Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 39 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trong tâm thức của những người con đất Việt từ bao đời nay, Hùng Vương

là vị tổ đã có công dựng nên quốc gia Văn Lang -nhà nướcc đầu tiên, sơ khai của
dân tộc Việt Nam.Vua Hùng chính là tổ tiên chung của cả dân tộc Việt Nam ,là tổ
tiên của cộng đồng người Việt.Chính vì vậy, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã
trở thành loại hình đặc sắc trong đời sống văn hóa tâm linh và tình cảm của các thế
hệ người dân Việt Nam, vừa thiêng liêng vừa cụ thể vừa là điểm tựa tinh thần tạo
nên sức mạnh dân tộc cùng nhau dựng nước và giữ nước. Như Bác Hồ đã tổng kết
và khái quát thành chân lý của dân tộc và của cả thời đại “Các vua Hùng đã có
công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đó cũng là biểu tượng
cội nguồn khơi dậy sức mạnh đào kết và niềm tự hào dân tộc. Với người Việt, về
với đền Hùng Phú Thọ chính là cuộc hành hương trở về với cội nguồn. “ Sự tử là
để sự vinh, sự vong là để sự tồn”, quan niệm truyền thống ấy của người Việt đã
1


được lưu truyên từ thế hệ này qua thế hệ khác. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa ,
việc thờ Quốc Tổ Việt Nam chính là sự phát triển cao nhất của văn hóa thờ cúng tổ
tiên. Điều đặc biệt trong giá trị văn hóa tâm linh này chính là ý thức hướng về
nguồn cội, là sự kết nối đồng bào. Ý thức chung về nguồn cội, gắn kết những
người cùng sinh ra từ 1 bọc trứng đã theo người Việt trong quá trình Nam tiến. Thờ
cúng Hùng Vương là một tín ngưỡng có vị trí đặc biệt quan trọng trong tâm thức
đương đại, trong đời sống xã hội. Các thể chế cũng như các vương triều trong lịch
sử đều đã rất chú trọng việc thờ cúng tổ tiên. Cho nên có thể nói rằng đây là tín
ngưỡng có sức sống và nó là điểm tựa của quốc gia của cộng đồng. Đồng thời nó


cũng là điểm tựa, là sợi chỉ đỏ để tạo ra sự đoàn kết của dân tộc. Chính vì vậy lễ
hội đền Hùng được xem là đại lễ của dân tộc việt nam.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng ba mùng mười
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non này ngàn năm”
Trong cuộc đời của mỗi người dân Việt Nam, dù làm gì và sống ở đâu, ai
cũng muốn có lấy một lần trong cuộc đời có cơ hội hành hương về đền Hùng thắp
nén nhang để tưởng nhớ công ơn của các vị vua Hùng và tham dự lễ hội giỗ Tổ
Hùng Vương. Hàng năm cứ mỗi độ "Tết đến, xuân về”, trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh
linh thiêng , những người con đất Việt đều đổ về đây dâng hương để tỏ lòng thành
kính, biết ơn và tri ân của mình với các vị vua Hùng. Có lẽ trên thế giới chưa có
một nơi nào mà cả nước lại có tín ngưỡng thờ chung một Ông Tổ, có chung một tổ
2


tiên như nước Việt Nam ta. Cư dân Việt lập làng ở đâu thì lập đền thờ tổ tiên ở đó.
Vì thế mà từ Nghĩa Lĩnh đến Tây Nguyên xa xôi hay đồng bào Sông Cửu Long đều
có đền thờ Quốc Tổ, nhưng đền Hùng (Phú Thọ) luôn được coi là nơi thờ phụng
vua Hùng chính của cả nước từ xưa đến nay.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ trước đến nay luôn mang một giá
trị văn hóa đặc biệt trong thế giới tâm linh của người Việt. Không những thế nó
cũng mang những giá trị văn hóa lịch sử đáng trân trọng .Chính vì giá trị của di sản
là thể hiện lòng tôn kính đối với Tổ tiên, sức sống trường tồn và mạnh mẽ cùng
với thời gian nên “ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” đã được UNESCO công
nhận là di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ngày 6/12/2012 tại Paris.

Ngày nay, trên con đường đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới, hơn lúc nào

hết, dân tộc ta cần phải tiếp tục bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá quý báu
của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong đời sống đương đại để tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, giữ vững chủ quyền và độc lập của
quốc gia, dân tộc. Nhận thức được vai trò của tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, đặc biệt
là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành triết lý nhân văn sâu sắc, động
lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn hóa nhân
loại, cho nên tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” để làm đề tài nghiên cứu của mình. Hơn thế nữa
,là một con người của thế hệ trẻ, được tiếp xúc với nhiều cái mới , lối sống mới,
suy nghĩ mới, tuy nhiên không vì thế mà tôi quên đi cội nguồn cũng như những gì
quý báu mà cha ông ta để lại.Cho nên qua việc tìm hiểu để hoàn thành đề tài của
mình, tôi muốn hiểu rõ hơn về giá trị và ý nghĩa của lễ hội Hùng Vương, đặc biệt
là tín ngưỡng thờ cũng Hùng Vương. Bên cạnh đó khẳng định những giá trị và tôn
3


vinh giá trị văn hóa tinh thần linh thiêng của vùng đất Phú Thọ, một mảnh đất
hùng thiêng của nước Việt ta. Ngoài ra tôi muốn tìm hiểu về công cuộc giữ gìn và
phát huy giá trị văn hóa của mỗi cá nhân và các cơ quan đoàn thể ở nước ta trong
việc bảo tồn và phát huy tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ.

