Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Rào cản thương mại phi thuế quan của nhật bản đối với hàng thủy sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.35 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính tất yếu của việc chọn đề tài
Về mặt cơ sở lí luận, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế không một
quốc gia nào có thể phủ nhận lợi ích mà thương mại đem lại cho mình.Và trong
môi trường cạnh tranh gay gắt và khốc liệt đó, các quốc gia liên tục cải thiện các
chính sách thương mại quốc tế của mình nhằm thích nghi với điều kiện thương
mại của thế giới và phù hợp với trình độ phát triển của quốc gia. Để thực hiện
các mục tiêu chính sách thương mại của quốc gia mình, người ta thường sử
dụng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau: các công cụ và biện pháp mang
tính chất kinh tế; các công cụ và biện pháp mang tính chất hành chính; và các
công cụ và biện pháp mang tính chất kỹ thuật.
Công cụ quen thuộc nhất mà người ta hay sử dụng đó là thuế quan và công
cụ phi thuế. Việc áp dụng các công cụ này sẽ nhằm hạn chế lượng hàng hóa
được nhập khẩu vào trong thị trường nội địa và các quốc gia có thể bảo hộ
ngành công nghiệp nội địa của mình. Tuy nhiên khi các quốc gia đã là thành
viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì các nước đều thực hiện cắt
giảm thuế theo tiến trình được quy định, do vậy họ sử dụng các công cụ khác
nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước. Các công cụ phi thuế được viết tắt là
NTBs (None Tariff Barriers) có ảnh hưởng lớn lên thương mại, ví dụ: hạn
ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, trợ cấp và những yêu cầu nội
địa...Những NTBs này nhằm giảm bớt nhập khẩu và vì vậy có lợi cho các nhà
sản xuất nội địa.
Về mặt thực tiễn, Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách Đổi mới, Việt
Nam đang vững bước tiến đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Năm 2006 sau khi ra nhập WTO chúng ta không
ngừng mở rộng mối quan hệ với các quốc gia và hiện nay Việt nam đã có quan


hệ với hầu hết các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế quan trọng và không
ngừng phát huy vai trò của mình là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 21 tháng


9 năm 1973. Từ đó tới nay, quan hệ hai nước không ngừng phát triển mạnh mẽ.
Hai nước đang cùng nhau hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược vì hoà
bình và phồn vinh ở Châu Á. Trên lĩnh vực hợp tác, ngoài vị trí là nước hỗ trợ
nguồn vốn vay ODA lớn nhất cho Việt Nam, Nhật Bản là bạn hàng xuất khẩu
lâu bền và tiềm năng cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Và hàng hóa của ta khi
xuất khẩu sang thị trường này cũng gặp phải các rào cản thương mại đấy.
Từ những lí do hết sức cấp thiết đó em đã chọn đề tài “Rào cản thương
mại phi thuế quan của Nhật bản đối với hàng thủy sản Việt Nam” nhằm tìm
hiều một cách sâu sắc hơn về việc hạn chế thương mại của Nhật Bản đối với
Việt Nam và từ đó tìm ra được những giải pháp cho những vấn đề cấp bách này.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về các rào cản thương mại phi thuế
quan ở Nhật Bản và đồng thời đánh giá tác động với hàng thủy sản xuất khẩu
của Việt Nam
Trên cơ sở đó đề tài hướng tới một cái nhìn khách quan, đúng đắn hơn về
thực trạng, thành công cũng như những hạn chế mà Việt Nam còn mắc phải khi
thâm nhập thị trường lớn này.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
+Lý luận chung về hàng rào thương mại phi thuế của Nhật Bản.


+Phân tích thực trạng những tác động của các hàng rào thương mại phi thuế
quan của Nhật Bản đối với hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam
+ Nêu ra định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Tác động của hàng rào phi thuế Nhật Bản lên hàng Việt Nam
Phạm vi: + Về mặt không gian: hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
+ Về mặt thời gian: từ năm 2006 đến nay

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh
và phân tích thực chứng dựa vào tài liệu qua sách báo, giáo trình, internet...Trên
cơ sở đó có cái nhìn khách quan hơn về thực trạng xuất nhập khẩu của hàng
Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục đề tài còn được chia làm 3 chương:
* Chương 1. Lý luận chung về hàng rào thương mại phi thuế quan của Nhật
Bản
* Chương 2. Phân tích ảnh hưởng của NTBs đối với xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

* Chương 3.Định hướng và một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam phù hợp với các công cụ NTBs của Nhật Bản


Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO THƯƠNG MẠI PHI
THUẾ QUAN (NTBs) CỦA NHẬT BẢN

1.1 Khái niệm và các công cụ của hàng rào thương mại phi thuế quan
1.1.1 Khái niệm
Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối
với thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp lí, khoa học hoặc bình đẳng Hàng
rào phi thuế quan thường được áp dụng đối với hàng nhập khẩu Hình thức của
hàng rào phi thuế quan rất phong phú, gồm: Các biện pháp hạn chế định lượng,
các biện pháp tương đương thuế quan, các rào cản kỹ thuật, các biện pháp liên
quan đến đầu tư nước ngoài, các biện pháp quản lý hành chính, các biện pháp
bảo vệ thương mại tạm thời
1.1.2 Các công cụ của hàng rào thương mại phi thuế quan
1.1.2.1

