi, phụ âm
mũi, phụ âm bên và phụ âm rung.

Đặc trưng của phụ âm tắc là có một tiếng nổ sinh ra do luồng không khí từ phổi bị cản
trở, và phải phá vỡ cái cản trở để phát ra (ví dụ: “t”, “d”, “b”).
Đặc điểm của phụ âm xát là do cọ xát, phát sinh do luồng không khí đi ra bj cản trở
một phần, khí bị lách qua khe hở dể phát ra với sự cọ xát của bộ phận cấu âm ( ví dụ:
“f”, “v”).
Phụ âm bật hơi: tính chất bật hơi thể hiện ở chỗ không khí trong cơ quan phát âm tạo
ra tiếng nổ nhẹ và thoát ra có cọ xát ở khe hở giữa hai mép dây thanh (ví dụ: “c”,
“th”).
7


Phụ âm mũi: tính chất mũi thể hiện khi luồng khí phát ra từ phổi phải qua mũi
(khoang mũi) mà ra chứ không phải qua đường miệng (ví dụ: “n”, “ng”, “m”, “nh”).
Phụ âm rung: sự rung là do luồng không khí thoát ra đường miệng bị lưỡi chặn lại
nhưng sau đó lại được thoát ran gay do chỗ chặn được mở ra, rồi lại bị chặn, rồi mở
ra, cứ thế luân phiên (ví dụ: âm “r” trong tiếng Pháp).
− Về mặt cấu âm: theo nguyên tắc phân tích bộ máy cản trở không khí phát ra ta có
hàng loạt phụ âm được gọi theo vị trí cản trở đó như là phụ âm môi-môi “m”, phụ
âm môi răng “v”, phụ âm đầu lưỡi răng “t”, phụ âm đầu lưỡi-lợi “đ”, phụ âm quặt
lưỡi “tr” trong tiếng Việt.
Đặc điểm tiêu chuẩn cuối cùng cần chú ý đó là xu hướng phát âm thể hiện khi phát
âm bộ máy phát âm không cấu tạo bình thường như vốn có mà dịch về một hướng nào
đó nhằm tạo ra sắc thái âm thanh mới: hiện tượng ngạc hóa, hiện tượng mạc hóa, môi
hóa, yết hầu hóa.
1.2.1.2. Số lượng và các loại phụ âm
Theo kết quả xác lập của giáo trình Peter Roach thì tiếng Anh có 24 phụ âm: p, b, m, f, v,
t, d, k, g, θ, δ, s, z, l, ӡ, h, n, ŋ, r, j, w, tʃ, dӡ, ʃ. Những phụ âm này được phân loại như
bảng sau:

Hình 1.6

Theo Đoàn Thiện Thuật thì phụ âm tiếng Việt có 22 phụ âm đầu (phụ âm đứng ở đầu âm
tiết): b, m, f, v, ť, t, d, n, s, z, l, ƫ, ȿ, ʐ, c, ɲ, k, ŋ, x, ɤ, ʔ, h. Những phụ âm đầu này được
phân loại chi tiết hơn và có những nét riêng so với bảng tiếng Anh như sau:
8


Hình 1.7
Ngoài ra tiếng Việt còn có 8 âm cuối trong đó có 6 phụ âm, 2 bán nguyên âm (semivowel) có thể gọi là bán phụ âm (semi-consonant) hoặc cũng gọi là 2 phụ âm. Chúng
được khu biệt với các tiêu chí trong bảng sau:
Định vị

môi

Đầu lưỡi

Phương thức

Đầu lưỡi

Mặt lưỡi

p

t

k

Không mũi

m


n

ŋ

Mũi



ii

Ồn
Vang

Bảng 1.2
1.2.2. Đối chiếu
− Nhóm phụ âm tắc xét về cấu âm trong tiếng Việt có tắc bật hơi “ť”; tắc ồn, không
bật hơi, vô thanh “t”, “ƫ”, “c”, “k”; tắc ồn, không bật hơi, hữu thanh “b”, “d”; tắc,
vang, mũi “m”, “n”, “ɲ”, “ŋ”. Phụ âm tắc trong tiếng Anh vừa vang tắc vừa có kết
hợp tắc xát: tắc “p”, “b”, “t”, “d”, “k”, “g”, “m”, “n”; tắc xát “tʃ”, “dӡ”. Trong số
tất cả các âm này có âm “g” Anh thuộc âm tắc thì “ɤ” Việt thuộc âm xát
(fricative).
− Trong phụ âm tắc về định vị bảng phụ âm tiếng Anh chi tiết hơn và tác giả Việt
chú ý nhiều đến lưỡi thì tác giả Anh miêu tả nhiều chi tiết hơn (môi, răng, môi9


răng, lợi, ngạc, ngạc-lợi, mạc) đặc biệt là răng, lợi, ngạc có mặt trong nhiều phụ
âm.
− Tiếng Anh cũng có những phụ âm mà tiếng Việt không có: âm gần đúng
(approximant) như “r”, “j”, “w”.