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến thời điểm hiện nay đã có rất nhiều tài liệu, sách, các bài báo và

các cuộc hội thảo bàn về tín ngưỡng thờ cũng Hùng Vương. Trong đó phải kể đến
cuốn “Thần người và đất Việt” (2006) của tác giả Tạ Trí Đại Trường. Cuốn sách đã
gây được tiếng vang trong học giới, vì cách liên nghĩa và cắt nghĩa tài tình các tín
lý, các biểu tượng tâm linh tưởng chừng như đã quen thuộc. Quyển sách mở ra cho

người đọc một cách nhìn về Văn hóa Tín Ngưỡng của người Việt. Từ việc thờ cúng
cỏ cây, thần sông thần núi của người Việt Cổ đến những dòng tiên tri tản mạn trong
dân gian miền Tây Nam Bộ, những giao thoa trong Văn Hóa tín ngưỡng giữa dân
tộc Việt Nam và Trung Quốc, giữa Việt Nam và nền Văn Hóa Chăm. Đặc biệt ông
nhấn mạnh sự liên tục văn hóa để thấu hiểu hiện tượng tín ngưỡng trong tính đơn
nhất và sống động của nó. Sự nghiên cứu của ông là một sự nghiên cứu các thay
đổi trong nghi thưc thờ cúng. Tác gải đã giúp chúng ta thực hiện một cuộc hành
trình đi tìm lại diện mạo các thần linh trên đất Việt từ thời tối cổ cho tới thời hiện
đại. Qua đó giúp ta hiểu thêm về tín ngưỡng thờ thần của dân tộc Việt ta.
4


Ngoài ra có Thạc sỹ Lưu Thị Minh Toàn, trưởng phòng quản lý di tích
bảo tàng khu di tích lịch sử đền Hùng, có đề tài “ Nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương tại các di tích tiêu biểu trong cả nước” (2011). Đề tài đã làm rõ giá trị
và ý nghĩa của tín ngưỡng Hùng Vương trong quá trình lịch sử dân tộc, góp phần
vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam. Góp phần chuẩn hóa
nội dung và nghi thức thờ cúng Vua Hùng tại các di tích trong cả nước.
Bên cạnh đó cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã có bài nghiên cứu về “ Tín
ngưỡng thờ cũng Hùng Vương” với tiêu đề “Căn bản triết lý đền Hùng và giỗ tổ
vua Hùng”. Bài viết đã đề cập đến việc người Việt Nam đi từ việc thờ cúng tổ tiên
đến việc tôn thờ Hùng Vương. Đó là sự tìm về với cội nguồn, là sự tôn thờ một
thời đại, tôn trọng quyền của của con người, tôn trọng quyền của người dân.
Góp phần vào lịch sử nghiên cứu tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không
thể không nhắc đến PGS.TS Đặng Việt Bích, nghiên cứu viên cao cấp Viện Văn
Hóa và Nghệ thuật Việt Nam đã có bài tham luận “ Hùng vương với sự hình thành
người Việt và tục thờ cúng Hùng Vương”( 2011). Phó trưởng phòng Văn học, Cục
Văn hóa cơ sở Lê Thị Hồng Phúc có bài nghiên cứu về “ Tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương- tìm hiểu sự thờ cúng và phát huy giá trị trong bối cảnh toàn cầu
hóa”.

Ở Việt nam hiện nay có rất nhiều tài liệu và các công trình nghiên cứu về
tín ngưỡng thờ Hùng Vương, nhưng các công trình các bài nghiên cứu đó chưa tập
trung vào các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy ín ngưỡng thờ cúng Hùng
vương. Tuy nhiên những tài liệu trên là cơ sở, tiền đề, là những gợi ý cho tôi trong
việc nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín ngướng thờ cúng
Hùng Vương”.

5


3.

Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu về “ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là muốn làm rõ giá trị

của tín ngưỡng thờ cũng Hùng Vương trong tiến trình lịch sử dân tộc.Và qua việc
tìm hiểu về lịch sử hình thành phát triển tín ngưỡng sẽ làm sáng tỏ đặc trưng riêng
của tín ngưỡng này trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Trên cơ sở đó đề tài bước đầu đề
xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Qua đó lưu giữ, kế thừa và phát huy những nét đẹp văn hóa đặc sắc trong đời sống
tâm linh người việt. Đồng thời bày tỏ quan điểm của mình về việc giữ gìn những
giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.
4.

Đối tượng-phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này đối tượng mà tôi hướng đến là “Giải pháp nhằm bảo tồn

và phát huy những giá trị văn hóa trong tín ngưỡn thờ cúng Hùng Vương”. Đề tài
được nghiên cứu trong phạm vi quần thể khu di tích đền Hùng ở xã Hy Cương,
thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là nơi thờ các vua Hùng có công dựng

nước, Tổ Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung
tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông giống như hai dãy hào thiên
nhiên khổng lồ bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Ở đề tài này tôi sẽ đi
nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên từ thế kỷ
XVIII cho đến nay, mối liên hệ giữa thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng thờ cúng vua
Hùng để chứng tỏ rằng “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” luôn trường tồn và
phát triển bền vững cho đến tận thời đại bây giờ.

5.

Phương pháp nghiên cứu

6


Với đối tượng và mục tiêu nghiên cứu đã nêu trên, tôi sẽ sử dụng một số
phương pháp nhgiên cứu cụ thể. Đầu tiên là phương pháp lịch sử-logic, tức là
nghiên cứu vấn đề theo tiến trình thơi gian Ngoài ra để hoàn thành đề tài này, tôi sử
dụng phương pháp thu thập, tập hợp tài liệu, sau đó thựcc hiện phương pháp phân
tích, tổng hợp.Từ những tư liệu thu thập được tôi lựa chọn thông tin chính xác,
phân tích đánh giá nhằm đảm bảo tính khoa học của đề tài.

6.

Bố cục

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có cấu trúc 4 chương:
Chương 1: Khái quát về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Chương 2: Lịch sử hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Chương 3: Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Chương 4: Đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam thời hiện đại

7


B. NỘI DUNG

Chương 1: Khái quát về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
1.

Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên xuất hiện từ xa xưa của lịch sử nhân loại, đã từng tồn tại ở

nhiều châu lục và nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là 1 loại tín ngưỡng phổ biến,
một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc sắc và là một phong tục truyền thống tốt
đẹp của người dân Việt Nam. Tuy nhiên khái niệm này hiện nay được hiểu theo
nhiều cách khác nhau tùy theo cách tiếp cận của mọi người. Nó được hiểu như một
niềm tin đặc biệt tạo cho ta cảm giác thiêng liêng, giúp ta có thể nhận thức được sự
vật cái mà không thể lý giải nổi, tạo cho ta một cuộc sống đặc biệt trong cuộc
sống hiện đại. Chính niềm tin đó là cơ sở tạo nền tảng sơ khai về tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Mặt khác, một số người cho rằng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một
phong tục, một tín ngưỡng. Như tác giả Toan Ánh có viết: “Tín ngướng thờ cúng tổ
tiên là một tôn giáo. Thờ phụng tổ tiên do lòng thành kính và biết ơn của con cháu
đối với cha mẹ,ông bà, cụ kị đã khuất” [4;5]. Nhưng học giả Đặng Nghiêm Vạn
cho rằng thờ cúng tổ tiên là một tôn giáo nằm trong hệ thống tôn giáo dân tộc.
Ông khẳng định “thờ cúng tổ tiên là một tôn gióa chính thống của ngườ Việ Nam,
tuy nó không có tổ chức chặt chẽ nhưng dường như toàn bộ cộng đồng quan niệm
tiến hành các lễ thức giống nhau và là tâm linh chủ yếu của cộng đồng, là lực hút
các yếu tố ngoại sinh hay là những yếu tố gia nhập vào các tôn giáo” [30;29].


8


Tuy nhiên dù có quan niệm thờ cúng tổ tiên như nột tôn giáo một tín ngưỡng, một
phong tục hay một luật tục thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn là một truuyền
thống, một nét văn hóa đẹp trong đời sống tinh thần của người dân đất Việt.
1.2.

Nguồn gốc hình thành tín ngưỡng thờ tổ tiên
Cho đến nay việc xác định nguồn gốc sự ra dời của tín ngưỡng thờ cúng

tổ tiên vẫn chưa được thống nhất. Tuy vậy nhiều người cho rằng cơ sở quan trọng
đầu tiên cho việc hình thành bất kì tín ngưỡng nào đều xuất phát từ quan niệm tâm
linh của con người. Khi bắt đầu xã hội loài người là thời gian bắt đầu hình thành
tín ngưỡng, tuy chỉ là hình thức sơ khai gắn với tổ chức thị tộc, nhưng càng về sau
khi xã hội phát triển, con người có nhận thức mới, họ coi cái chết không phải là kết
thúc mà đó là là sự tiếp nối của một cuộc sống ở thế giới khác. Con người ngoài
phần thể xác còn có cả linh hồn.Khi con người chết đi linh hồn vẫn tồn tại ở thế
giới bên kia và linh hồn cũng có nhu cầu sinh hoạt như thế giới bên này của người
sống. Vì vậy dần dần hình thành nên tục thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình, họ,chi
và họ.
Nguồn gốc thư hai đẫn đến sự hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
chính là gắn với vai trò của người đàn ông trong gia đình. Trong thời kì công xã thị
tộc phụ hệ, người đàn ông nắm vai trò quản lý gia đình từ săn bắt, trồng trọt để nuôi
sống gia đình. Rồi những người con trai ra đời và họ tiếp tục ý thức về vai trò cũng
như quyền uy của người đàn ông trong gia đình. Từ đó tuc thờ cúng tổ tiên ra đời.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hình thành và phát triển dựa
trên quan niệm tâm linh cũng như trên nền tảng kinh tế xã hội. Vì vậy tín ngưỡng
này được bảo tồn và phát triển trong suốt tiến trình lịch sử và biến đổi phù hợp với

xu thế của thời đại.
1.3.

Nét độc đáo của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

9


Ở Việt Nam, từ hàng ngàn năm nay, tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
vẫn đã và đang luôn luôn được coi là một yếu tố hết sức quan trọng trong đời sống
tâm linh của mỗi người và mỗi gia đình , mỗi dòng tộc. Hình thức cơ bản của tín
ngưỡng này là việc lập bàn thờ tại mỗi gia đình, tại nhà thờ của mỗi dòng họ và
thực hành những nghi lễ thờ cúng trong mọi chu kỳ của đời người như sinh nở,
trưởng thành, cưới xin, tang ma…cùng mọi chu kỳ tự nhiên như đón năm mới.
Nghi lễ thờ cúng tổ tiên còn trở thành một hoạt động thường nhật không thể thiếu
nhằm có thêm được sự ủng hộ, sự may mắn như khi bắt đầu làm một công việc gì
đó như xây dựng, sản xuất, chữa bệnh, học hành thi cử, mua bán…với mong muốn
giảm bớt sự thiếu may mắn , hoặc chia vui , cảm ơn linh hồn người đã mất đã góp
phần tạo lập những kết quả, những sự thành công…Như vậy, đối với người Việt
Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không phải là tôn giáo mà là một tập tục truyền
thống, một đạo lý cơ bản của mỗi người và mỗi gia đình.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo quan niệm huyết thống của mỗi gia đình,
mỗi dòng tộc đã tạo nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của cả cộng đồng làng xã, của
tất cả những người có quan hệ huyết thống với nhau. Và đối tượng của cộng đồng
làng xã không phải chỉ có những người đã sinh ra họ mà là những nhân vật được
toàn thể cộng đồng thừa nhận và suy tôn thành Thành Hoàng. Thành Hoàng thường
được thờ tại đình làng, ngôi nhà thờ chung của cả cộng đồng, có quy mô lớn hơn so
với các nhà thờ tổ tiên của dòng họ mỗi gia đình. Mục đích cơ bản của việc thờ
cúng Thành Hoàng làng là để bày tỏ sự ngưỡng mộ của cả cộng đồng với công lao
của người được thờ phụng. Đồng thời mong muốn có được sự phù hộ từ những

người họ thờ cúng. Và do vậy việc thờ cúng tổ tiên mang một ý nghĩa, một giá trị
văn hóa tinh thần sâu sắc.

1.4.

Ý nghĩa của việc thờ cúng tổ tiên
10


Việc thờ cúng tổ tiên của cộng đồng dân tộc Việt không phải ngẫu nhiên nó
trường tồn và phát triển bền bỉ trong đời sống tâm linh của mỗi người, mà bởi vì nó
mang nhiều ý ngĩa sâu sắc. Đầu tiên, nó thể hiện lòng hiếu thảo của con cái với ông
bà và bố mẹ,tổ tiên; thể hiện sự hòa thuận của anh em trong một gia đình, một dòng
tộc. Ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người, thờ cúng tổ tiên là biểu
hiện của sự hướng về, tìm về với cội nguồn. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần đã
trở thành nghi thức, tập tục. Nó có ý nghĩa nhắc nhở con cháu phải luôn nhớ về
công lao của những người đã khuất, đồng thời nhắc nhở mội người luôn phải có
trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai. Đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, những
người vẫn luôn tiếp xúc với cái mới của xã hội, thì tục thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa
nhắc nhở họ luôn hướng về cội nguồn mình, không được quên tổ tiên trên cơ sở sự
tiếp thu văn minh của nhân loại.
Tiểu kết: Như vậy việc thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ củng cố quan hệ trong gia đình, dòng
họ mà nó còn còn khẳng định tính cộng đồng trong làng xã. Đặc biệt thông qua
nghi lễ thờ cúng tổ tiên, cư dân Việt muốn gửi gắm tình cảm sâu đậm trong đạo lý
“ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “ Uống nước nhớ nguồn”.