Hạn ngạch (Quota)
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng là quy định của một nước về số lượng
cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập từ
một thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép
(Quota xuất - nhập khẩu). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn còn
Quota xuất khẩu ít được sử dụng và nó cũng tương đương với biện pháp “Hạn
chế xuất khẩu tự nguyện”
Hạn ngạch nhập khẩu đưa tới sự hạn chế số lượng nhập khẩu, đồng thời
gây ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hóa. Do mức cung thấp giá cân bằng sẽ
cao hơn so với giá trong điều kiện thương mại tự do. Như vậy hạn ngạch nhập
khẩu tác động tương đối giống với thuế quan nhập khẩu. Do hạn ngạch nhập
khẩu nên giá hàng nhập nội địa sẽ tang lên và nó cho phép các nhà sản xuất
trong nước thực hiện một qui mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn với điều kiện
thương mại tự do. Hạn ngạch nhập khẩu dẫn tới sự lãng phí nguồn lực cũa xã


hội. Đối với các doanh ngiệp và chính phủ hạn ngạch nhập khẩu cho biết trước
số lượng hàng nhập khẩu
1.1.2.2

Hạn chế xuất khẩu tự nguyện

Đây là một hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan. Hạn chế xuất
khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraint - VER) là một biện pháp hạn chế
xuất khẩu mà theo đó quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn
chế chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách tự nguyện, nếu
không thì sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết. Thực chất đây là những cuộc
thương lượng mậu dich giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng
ngoại, tạo công ăn việc làm cho thị trường trong nước. Khi thực hiện hán chế
xuất khẩu tự nguyện nó cũng tác động kinh tế như một hạn ngạch nhập khẩu.

Tuy nhiên hạn ngạch nhập khẩu mang tính chủ động và thường là biện pháp tự
bảo vệ thị trường trong nước, còn hạn chế xuất khẩu tự nguyện thực ra lại mang
tính miễn cưỡng và gắn với điều kiện nhất định. Hình thức này được áp dụng
cho quốc gia xuất khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó.
1.1.2.3

Những qui định về tiêu chuẩn kỹ thuật

Đây là những qui định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động,
bao bì đóng gói, đặc biệt là các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng
dịch đối với động vật và thực vật tươi sống, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường
sinh thái đối với các máy móc thiết bị và dây truyền công nghệ
Những qui định này xuất phát từ các đòi hỏi thực tế của đời sống xã hội
và phản ánh trình độ phát triển đạt được của nền văn minh nhân loại. Tuy nhiên
trên thực tế người ta thường khéo léo sử dụng các một các thiên lệch giữa các
công ty trong nước với các công ty nước ngoài và biến chúng thành công cụ
cạnh tranh có lợi cho nước chủ nhà trong quan hệ thương mại quốc tế. Về mặt
kinh tế những qui định này có tác dụng bảo hộ đối với thị trường trong nước,
hạn chế và làm méo mó dòng vận động của hàng hóa trên thị trường thế giới


1.1.2.4

Các biện pháp chống bán phá giá

Bán phá giá là một khái niệm cơ bản của thương mại quốc tế. Các sản phẩm bán
vào một thị trường với giá bán ở mức dưới giá thành sản xuất thì được xem là
bán phá giá và có thể phải chịu các cuộc điều tra và bị trừng phạt.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá trong thương mại quốc tế.
Nhiều trường hợp cố tình bán phá giá nhằm đạt được những lợi ích nhất định

như: Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước NK từ
đó chiếm thế độc quyền; Bán giá thấp tại thị trường nước NK để chiếm lĩnh thị
phần; Bán giá thấp để thu ngoại tệ mạnh... Đôi khi việc bán phá giá là việc bất
đắc dĩ do nhà sản xuất, XK không bán được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm
lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng... nên đành bán tháo để thu hồi vốn. Trong
thương mại quốc tế, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan tâm
đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá. Bán phá giá sang thị trường nước
ngoài thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng cạnh
tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước NK. Tuy nhiên, bán phá
giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế: người tiêu dùng được lợi vì
giá rẻ; nếu hàng bị bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất
khác, giá nguyên liệu rẻ có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất định của ngành đó,...
Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện pháp chống bán
phá giá. Theo quy định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được
thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện nhất
định. Cụ thể, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định
được đủ ba điều kiện sau đây: Hàng NK bị bán phá giá; Ngành sản xuất sản
phẩm tương tự của nước NK bị thiệt hại đáng kể; Có mối quan hệ nhân quả giữa
việc hàng NK bán phá giá và thiệt hại nói trên.
Áp dụng thuế chống bán phá giá cho những mặt hàng đủ 3 điều kiện trên. Thuế
chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế NK thông thường, đánh


vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước NK. Đây là loại thuế nhằm
chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng NK bán phá
giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như
một hình thức "bảo hộ hợp pháp" đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn
chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành viên WTO đã cùng
thoả thuận về các quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra và
áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp định về chống bán phá

giá của WTO - Hiệp định ADA.
1.1.2.5

Các biện pháp chống trợ cấp

Theo hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng, một ngành sản
xuất được coi là được hưởng trợ cấp khi lợi ích được dành cho ngành đó dưới
hình thức: Giao vốn trực tếp của chính phủ (chẳng hạn cấp vốn, các khoản cho
vay hoặc góp vốn cổ phần) hoặc chính phủ bảo lãnh các khoản vay; Chính phủ
miễn những khoản lẽ ra phải đóng; Chính phủ cung ứng hàng hóa hoặc dịch vụ,
hay mua hàng.
Thuế chống trợ cấp là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường)
đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào nước nhập khẩu. Đây là biện
pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) nhằm vào các nhà sản xuất
xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do
nước nhập khẩu tiến hành) chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài đã thực
hiện việc trợ cấp (WTO quy định các cơ chế xử lý khác mang tính đa phương
cho trường hợp này).
1.2 Đặc điểm thị trường thủy sản Nhật Bản
Nhật Bản gồm 4 đảo chính (Honshu, Hokkaido, Kyushin, Shikoku) và
nhiều đảo nhỏ chạy dọc theo bờ biển phía Đông Bắc Á. Diện tích 377.835 km2.
Khoảng 125.770 nghìn người, xếp thứ 7 trong số các nước trên thế giới. Dân cư


Nhật Bản tập trung ở các thành phố lớn như: Tokyo, Yokohama, Nagoya,
Osaka, Kobe, Kyoto.
Cung thuỷ sản trên thị trường Nhật Bản
Khai thác thủy sản trên thị trường Nhật Bản chia thành 3 nhóm: khai thác
xa bờ, chủ yếu hoạt động ở các vùng biển xa và tại các vùng đặc quyền kinh tế
của các nước khác theo hiệp định song phương; khai thác ngoài khơi, chủ yếu

tại vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản; và khai thác ven bờ. Sản lượng khai
thác xa bờ và khai thác ngoài khơi của Nhật Bản đang giảm. Năm 2010, sản
lượng khai thác xa bờ của Nhật Bản đạt 1.002.000 tấn, trị giá 2,5 tỷ USD, sản
lượng khai thác ngoài khơi đạt 3,5 triệu tấn, trị giá gần 5,5 tỷ USD. Sản lượng
khai thác ven bờ ổn định khoảng 1,5 triệu tấn/năm. Những năm gần đây, số
lượng tàu cá và lao động trong lĩnh vực khai thác giảm. Gần 90% số lao động
trong ngành thủy sản Nhật Bản làm việc trong lĩnh vực khai thác ven bờ. Giai
đoạn 2005-2010, số người hoạt động trong lĩnh vực khai thác hải sản giảm 30%,
còn 132.000 người. Số lao động giảm 39%, còn 238.000 lao động.
Tại Nhật Bản, ít nhất 70% sản phẩm thuỷ sản được phân phối thông qua
thị trường bán buôn, nhưng hầu hết thuỷ sản đông lạnh nhập khẩu như cá ngừ,
tôm, cá hồi đông lạnh được phân phối theo các kênh chuyên biệt. Có hai loại
chợ bán buôn thuỷ sản được điều chỉnh bằng luật thị trường bán buôn thuỷ sản
gồm Chợ bán buôn trung ương (chợ phục vụ cho trên 20 vạn dân, do Tổng cục
thuỷ sản quản lý và Chợ bán buôn địa phương (do tỉnh, thành phố quản lý).
Ngoài ra, ở Nhật Bản còn có chợ cá quy mô nhỏ nhưng không thuộc phạm vi
điều chỉnh của luật thuỷ sản.
Cầu thủy sản trên thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu thủy sản hàng đầu thế giới có kim
ngạch nhập khẩu trung bình 15 tỷ USD/năm. Với dân số hơn 120 triệu người
(2009), GDP đạt trên 5000 tỉ USD (khoảng 473.000 tỷ yên), bình quân đầu


người xấp xỉ 40.000USD/năm, Nhật Bản đang là thị trường xuất khẩu thủy sản
tiềm năng của Việt Nam.
Các mặt hàng được tiêu thụ nhiều nhất lần lượt là cá ngừ, tôm, mực ống,
cá tráp và cá hồi. Xét về lượng hàng tiêu thụ, xu hướng nghiêng về các sản
phẩm hải sản, nhất là cá biển (cá nổi), tiếp theo là nhuyễn thể có vỏ, cá đáy,
giáp xác và cá biển khác. Loại sản phẩm được tiêu thụ mạnh hơn cả là các sản
phẩm cá chế biến và cá tươi, các sản phẩm đông lạnh có mức tiêu thụ thấp hơn.