− Chú ý là phụ âm “k”, “g” Anh là tắc mạc còn “k” Việt là tắc gốc lưỡi, “ɤ” lại là xát
gốc lưỡi.
2. Đối chiếu âm vị siêu đoạn tính
Ngoài nguyên âm, phụ âm ta còn đối chiếu thanh điệu (tone), trọng âm (stress), ngữ điệu
gọi chung là hiện thượng ngôn điệu (prosodic facts).
2.1. Thanh điệu
Thanh điệu là hiện tượng ngữ âm – âm vị chỉ có trong tiếng Việt và một số ngôn ngữ
cùng loại hình như tiếng Hán, tiếng Thái, còn tiếng Anh, Nga, Pháp không có thanh điệu.
Thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính (suprasegmental phoneme).
Trong tiếng Việt về mặt chữ viết, thanh điệu được ghi bằng các dấu: “\” (huyền), “~”
(ngã), “.” (nặng), “/” (sắc), “?” (hỏi) và thanh không (không dấu).

Biểu đồ 2
− Thanh nặng là một thanh thuộc âm vực thấp, không bằng phẳng, đường gãy nét (ví
dụ: tật, học, tập).
− Thanh sắc : khởi đầu độ cao của thanh sắc gần ngang với thanh không dấu nhưng
không đi ngang mà đi lên (ví dụ: bắt cóc, cái, nấp).
− Thanh hỏi: có âm vực thấp, khởi đâu ở mức độ cao nhưng thấp dần rồi kết thúc
thấp, từ khởi đầu đến kết thúc không bằng phẳng, đổi hướng nên có đặc trưng gãy
(ví dụ: cảm tưởng, quả ổi).
10


− Thanh ngã: bắt đầu ở âm vực thấp, kết thúc ở âm vực cao, khởi đầu ngang với
thanh huyền, đường nét thanh điệu không bằng phẳng (ví dụ: ngã, xã, tã).
− Thanh huyền là thanh thuộc âm vực thấp, đường nét âm điệu bằng phẳng hơi đi
xuống thoai thoải (ví dụ: bàn, nhà, trà).
− Thanh không dấu là thanh cao nhất, đường nét âm điệu bằng phẳng từ khởi đầu
đến kết thúc (ví dụ: ta, bao, mua).
Sự thể hiện của thanh điệu ít nhiều chịu sự tác động của các âm vị khác cấu thành âm

tiết.
2.2. Trọng âm
Trọng âm là một phương tiện ngữ âm nhằm nêu bật âm tiết trong từ có nhiều âm tiết.
Trong tiếng Việt, mọi âm tiết đều có thanh điệu, trong tiếng Anh có trọng âm ở một âm
tiết nào đó trong từ. Ở tiếng Anh trọng âm có vai trò lớn, còn tiếng Việt có thanh điệu
nên vai trò trọng âm hạn chế hơn. Dấu trọng âm là “ ’ ” thẳng đứng, trên cao trước âm
tiết có trọng âm (ví dụ: open → /’ǝʊpǝn/). Các nhà Anh ngữ học cho rằng xác định trọng
âm bằng 4 tiêu chí chính:
− Độ vang (loudness) cho thấy âm tiết có trọng âm khi phát âm được nhấn mạnh
hơn, nghe to hơn.
− Độ dài (length) là kéo dài thời gian khi phát âm âm tiết có trọng âm.
− Độ trầm bổng (pitch) thể hiện ở tần số rung của dây thanh lúc cao, lúc thấp.
− Đặc tính riêng thể hiện ở chỗ: trong Anh ngữ , một âm tiết được nổi rõ nếu nó có
chứa một nguyên âm khác với các nguyên âm kế cận nó.
Thường thì hai tiêu chí độ trầm bổng và độ dài là có tác động rõ nhất; còn độ vang và đặc
tính riêng có tác động ít hơn.

11


PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi đã giải thích, phân tích bao quát những khác biệt, tương đồng giữa tiếng Việt và
tiếng Anh qua hai yếu tố âm vị đoạn tính và siêu đoạn tính, chúng ta đã có hiểu rõ đặc
trưng của từng ngôn ngữ như là nếu thanh điệu là đặc trưng nổi bật của tiếng Việt thì
trọng âm là đặc trưng của tiếng Anh. Từ đó, chúng ta tránh được những trường hợp mắc
lỗi khi sử dụng từ, phát âm từ, phục vụ cho công việc dịch thuật hay cơ bản nhất chính là
phục vụ cho mục đích giao tiếp của con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh
Peter Roach, (1983) English Phonetics and Phonology (A Practical course), Cambridge

University Press.
Tài liệu tiếng Việt
1) GS. Lê Quang Thiêm, (2004) Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
2) Đoàn Thiện Thuật, (1977) Ngữ âm tiếng Việt, NXB Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
3) Nhóm tác giả Cù Đình Tú, (1972) Ngữ âm học tiếng Việt hiện đại, NXB Giáo dục.

12



×