Chương 2: Lịch sử hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương
2.1.


Tín ngưỡng Hùng Vương từ thế kỉ XVIII tới những năm đầu của thế kỉ
XX
Có thể thấy rằng từ thế kỉ XVIII, Tín ngưỡng thờ các Vua Hùng đã được

quan tâm và ngày càng phát triển, nó trở thành một hệ thống những hoạt động văn
11


hoá có ý nghĩa đặc biệt và phong phú, mạnh mẽ ở Khu di tích Đền Hùng lúc
đương thời. Còn một loạt văn bản triều đình nữa, cũng nhằm tôn vinh và đặc biệt
là quảng bá chủ đề Tín ngưỡng Hùng Vương nhằm tạo ra một vùng miền tín
ngưỡng và sinh hoạt văn hoá theo chủ đề này, làm nền và mở rộng địa bàn cho
điểm trung tâm của văn hoá tín ngưỡng này: Khu di tích Đền Hùng – đó là những
bản thần tích. Có chủ đề là sự tích cácVua Hùng và thời đại Hùng Vương, đồng
thời mang hình thức diễn đạt là những câu chyện truyền kì, với những văn phong
đầy tính thần bí, được gieo vào giữa môi trường của trình độ dân trí và thị hiếu
tinh thần.
Sang đến thế kỷ thứ XIX, dựa trên sự kế thừa và nhân đà phát triển đã có
từ trước đấy, là một tâm điểm, trọng điểm của văn hóa – tín ngưỡng theo chủ đề
Các Vua Hùng và thời đại Hùng Vương. Những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng và
những công trình tín ngưỡng Vua Hùng trong vòng trăm năm của thế kỷ thứ XIX
đã được nâng lên và có hướng lan tỏa rộng lớn. Về phương diện tinh thần: một
hiện tượng đặc sắc trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần theo chủ tín ngưỡng
các Vua Hùng là sự đua nhau của nhiều người và nhiều địa phương tìm nhận các
Vua Hùng cùng các nhân vật thời đại Hùng Vương có công với nước để phù hộ
cho công đồng cư dân của địa phương mình.Có nhiều làng ở xung quanh Đền
Hùng và thậm chí xa khu vực Đền Hùng, đã đón nhận và tiếp nhận Hùng Vương
hoặc vợ con tướng lĩnh của Hùng Vương thể hiện tâm thức hướng về cội nguồn
dân tộc - hướng về Hùng Vương. Theo thống kê của Viện Hán Nôm thì vào cuối

thế kỉ XIX- đầu thế kỷ XX, có tới 381 làng thực hiện tín ngưỡng thờ Hùng
Vương. . Cụ thể những tỉnh như sau : -Tỉnh phú Thọ có 37 nơi. -Tỉnh Phúc yên có
23 nơi. -Tỉnh Sơn Tây có 36 nơi. -Tỉnh Bắc Nimh có 42 nơi. -Tỉnh Hà nam có 32
nơi. -Tỉnh Hà Đông có 63 nơi. -Tỉnh Hưng Yên có 41 nơi. -Tỉnh Thái Bình có 33
nơi. - Tỉnh Thanh Hóa có 2 nơi -Tỉnh Nghệ An có 2 nơi.

12


Về mặt văn hóa vật thể: bức tranh xây dựng tín ngưỡng tưởng niệm Vua Hùng
và thời Hùng Vương không chỉ có ở khu vực Đền Hùng, mà còn có tới nhiều địa
phương khác trong toàn quốc suốt thế kỷ XIX. Con số thống kê hơn 1000 di tích
thờ Hùng Vương và thời Hùng Vương ở nhiều địa phương còn tồn tại đến ngày
nay, chính là nhờ vào sự xuất hiện đại trà và dồn dập của những di tích ấy ở vào
thế kỷ này. Tín ngưỡng Hùng Vương chính là chủ đề cho nhiều di tích văn hóa vật
thể khác xuất hiện ở nhiều nơi.
Về giá trị văn hóa phi vật thể: thế kỷ thứ XIX là sự hội tụ những truyền
thuyết thiêng liêng cao quý, và sự triển khai những lễ hội tưng bừng. Từ chỗ là
trung tâm địa bàn của lễ hội của mấy làng rồi một vùng dưới chân núi Cả (núi
Hùng), trong đó chủ yếu là làng Cả, Đền Hùng (và Khu di tích Đền Hùng ) dần trở
thành trung tâm lễ hội Hùng Vương trong cả nước, cả dân tộc.Thế kỷ XIX là bản lề
của sự thăng hoa đó.
2.2.

Tín ngưỡng Hùng Vương nửa đầu thế kỉ XX
Thế kỉ XX là một thế kỉ đầy biến động lịch sử quan trọng. Ở Việt Nam đây

là một thế kỉ của lòng yêu nước và ý thức dân tộc. Sự xâm lược và nô dịch của
ngoại bang ở nửa đầu thế kỉ XX đã làm dấy lên những phong trào đấu tranh của
các sĩ phu yêu nước và các trí thức có tinh thần yêu nước dân chủ. Một thời kì của

“Hai cụ Phan”, của các phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa Thục, Duy Tân đất
nước… Những sĩ phu yêu nước lãnh đạo các phong trào đấu tranh lúc đó đã tiếp
cận với Tín ngưỡng Hùng Vương và Đền Hùng bằng tinh thần yêu nước và truyền
thống “cội nguồn”, đã làm cho Đền Hùng và tín ngưỡng Hùng Vương không
những phát triển thêm những giá trị truyền thống của chính Đền Hùng mà còn tiếp
tục làm cho thăng hoa hơn “Tín ngưỡng Hùng Vương”.