Một số mặt hàng truyền thống của người Nhật được tiêu thụ mạnh và phải dựa
nhiều vào nguồn nhập khẩu vì cung cấp trong nước không đủ đáp ứng cho nhu
cầu ngày càng cao như sản phẩm “Sashimi” và “Sushi” từ cá ngừ, cá chình, cá
song hay tôm, mực, bạch tuộc.
Mức tiêu thụ thuỷ sản ở Nhật Bản giảm theo thời gian kể từ năm 1995, có
thể được tính bằng tổng sản lượng thuỷ sản trong nước cộng với khối lượng
thuỷ sản nhập khẩu trừ đi khối lượng thuỷ sản xuất khẩu. Mức tiêu thụ thuỷ sản
bình quân theo đầu người của Nhật Bản luôn đứng đầu thế giới. Năm 1993, mức
tiêu thụ tính theo đầu người về thuỷ sản là 67,8 kg, gấp 5 lần mức trung bình
của thế giới (13,4 kg/người.năm). Hằng năm, mỗi hộ gia đình Nhật Bản chi tiêu
khoảng 37.000 yên cho thực phẩm thuỷ sản, chiếm khoảng 13% tổng tiêu cho
thực phẩm. Trong giai đoạn 1995 -1998, tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người của
Nhật Bản đạt mức cao nhất là 70,4 kg/người.năm, lớn hơn nhiều so với Mỹ
(20,9 kg/người.năm). Tuy nhiên, từ năm 1998 trở lại đây mức tiêu thụ thuỷ sản
Nhật Bản đã giảm một cách rõ rệt, một phần do nền kinh tế suy yếu, thu nhập
của các hộ gia đình người Nhật giảm, phần khác sản lượng trong nước bị hạn
chế bởi sự thu hẹp phạm vi và quy mô hoạt động của các nghề khai thác thuỷ
sản..


Điều tiết của chính phủ
Chính phủ Nhật Bản sử dung các công cụ biện pháp thuế quan và phi thuế quan
để điều tiết nhập khẩu thủy sản vào Nhật Bản. Về hàng rào thuế quan
Theo Biểu phân loại hàng hoá hài hoà (HS), mặt hàng thuỷ sản của Nhật Bản
bao gồm 330 dòng thuế. Nhật Bản cam kết giảm thuế trong vòng 10 đến 15 năm
đối với 188 dòng.
Mặt hàng thuỷ sản được hưởng mức thuế 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.
Trong số 330 mặt hàng thuỷ sản, có 64 mặt hàng có cam kết giảm thuế về 0%
ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Tuy vậy, trừ 28 mặt hàng có thuế suất MFN là
0% từ trước và 8 mặt hàng có thuế suất GSP là 0% đang áp dụng cho Việt Nam

thì về thực chất có 28 dòng thuế được giảm xuống 0%. Tuy chỉ có 28 sản phẩm
nhưng hầu hết sản phẩm này đều hết sức có ý nghĩa đối với lợi ích xuất khẩu
thuỷ sản cho các doanh nghiệp Việt Nam, chiếm tới 71% xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam sang Nhật Bản. Trong đó, đáng kể nhất là các sản phẩm tôm sú, tôm
chế

biến,

ghẹ,

cua.

Nhóm thuỷ sản có lộ trình giảm thuế trong 3 năm: Có 8 dòng thuế thuỷ sản
có lộ trình giảm thuế trong 3 năm. Các dòng thuế phổ biến có mức thuế MFN
ban đầu từ 3,5% đến 7,2%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của 8 mặt hàng này rất
lớn, chiếm đến 8% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, trong đó đáng
chú ý nhất là các mặt hàng như động vật thân mềm, cá đông lạnh là có ưu đãi
lớn nhất.
Nhóm thuỷ sản có lộ trình giảm thuế từ 5 đến 10 năm: Theo cam kết giảm
thuế của Nhật Bản, có 96 dòng thuỷ sản có các lộ trình giảm thuế khác nhau, từ
5 đến 10 năm. Các mặt hàng này phần lớn có kim ngạch xuất khẩu sang Nhật
chưa cao nhưng xét về dài hạn lại rất tiềm năng. Nhiều sản phẩm loại này đã
được xuất khẩu sang thị trường như Hoa Kỳ, EU.


Về biện pháp phi thuế: Hạn ngạch nhập khẩu trong lĩnh vực thuỷ sản của
Nhật Bản. Hầu hết các loại thực phẩm được phép nhập khẩu không hạn chế vào
Nhật Bản nhưng phải đáp ứng đủ những yêu cầu về thủ tục và tiêu chuẩn theo
quy định. Hạn ngạch nhập khẩu khi đã áp dụng cho một số mặt hàng thuỷ sản
được phân bổ một lần trong năm tài chính. Số lần phân bổ có thể được điều

chỉnh tuỳ thuộc vào tình hình cung ứng thực phẩm, giá thực phẩm, các vấn đề
quan hệ đối ngoại và các yếu tố khác. Hạn ngạch nhập khẩu của Nhật Bản được
phân bổ dựa trên số lượng được nhập khẩu, chứ không theo giá trị nhập khẩu.
Tại Nhật Bản, có 2 hệ thống phân bổ hạn ngạch nhập khẩu: (1) Phân bổ cho các
công ty Thương mại; (2) Phân bổ tới người sử dụng hàng hoá (các nhà sản xuất
và các tổ chức sử dụng mặt hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào để sản
xuất). Đôi khi Nhật Bản cũng áp dụng cả hai hệ thống phân bổ hạn ngạch trên
tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Hiện tại, có 59 trên tổng số 330 dòng thuế
thuỷ sản đang áp dụng hạn ngạch nhập khẩu. Theo Hiệp định VJEPA, Nhật Bản
cam kết giữ nguyên cơ chế quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch đối với một số
sản phẩm thuỷ sản. Tất cả các mặt hàng này đều thuộc Nhóm loại trừ X và
không có lộ trình giảm thuế. Doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu những
sản phẩm thuỷ sản này sẽ vẫn áp dụng đầy đủ các quy định chung như Nhật Bản
áp dụng với các quốc gia khác phù hợp với quy tắc không phân biệt đối xử của
WTO.
1.3 Các công cụ chủ yếu của hàng rào phi thuế quan của Nhật Bản đối với
hàng thủy sản nhập khẩu
1.3.1 Hàng rào kỹ thuật
Nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời bảo vệ các ngành
sản xuất và chế biến trong nước, Nhật Bản áp dụng Luật Vệ sinh an toàn thực
phẩm, Luật Chống gây nhiễm và kiểm soát các loại dịch bệnh, Luật Ngoại
thương và Ngoại hối, Luật Thương mại với những quy định chặt chẽ, chỉ cho
phép nhập vào Nhật Bản những loại thực phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực
phẩm không gây hại cho sức khỏe của con người. Trong đó quy định rõ những


loại thực phẩm không được phép nhập vào Nhật Bản bao gồm: (1) các loại thực
phẩm chứa các thành phần độc tố hoặc có hại, hoặc bị nghi vấn có chứa các
thành phần độc tố; (2) các loại thực phẩm bị thối rữa hoặc bị hỏng; (3) các loại
thực phẩm không đáp ứng được tiêu chuẩn và đặc điểm kỹ thuật trong quá trình

chế biến, công thức chế biến hoặc nguyên liệu chế biến; (4) các loại thực phẩm
sử dụng chất phụ gia quá mức cho phép; (5) các loại thực phẩm không kèm theo
các chứng từ chứng minh.
Một số mặt hàng thực phẩm còn phải đáp ứng đầy đủ các quy định kiểm tra
nghiêm ngặt khác mới được nhập khẩu vào Nhật Bản như: không chứa các côn
trùng gây bệnh hoặc có hại tới sức khỏe con người có trong thịt và cá tươi, các
sản phẩm thịt chế biến như hamberger, xúc xích... trái cây, rau quả hoặc ngũ
cốc. Nhà Xuất khẩu các sản phẩm này cũng phải chứng minh được rằng chúng
không gây hại tới toàn bộ thực vật và động vật của Nhật Bản. Nhật Bản còn quy
định giấy phép nhập khẩu đối với một số loài cá đánh bắt tại các vùng duyên hải
và rong biến ăn được. Ngoài ra, còn có một số ít các mặt hàng nằm trong diện
quản lý nhập khẩu theo quy định cua Luật Ngoại thương và Ngoại hối yêu cầu
quota nhập khẩu, phải được đồng ý trước cua Bộ trưởng phụ trách chuyên
ngành. Kể từ ngày 3/2/2004, Nhật Bản quy định 8 mặt hàng thực phẩm hải sản
và một số thực phẩm sống theo mã HS trong biểu thuế nhập khẩu của Nhật Bản
nằm trong diện quota nhập khẩu. Các mặt hàng này bao gồm: (1) cá đánh bắt ở
vùng duyên hải Nhật Bản (cá trích, cá tuyết, cá ngừ đuôi vàng, cá thu, cá
sardine, cá thu house, cá thu đao); (2) con điệp, động vật có vỏ như trai sò, mực
ống; rong biển ăn được (nori, konbu - kể cả các chế phẩm). Đối với mặt hàng
tôm nhập khẩu vào Nhật bản: khi tôm đến cảng, cơ quan giám định sẽ lấy mẫu
giám định, thường là một lượng nhỏ trong container. Khi giám định mẫu, cơ
quan giám định sẽ xác định loài, phân tích chất phụ gia đã sử dụng, thức ăn nuôi
tôm, quá trình nuôi và chế biến,... Dưới đây là một số quy định về dư lượng các
chất sử dụng trong mặt hàng tôm:


TT

Tên hoá chất, kháng sinh


Quy định về dư lượng

1

Oxytetracycline

không vượt quá 0,1 ppm

2

Spiramycin

không vượt quá 0,2 ppm

3

Butylated hydroxy toluene (BHT)

dưới 1 gam/kg

4

Butylated hydroxy anisole (BHA)

dưới 1 gam/kg

5
Carotin và Nicotine
không được sử dụng
Tuy nhiên, lượng mẫu giám định còn phụ thuộc vào lô tôm đó do đơn vị nào

xuất khẩu. Nếu nhà xuất khẩu đã bị lưu ý (tức đã vi phạm Luật vệ sinh thực
phẩm trước đó) thì lượng tôm lấy mẫu giám định sẽ nhiều hơn bình thường.
Nếu nhà xuất khẩu vẫn tiếp tục vi phạm thì bị xử phạt ở mức độ nặng hơn, như
đình chỉ xuất khẩu trong một thời hạn nhất định (thường là một năm). Quốc gia
nào có nhiều nhà xuất khẩu tôm vi phạm Luật vệ sinh thực phẩm thì quốc gia đó
có thể bị cấm xuất khẩu tôm vào Nhật Bản.
1.3.2 Hạn ngạch nhập khẩu
Hầu hết các loại thực phẩm được phép nhập khẩu không hạn chế vào
Nhật Bản nhưng phải đáp ứng đủ những yêu cầu về thủ tục và tiêu chuẩn theo
quy định. Hạn ngạch nhập khẩu khi đã áp dụng cho một số mặt hàng thuỷ sản
được phân bổ một lần trong năm tài chính. Số lần phân bổ có thể được điều
chỉnh tuỳ thuộc vào tình hình cung ứng thực phẩm, giá thực phẩm, các vấn đề
quan hệ đối ngoại và các yếu tố khác. Hạn ngạch nhập khẩu của Nhật Bản được
phân bổ dựa trên số lượng được nhập khẩu, chứ không theo giá trị nhập khẩu.
Tại Nhật Bản, có 2 hệ thống phân bổ hạn ngạch nhập khẩu: (1) Phân bổ cho các
công ty Thương mại; (2) Phân bổ tới người sử dụng hàng hoá (các nhà sản xuất
và các tổ chức sử dụng mặt hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào để sản
xuất). Đôi khi Nhật Bản cũng áp dụng cả hai hệ thống phân bổ hạn ngạch trên
tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Hiện tại, có 59 trên tổng số 330 dòng thuế
thuỷ sản đang áp dụng hạn ngạch nhập khẩu.


Theo Hiệp định VJEPA, Nhật Bản cam kết giữ nguyên cơ chế quản lý
nhập khẩu bằng hạn ngạch đối với một số sản phẩm thuỷ sản. Tất cả các mặt
hàng này đều thuộc Nhóm loại trừ X và không có lộ trình giảm thuế. Doanh
nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu những sản phẩm thuỷ sản này sẽ vẫn áp dụng
đầy đủ các quy định chung như Nhật Bản áp dụng với các quốc gia khác phù
hợp với quy tắc không phân biệt đối xử của WTO.

Chương 2. PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA NTBs ĐỐI VỚI XUẤT

KHẨU THÚY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT
BẢN
2.1 Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản
Do khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho thị trường nhập khẩu thuỷ sản
Mỹ và EU bất ổn, nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã


chuyển hướng sang thị trường có mức độ ổn định cao hơn - thị trường Nhật
Bản.
2.1.1 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu thủy sản hàng đầu thế giới có kim
ngạch nhập khẩu trung bình 15 tỷ USD/năm. Với dân số hơn 120 triệu người
(2009), GDP đạt trên 5000 tỉ USD (khoảng 473.000 tỷ yên), bình quân đầu
người xấp xỉ 40.000USD/năm, Nhật Bản đang là thị trường xuất khẩu thuỷ sản
tiềm năng của Việt Nam.
Việt Nam luôn nằm trong nhóm 10 quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu
vào thị trường Nhật Bản với kim ngạch đạt gần 800 triệu USD trong năm 2009.
Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản bao gồm
chủ yếu tôm và các loại cá như cá tra, cá basa, cá hồi, cá đuối, cá bò, cá ghim,
cá ngừ hun khói, mực, bạch tuộc, ghẹ. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu thủy
sản trung bình hàng năm sang Nhật Bản đạt bình quân 5,4% (2004-2009). Với
đà tăng trưởng này, dự báo kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản sẽ đạt
1.083 triệu USD vào năm 2015.
Năm 2009, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản chiếm 17,8% tổng
giá trị kim ngạch xuất khẩu, đạt 757.92 triệu tấn. Năm 2010 Việt Nam đã xuất
sang Nhật trên 135.000 tấn thủy sản, trị giá gần 897 triệu USD, tăng trên
19% cả về khối lượng và giá trị. Hiện Nhật Bản chiếm 17,8% tổng giá trị
XK thủy sản của Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện nay (T9/2011), XK thủy
sản của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn chưa có dấu hiệu khôi phục. Tuy nhiên,
theo nhận định của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), kinh tế Nhật