13


Thế kỉ XX là thời gian để cho Đền Hùng và tín ngưỡng Hùng Vương trở
thành động lực tinh thần của người Việt Nam vượt qua các thăng trầm của thời đại.
Để dần trở thành một địa điểm văn hoá tín ngưỡng trung tâm, đồng thời có tính
chất và ý nghĩa chính trị, xã hội lớn lao của cả đất nước và dân tộc Việt Nam
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được hình thành vào đầu thế
kỉ XX, một phương diện về lòng tin của dân tộc. Tín ngưỡng Hùng Vương với sự
tồn tại hiển nhiên qua các thế kỉ, là minh chứng của thời đại Hùng Vương trong
niềm tin của dân tộc ta vào truyền thống lịch sử. Dù thời đại Hùng Vương cho đến
đầu thế kỉ XX vẫn còn là những điều ghi chép chưa mấy chuẩn xác trong lịch sử
nhưng điều quan trọng là còn có chứng tích – chính là nhờ vào sự tồn tại của các
dạng di tích Đền Hùng.

2.3.

Tín ngưỡng Hùng Vương từ nửa sau thế kỉ XX đến nay
Đền Hùng trở thành một biểu tượng thiêng liêng có giá trị văn hóa- tinh

thần lớn lao, thể hiện sức mạnh, niềm tự hào của khối đoàn kết toàn dân vào truyền
thống lịch sử lâu đời của dân tộc ta. Yêu nước đồng nghĩa với yêu truyền thống
lịch sử, yêu Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, yêu quê hương xứ sở. vào năm 1941, Đền

Hùng và lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương lần đầu tiên được chứng kiến một sự kiện, vừa
là sự tinh kết của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần Cách Mạng, vừa là dấu hiệu tiêu
biểu của hành động cách mạng, bắt đầu từ đây, chọn lựa và gắn kết - Đền hùng nơi
huyệt đạo của tín ngưỡng thờ Tổ Tiên thiêng liêng. Tới năm 1945, khi giành được
chính quyền của thực dân –phong kiến, thành lập chính quyền của nhân dân. Ở
miền Nam: đền thờ Các Vua Hùng trong thời kỳ cách mạng, nhờ tấm lòng người
dân Nam Bộ và những người miền Bắc di cư được xây dựng ở nhiều địa phương,
điều đó khẳng định sự thống nhất của dân tộc, tất cả người Việt Nam dù ở miền
14


Bắc, miền Trung, miền Nam vẫn là chung một nguồn gốc tổ tiên. Tại tỉnh Lâm
Đồng từ năm 1951 đến năm 1958, đã xây dựng 2 đền thờ Vua Hùng: Đền thờ Vua
Hùng tại số 93- Ngô Quyền-Tp Đà Lạt được xây dựng vào năm 1957-1958. Đền
thờ Vua Hùng tại TP.Nha Trang được xây dựng từ năm 1971 với nguồn kinh phí
đóng góp của nhân dân TP. Nha Trang. Năm 1973 được xây dựng mở rộng thêm,
quy mô kiến trức xây dựng còn tồn tại đến hôm nay. Văn hóa dân tộc với Tín
ngưỡng thờ Tổ tiên – Các Vua Hùng – là đạo lý “Cội nguồn”, trở thành điều sống
còn, tồn vong của đất nước từ bao đời nay

Tiểu kết: “ Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” trong suốt giai đoạn từ thế kỉ
XVIII đến nay đã trải qua biết bao khó khăn, biết bao cuộc chiến tranh xâm lược
nhưng nó vẫn trường tồn và phát triển tốt đẹp. Đó là nhờ có nhân dân cả nước đã
đông tâm hiệp lực chống giặc và cùng nhau hình thành và giữ vững những giá trị
của Tín ngưỡng thờ vua Hùng- Ông Tổ của nước Việt Nam ta. Điều đó càng chứng
tỏ dân ta luôn hướng về cội nguồn của dân tộc để tín ngưỡng này phát triển cho
đến ngày hôm nay.

Chương 3: Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
3.1.


Kết quả về địa bàn nghiên cứu
3.1.1.
Vị trí địa lí
Nghi lễ thờ cúng vua Hùng được diễn ra hàng năm vào ngày mùng 10

tháng 3 tại khu di tích lịch sử Đền Hùng, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì , tỉnh
Phú Thọ. Đó là một vùng đất lịch sử, đất phát tích của dân tộc Việt Nam. Mảnh đất
“Hồn thiêng song núi” Phú Thọ chứa đựng các dấu tích văn hóa vật thể và phi vật
thể. Đó là vùng đất của các di khảo cổ học tiêu biểu của thời kỳ các vua Hùng
15


dựng nước như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Làng Cả… mà trong lòng nó
chứa đựng rất nhiều vật vô giá để minh chứng sự ra đời và phát triển của đất nước
ta trong buổi bình minh lịch sử - thời đại Hùng Vương dựng nước Văn Lang. Quả
thực, đây là vùng đất "sơn châu, thủy tụ", vừa hùng vĩ đẹp tựa tranh. Núi Hùng cao
175m, xung quanh là một vùng bao la, những quả đồi trọc ở phía ngã ba Việt Trì
nhấp nhô . Bên phải là đồi Khang Phụ trông giống như con hổ, mình rồng uốn lượn
thành núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo. Phía sau núi Hùng có những quả đồi lớn san sát
nối liền dài tới 10km giống như đàn voi chầu về Đất Tổ, phía trước là ngã ba Bạch
Hạc với sự hợp lưu của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc: sông Hồng, sông Lô,
sông Đà tạo ra một vùng nước lớn mênh mông, từ đó có những quả đồi thấp lô nhô
giống như một đàn rùa nước bò lên trầu về Nghĩa Lĩnh. Phía Đông xa mờ là dãy
Tam Đảo trùng điệp (núi mẹ), xa về phía nam là dãy Ba Vì cao ngất (núi cha) tụ
lại. Sát núi Hùng còn có những quả đồi như phượng cặp như (Tiên Kiên), hổ phục
(Khang Phụ - Chu Hoá). Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn
thuỷ tụ hội. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng
rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ hữu tình. Tương truyền vua Hùng đã đi khắp
mọi miền, về đây chọn làm đất đóng đô.