Bản sau khi bị tác động mạnh do thảm họa động đất và sóng thần xảy ra hồi
tháng 3 vừa qua sẽ phục hồi và tăng trưởng trở lại từ quý 3 năm nay.
Nhật Bản hiện là một trong 3 thị trường chính NK thủy sản từ Việt Nam, Theo
số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, XK thủy sản sang Nhật Bản trong 7


tháng đầu năm nay đạt 62.122 tấn, trị giá 464,088 triệu USD, giảm 18% về khối
lượng và tăng nhẹ 0,1% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó tôm là
nhóm mặt hàng đạt khối lượng và giá trị XK cao nhất nhưng vẫn giảm 15,1% về
khối lượng và 7,1% về giá trị!
Mặc dù chiếm ưu thế trong các sản phẩm thủy sản XK sang Nhật Bản nhưng
XK tôm của Việt Nam sang thị trường này từ tháng 3 đến nay liên tục giảm do 2
nguyên nhân chính: một là người tiêu dùng Nhật phải cắt giảm chi tiêu dành cho
nhóm sản phẩm cao cấp (trong đó có tôm) vào thời buổi khó khăn; hai là Nhật
Bản tăng cường kiểm tra chất lượng các lô hàng thủy sản NK từ nước ngoài,
trong đó áp dụng chế độ kiểm tra dư lượng Trifluralin và Enrofloxacin đối với
100% lô hàng tôm NK từ Việt Nam khiến nhiều DN e ngại, dẫn đến giảm xuất
hàng sang thị trường này.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, song chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ giá trị
nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản. So với tiềm năng sản xuất và xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam, tỷ lệ thị phần nhỏ như vậy chưa thể hiện đúng vị thế
của Việt Nam và chưa cân xứng với quan hệ thương mại truyền thống giữa 2
nước.

2.1.2 Cơ cấu xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản
Tôm luôn là mặt hàng quan trọng, có giá trị lớn nhất trong các thủy sản
Việt Nam XK sang Nhật, Nhật Bản cũng là nhà NK tôm lớn nhất của Việt Nam
trong nhiều năm qua. Năm 2010, Việt Nam xuất cho Nhật 62.614 tấn tôm, trị



giá trên 581 triệu USD, tăng 16% về giá trị. Đây là mức tăng trưởng đáng kể
so với mức sụt giảm nhẹ trong năm 2009. Nhật chiếm 27,6% tổng giá trị XK
tôm của Việt Nam trong năm. Năm 2009 và 2010, Việt Nam đã vươn lên là nhà
cung cấp tôm lớn nhất cho thị trường Nhật Bản, tiếp đến là Inđônêxia, Thái
Lan, Ấn Độ và Trung Quốc. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trên thị
trường, giúp cho việc chào giá và thương lượng giá bán cuối cùng của
các nhà XK tôm Việt Nam có trọng lượng hơn. Đồng thời cũng phản ánh
những tiến bộ rất lớn về trình độ chế biến và tiếp thị của ngành tôm Việt
Nam trong những năm vừa qua khi chiếm lĩnh một thị trường khắt khe như
Nhật Bản. Tuy nhiên, việc XK tôm của Việt Nam tăng trưởng mạnh trong
năm 2010 là kết quả của việc một số nhà sản xuất tôm lớn trên thế giới
như Inđônêxia, Ấn Độ và Mêhicô …bị mất sản lượng do dịch bệnh và thời
tiết bất thường. NK tôm từ Việt Nam được đẩy mạnh để bù đắp thiếu hụt từ các
nguồn cung cấp trên. Thực tế, sức tiêu thụ tôm của thế giới chỉ tăng ở mức rất
khiêm tốn. Năm 2010, NK tôm của Mỹ chỉ tăng nhẹ 1,8% so với năm 2009.
Đối với Nhật, NK tôm 11 tháng đầu năm 2010 chỉ tăng 4,3% về khối
lượng. Tuy nhiên, theo đánh giá của chính Hiệp hội Siêu thị Nhật Bản, tiêu
thụ tôm của Nhật vẫn còn có biểu hiện khả quan hơn rất nhiều so với các
mặt hàng thủy sản khác như sản phẩm tươi, sushi, surimi và thủy sản khô,
muối.
Nhuyễn thể, trong đó đáng kể nhất là mực và bạch tuộc, là nhóm mặt
hàng NK lớn thứ hai từ Việt Nam của Nhật Bản. Năm 2010, Việt Nam xuất
18.751 tấn nhuyễn thể, trị giá 113,7 triệu USD, tăng 5,8% về giá trị so với
năm 2009, chiếm 23,3% tổng giá trị XK nhuyễn thể của Việt Nam. Nhóm mặt
hàng này rất được ưa chuộng trên thị trường, tuy nhiên khối lượng XK phụ
thuộc nhiều vào sản lượng khai thác theo mùa vụ trong năm và quan trọng hơn
là nguy cơ bị nhiễm kháng sinh cao trong bảo quản. Đây là trở ngại lớn nhất
đối với các DN XK hải sản sang thị trường Nhật Bản.