3.1.2.

Điều kiện tự nhiên

*Đặc điểm địa hình

Phú Thọ là tỉnh miền núi, trung du nên địa hình bị chia cắt, được chia thành
tiểu vùng chủ yếu. Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam của Phú Thọ, tuy gặp
một số khó khăn về việc đi lại, giao lưu song ở vùng này lại có nhiều tiềm năng
phát triển lâm nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển kinh tế trang trại. Tiểu
vùng gò, đồi thấp bị chia cắt nhiều, xen kẽ là đồng ruộng và dải đồng bằng ven
16


sông Hồng, hữu Lô, tả Đáy. Vùng này thuận lợi cho việc trồng các loại cây công
nghiệp, phát triển cây lương thực và chăn nuôi.

*Khí hậu
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có một mùa đông lạnh.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23 0C, lượng mưa trung bình trong năm khoảng
1.600 đến 1.800 mm. Độ ẩm trung bình trong năm tương đối lớn, khoảng 85 –
87%. Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật
nuôi đa dạng

3.2.

Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Khởi nguồn từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người Việt đã thờ cúng Vua

Hùng là ông Tổ khai sinh ra đất nước dân tộc Việt Nam. Ý thức tín ngưỡng thờ

cúng Vua Hùng đã thấm vào máu thịt của cộng đồng người Việt, được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hình tượng Vua Hùng đã gắn chặt với hồn thiêng
sông núi đất Việt. Hàng ngàn năm trước, các vua Hùng đã chọn ngọn núi Nghĩa
Linh, ngọn núi cao nhất trong khu vực kinh đô Văn Lang xưa để thực hiện các nghi
lễ theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thời bấy giờ. Sau này để ghi nhớ công
ơn các vua Hùng, con cháu đã lập đền thờ để thờ phụng các vị vua với mong muốn
thể hiện sự biết ơn với họ. Từ trung tâm thờ tự các vị vua đầu tiên trên ngọn núi
Nghĩa Linh, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần dần lan tỏa khắp các tỉnh thành
khác trên đất nước Việt Nam ta. Cho đến tận ngày hôn nay, cứ đến ngày 10 tháng 3
âm lịch hàng năm, hàng nghìn người từ khắp nơi trên cả nước lại nô nức hành
hương về vùng đất phú thọ để bày tỏ sự tri ân của mình với các vị vua Hùng. Chính
17


vì thực tế đó, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tồn tại và phát triển trong cuộc
sống cộng đông người Việt và đã trở thành hình thức sinh hoạt tín ngưỡng đặc sắc
của dân tộc Việt Nam

3.3.

Đặc điểm của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương từ lâu đã trở thành tín ngưỡng thờ

Quốc Tổ của cả dân tộc Việt.Có lẽ trên thế giới Việt Nam là nước duy nhất thờ
chung một ông Tổ và có chung một nguồn gốc. Điều đó thực sự trở thành một
điểm đặc trưng, một nét khác biệt của nước ta. Từ hàng ngàn đời nay, trong đời
sống tâm linh của người việt, vua Hùng luôn vó một vị trí đặc biệt quan trọng.
Chính vì thể việc thờ cúng Quốc Tổ Hùng Vương đã được cộng đồng người Việt
thực hiện trên địa bàn cả nước. Tuy nhiên việc thờ cúng chủ yếu và quan trọng nhất
được diễn ra ở khu di tích lịch sử đền Hùng( Phú Thọ). Và đại lễ này được diễn ra

long trọng vào mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm và được sự quan tâm của tất cả
đồng bào dân tộc Việt Nam, những người con cùng được sinh ra từ 1 bọc trứng.

3.4.

Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Việc thờ phụng các vua Hùng là nhằm thoả mãn được nhu cầu tâm linh của

con người. Xưa kia, người Việt nói chung và cư dân Phú Thọ nói riêng đề sinh
sống chủ yếu bằng canh tác ruộng nước nên sự tác động của tự nhiên như: hạn hán,
mưa bão, thiên tai… ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống. Trong điều kiện xã hội cổ
truyền còn lạc hậu, con người bất lực trước thiên nhiên.Vì thế họ đã dặt niềm tin và
cầu mong sự phù hộ của các thần linh, sự che chở của các vua Hùng. Ngày nay,
khoa học kỹ thuật đã hiện đại (ở một chừng mực nào đó có thể cải tạo và làm chủ
được tự nhiên), trình độ nhận thức về thế giới xung quanh đã cao hơn nhưng có vẻ
18


như niềm tin vào thần linh, vào tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của người Việt
không suy giảm.Như vậy, không chỉ có con người thời nguyên thuỷ, hay con người
thời phong kiến mới có niềm tin vào thần thánh mà cho đến thời hiện đại, con
người ở thế kỷ XXI vẫn đặt niềm tin, hi vọng vào sự che chở của thánh thần.
Việc thờ phụng các vua Hùng, con vua và các tướng lĩnh.
Lễ hội Đền Hùng thực chất là tôn thờ tinh thần đoàn kết, tài trí, biểu
dương sức mạnh cộng đồng… đại diện cho quốc gia, dân tộc. Việc thờ phụng các
vua Hùng, đặc biệt là lễ hội Đền Hùng còn là môi trường để con người sáng tạo và
hưởng thụ văn hoá, nơi gìn giữ và nuôi dưỡng những giá trị văn hoá dân gian đặc
sắc như hát xoan, đâm đuống… Đó là nơi bảo tồn, lưu giữ và trao truyền các giá trị
tinh hoa văn hoá của dân tộc từ thế hệ này qua thế hệ khác.


3.5.

Ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Theo truyền thuyết kể lại Lạc Long Quân - con trai của Kinh Dương
Vương Lộc Tục lấy nàng Âu Cơ - con gái Vua Đế Lai rồi sinh ra một bọc trăm
trứng, nở thành trăm người con trai, 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người theo
cha xuống biển lập nghiệp. Người con cả theo mẹ lên vùng đất Phong Châu (nay là
Phú Thọ) lập ra nước Văn Lang và được tôn làm Vua Hùng. Văn Lang là nhà nước
đầu tiên trong lịch sử của người Việt, được cai trị bởi 18 đời vua. Các vua Hùng
đều đã dạy dân trồng lúa nước và chọn núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất vùng để
thực hiện những nghi lễ theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa,
thần mặt trời để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nảy
nở. Nhằm ghi nhớ, tưởng niệm công đức của các vị Vua Hùng, nhân dân đã lập đền
thờ tưởng niệm (khu di tích lịch sử đền Hùng) mà trung tâm là núi Nghĩa Lĩnh và
lấy ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ. Từ trung tâm thờ tự đầu tiên
19


này, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương dần lan tỏa, có sức sống lâu bền từ đời này
qua đời khác, từ đồng bằng lên miền núi, từ Bắc vào Nam, từ trong nước ra nước
ngoài. Đất nước có lúc thịnh lúc suy, có lúc bị giặc ngoại xâm thống trị nhưng Tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn được các thế hệ duy trì đến tận ngày nay và còn
mãi đến muôn đời sau. Cho nên tín ngưỡng thờ cúng này mang nhiều ý nghĩa nhân
văn sâu sắc.
Ý nghĩa đặc trưng của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là ý thức nhớ về
cội nguồn dân tộc “Ăn quả nhớ người trồng cây”; “Uống nước nhớ nguồn”, sự kết
nối cộng đồng hình thành nên tính đại diện cộng đồng sâu sắc. Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương có không gian văn hóa rộng lớn, trải dài khắp cả nước, từ Bắc
vào Nam; không có biên giới; không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài,

nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Điều đó đã tạo nên triết lý nhân văn sâu
sắc, động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn
hóa nhân loại.
Việc thờ cúng Hùng Vương là biểu hiện tình cảm, sự biết ơn và sự tri ân
công đức các Vua Hùng có công khai quốc, sinh dân. Thông qua nghi lễ thờ cúng
nhằm xác lập mối liên hệ dòng tộc giữa các Vua Hùng với mọi thế hệ trong cộng
đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Mối liên hệ ấy là sợi dây liên
kết tinh thần giữa thời đại Hùng Vương và thời đại Hồ Chí Minh, phản ánh quan
niệm sống của người Việt Nam: trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, tình yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có những đóng góp quan trọng cho việc
thực hành các chức năng xã hội của văn hóa. Trước hết là các giá trị về nhận thức,
giáo dục, đào luyện nhân cách văn hóa, định hướng hành vi con người, chuyển
hóa các giá trị đạo đức thành hành động cho các cá nhân, các nhóm cộng đồng xã
hội. Tiếp đến, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và lễ hội đền Hùng còn trực tiếp
20


tác động đến việc hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam. Đó là “Lòng yêu nước
nồng nàn, ý thức tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản
dị trong lối sống”. Nhưng có lẽ, lòng yêu nước nồng nàn là truyền thống tốt đẹp
nhất trong bảng giá trị văn hóa Việt Nam. Tuy rằng, yếu tố quyết định làm nên bản
sắc văn hóa dân tộc, làm cho nó không giống các quốc gia, dân tộc khác phải là cả
hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống. Nhưng chỉ xét riêng lĩnh vực hoạt động
tôn giáo, tín ngưỡng, thì đền Hùng đã là một hiện tượng văn hóa độc đáo của Việt
Nam mà ta rất ít thấy ở các quốc gia khác. Trên thế giới, hiếm có loại hình tín
ngưỡng dân gian nào tạo được sự đồng thuận và nhất quán giữa cộng đồng và nhà
nước lại trải qua nhiều thể chế chính trị - xã hội như hiện tượng đền Hùng và lễ

hội đền Hùng

3.6. Thống kê các di tích tiêu biểu thờ Hùng Vương trong cả nước
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã và đang rất phổ biến trên khắp cả
nước ta. Theo như bước kiểm kê bước đầu của Cục Văn hóa Cơ sở thuộc Bộ Văn
hóa thể thao và Du lịch và Sở Văn hóa thể thao và du lịch Phú Thọ thì cả nước có
khoảng 1417 địa điểm có di tích thờ Vua Hùng. Bởi theo quan niệm của nhân dân
ta thì cư dân sinh sống và ổn định cuộc sống ở đâu thì sẽ lập đền thờ tổ tiên ở đó,
nên số lượng các di tích có đền thờ vua Hùng rất lớn. Nó kéo dài và trải rộng trên
khắp các tỉnh của Tổ Quốc. Tính nguyên trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện có 326 di
tích thờ Vua Hùng và các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương ở Việt
Nam. Trong đó, huyện Lâm Thao có 46 địa điểm; huyện Phù Ninh có 54 địa
điểm; thành phố Việt Trì 32 địa điểm; thị xã Phú Thọ 11 địa điểm; huyện Đoan
21


Hùng 20 địa điểm; huyện Cẩm khê 38 địa điểm…Tuy nhiên trong số đó , đền
Hùng (xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, Phú Thọ) là trung tâm thực hành nghi lễ
tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lớn nhất và lâu đời nhất Việt Nam. Ngoài ra,
các di tích thờ cúng Hùng Vương cũng rất phổ biến trên địa bàn các tỉnh trong cả
nước. Ví dụ như đền thờ vua Hùng ở Kiên Giang( Đồng Bằng Sông Cửu Long)
hay như đền thòe ở xã Tân Phú, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; Đền thờ Hùng
Vương tại số 55 đường Nguyễn Thị Minh Khai quận 1 (Công viên Văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh); đền thờ Quốc Tổ ở Biên Hòa, Đồng Nai…Mặc dù các đền thờ
Hùng Vương không ở chung cùng một địa điểm nhất định nhưng các hoạt động thờ
cúng, tế lễ luôn được diễn ra sôi nổi khắp mọi nơi. Từ thực tế này càng chứng tỏ con
dân cháu Tiên luôn hướng về cội nguồn, luôn biết ơn tổ tiên dù ở đâu, ở bất cứ nơi
nào của Tổ Quốc. Điều này thể hiện rõ sự đoàn kết , đồng lòng, tấm lòng thành kính
biết ơn sâu sắc của mỗi con người Việt Nam. Con số thống kê nêu trên một mặt cho
phép chúng ta tự hào về sự giàu có, phong phú và đa dạng trong kho tàng di sản

văn hóa dân tộc. Mặt khác, đó cũng là thách thức lớn lao mà thế hệ của chúng ta
hôm nay phải cùng nhân dân Phú Thọ nỗ lực vượt qua. Với điều kiện kinh tế - xã
hội của đất
Có thể thấy rằng, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành bản sắc
văn hóa đặc biệt của dân tộc Việt Nam . Truyền thống thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡn
thờ cúng vua Hùng đã thấm sâu vào trong tâm khảm của mỗi “con dân Đất Việt”.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành một nhu cầu về tâm linh và tình
cảm không thể thiếu được và là phẩm chất đạo đức, là ý chí đoàn kết, cố kết cộng
đồng thành một quốc gia - dân tộc Việt Nam hôm nay. Tín ngưỡng truyền thống
thiêng liêng ấy đã tạo nên sức mạnh vật chất và động lực tinh thần vô song để dân
tộc ta có đủ "sức mạnh và của cải, tinh thần và nghị lực" để vượt qua "muôn trùng
sóng gió, phong ba", làm rạng rỡ non sông gấm vóc Việt Nam.
22


Chương 4: Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín ngưỡng
thờ cúng Hùng Vương trong đời sống văn hóa tinh thần
của người Việt thời nay
Bảo tồn Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương chính là truyền thống văn hoá
đặc biệt của nước Việt Nam. Nó thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và ý thức tôn vinh
kính trọng công lao dựng nước của các Vua Hùng và các thế hệ cha ông; cũng là
nền tảng tâm linh vững chắc để củng cố và phát triển phẩm chất, nhân cách của
mỗi con người Việt Nam, góp phần giáo dục truyền thống "yêu nước, thương nòi"
cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mãi mãi mai sau; để dân tộc Việt Nam mãi
mãi là khối sức mạnh đại đoàn kết vững chắc chống lại mọi thế lực thù địch để
trường tồn tiến bước.Việc “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương tại Phú Thọ” được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã chứng
tỏ sức sống của văn hóa Việt Nam, gắn với dòng chảy văn hóa hội nhập vào thế
giới. Đây cũng là một dấu mốc, là động lực giúp công tác bảo tồn và phát huy
những giá trị của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đạt hiệu quả cao hơn. Ngày

nay, trên con đường đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới, hơn lúc nào hết, dân tộc
ta cần phải tiếp tục bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá quý báu của tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trong đời sống đương đại để tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, giữ vững chủ quyền và độc lập của quốc
23


gia, dân tộc. Vậy tôi xin đưa ra một số giải pháp để bảo tốn và phát huy tín ngưỡng
thờ cúng Hùng Vương như sau:

.

4.1.

Giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy tín ngưỡng ở địa bàn khu
di tích Đền Hùng
4.1.1. Quản lý việc sử dụng và bảo vệ khu di tích thờ Hùng
Vương trên đất Phú Thọ

Để mở rộng và phát huy giá trị của tín ngưỡng thờ Quốc Tổ của dân tộc,
các sở, ban, nghành của tỉnh Phú Thọ sẽ kết hợp với Bộ văn hoá thể thao và du lịch
và các nghành có liên quan tiến hành một số biện pháp sau:
Lập hồ sơ xếp hạng, quản lý, bảo vệ các di tích thờ Hùng Vương trên địa
bàn Phú Thọ để từ đó, xây dựng và ban hành những văn bản pháp lý theo thẩm
quyền thực hiện theo đúng luật di sản văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị của các di
sản văn hóa này.
Phối hợp với các cơ quan chức năng soạn thảo các quy chế, chính sách phát
triển tín ngưỡng Hùng Vương trên địa bàn tỉnh Phú Thọ: các hoạt động đầu tư, hợp
tác đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, tổ chức quản lí, bảo vệ tôn tạo và phát triển
hệ thống các di tích, di sản thờ tín ngưỡng… để uỷ ban nhân dân hoặc chính phủ

phê duyệt.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành phân cấp quản lí trong công tác tu bổ,
phục hồi, bảo vệ di tích, di vật có trong di tích để phát huy giá trị của các di tích

24


trong mọi thời đại. Trên cơ sở đó ban hành các quy chế, các văn bản có liên quan
đến bảo vệ, tôn tạo di tích, di sản văn hóa đó.
Ban quản lí khu di tích có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, ban, ngành
và chính quyền cấp cơ sở tại địa phương như: Sở tài chính, Cục thuế, Sở văn hoá
thể thao và du lịch… tham mưu giúp UBND tỉnh xây dựng các mức thu phí, lệ phí
thăm quan du lịch theo quy định của pháp luật và trình cơ quan quản lí Nhà nước
có thẩm quyền quyết định
Thực hiện tốt các biện pháp quản lí và bảo vệ khu di tích thờ tín ngưỡng
Hùng Vương như trên có tác động rất lớn đến sự phát triển của tín ngưỡng đặc sắc
này. Như vậy, cùng với sự phát triển đi lên không ngừng của khu di tích theo qui
luật phát triển đi lên của đất nước, con người Việt Nam, việc quan tâm, xây dựng
các tổ chức quản lí cũng luôn phải lớn theo sự phát triển của di tích.
4.1.2.

Tôn tạo, tu sửa Đền Hùng và Khu di tích Đền Hùng

Đền Hùng đã trở thành một trọng điểm đầu tư xây dựng các hạng mục công trình
văn hóa của cả nước, đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ quản lí, phát huy tác dụng
của khu di tích này.. Công tác tôn tạo, tu sửa các kiến trúc đền, chùa trên núi Hùng
tuân thủ theo nguyên tắc bảo tồn một cách nghiêm túc. Việc đại trùng tu các cơ sở
kiến trúc thượng tầng là các đền, chùa trên núi Hùng trong thời hiện tại không làm
phá vỡ cảnh quan diện mạo của khu di tích
4.1.3.


Bảo vệ tập quán xã hội, nghi lễ và lễ hội thờ cúng Hùng
Vương

Từ khi tiếp cận với những quan điểm của quốc tế, của UNESCO và đặc
biệt từ khi có Công ước 2003, quá trình nhận thức và hành động bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam diễn ra rất nhanh, mạnh mẽ và đem lại những kết quả
25


×