Cá ngừ là mặt hàng thủy sản Việt Nam có mức tăng trưởng XK sang
Nhật Bản cao nhất (29,5% về giá trị) trong năm 2010. Mặc dù giá trị đạt
được còn khiêm tốn với 22,1 triệu USD, nhưng Nhật Bản vẫn là nhà NK cá
ngừ lớn thứ 3 của Việt Nam. Thực tế, khả năng cung cấp cá ngừ của Việt
Nam cho Nhật bản có thể lớn hơn nhưng do một số nhà cung cấp trong
khu vực như Thái Lan, Malaixia, Philippin…được hưởng mức thuế ưu đãi tốt
hơn nên cá ngừ Việt Nam khó cạnh tranh nổi. Hơn nữa, bản thân giá mua của
Nhật cũng thấp hơn các thị trường khác như Mỹ và EU.
Bên cạnh ba mặt hàng kể trên, cá biển và các mặt hàng thủy sản khô khác của
Việt Nam cũng là nguồn cung cấp đáng kể cho thị trường Nhật với giá trị
XK khoảng hơn 180 triệu USD trong năm 2010.

Nguồn: Tổng cục hải quan


2.2 Các NTBs của Nhật Bản áp dụng đối với hàng thủy sản Việt Nam và
ảnh hưởng của nó
2.2.1 Các quy định của Nhật Bản
2.2.1 Quy định về kiểm tra
Mọi doanh nghiệp bán hàng thủy sản trên thị trường Nhật Bản phải có
chứng nhận HACCP đạt hiệu quả. Bất kì sản phẩm nhập khẩu nào cũng có phải
có chứng nhận đạt chất lượng quốc tế và được bộ Y tế và Phúc lợi xã hội kiểm
tra về màu sắc, độ tươi sáng, mùi, vị…, kiểm tra tạp chất, nấm mốc, dư lượng
chất kháng sinh, độc tố, kiểm tra container, bao bì … Nếu lô hàng không đủ tiêu
chuấn sẽ bị trả lại nước xuất khẩu hoặc bị tiêu hủy tại chỗ, chi phí này sẽ do chủ
hàng phải chịu.
Để thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, ở Nhật Bản có hệ thống kiểm tra
trước: Nhà nhập khẩu phải gửi hai bản copy khai báo về tình trạng sản phẩm sẽ
nhập khẩu cho phòng Kiểm dịch và Phòng vệ sinh thực phẩm. Tại đây, hàng

thủy sản sẽ được kiểm tra về vệ sinh, dư lượng thuốc kháng sinh, hóa chất, tạp
chất, kim loại nặng, chất phụ gia, thành phần thực phẩm … Sau khi kiểm tra,
sản phẩm đạt yêu cầu sẽ được dán tem chứng nhận và một bản copy sẽ được trả
cho nhà nhập khẩu để họ làm thủ tục nhập khẩu.
2.2.2 Quy định về nhãn hàng và truy xuất nguồn gốc
Theo luật Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS), Luật bao bì, thông tin
về sản phẩm phải được ghi bằng mực không phai, không gây độc hại ở vị trí dễ
nhìn thấy một cách đầy đủ, rõ rang trên bao bì như: xuất xứ hàng hóa;tên và địa
chỉ của nhà nhập khẩu hoặc phân phối; tên sản phẩm; thành phần sản phẩm;
trọng lượng tịnh; mô tả là sản phẩm đông lạnh; danh mục chất phụ gia (nếu có);
thời hạn sử dụng ; phương pháp chế biến… Một số loại thủy sản gây dị ứng
(như mực nang, bào ngư, tôm, cua, cá thu…) phải dán nhãn hiệu biểu thị.
Những quy định khắt khe về nhãn mác đối với hàng thủy sản nhập khẩu
giúp nhà quản lý thực hiện việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm diễn ra thuận lợi.


2.2.3 Quy định về an toàn thực phẩm
Luật áp dụng được quy định chi tiết cụ thể ở bảng số liệu sau:
Bảng 4. Luật áp dụng đối với thủy sản nhập khẩu theo mã HS
Mã số HS
03-01

Tên sản phẩm
Cá tươi sống

03-02

Cá ướp lạnh (trừ cá phẩm

03-03

03-04

Luật áp dụng
Luật vệ sinh thực

phi lê)

Luật kiểm dịch

Cá đông lành (trừ cá
phi lê)

03-05

Cá phi lê
Cá khô,
muối,

03-06

cá

cá

ngâm

ướp

Luật vệ sinh thực


nước phẩm

muối, cá hun khói, bột cá
Loài có mai cứng

Luật vệ sinh thực

(tôm, cua) tươi sống đông phẩm
lạnh, sấy khô, ướp muối.
03-07

Nhuyễn thể (sò, trai,
ốc, ngêu,…) tươi sống,

Luật kiểm dịch

đông lạnh, làm khô, ướp
16-03

muối hoặc hun khói
Các chiết xuất từ cá,

Luật vệ sinh thực

từ loài có mai cứng phẩm
16-04
16-05

nhuyễn thể
Cá chế biến sẵn,

trứng cá
Loài có mai, nhuyễn
thể chế biến sẵn
(Nguồn:

www.jetro.go.jp)


Mọi điều luật, quy định của Nhật Bản đối với thủy sản nhập khẩu được
công bố rộng rãi. Nhưng để việc thực hiện và tuân thủ pháp luật rất khó khăn
đối với doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam. Hiện nay, doanh nghiệp muốn
xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nhật Bản phải có chứng nhận HACCP có
hiệu quả, chứng nhận ISO 14000. Mọi lô hàng ngoài việc đảm bảo không phải
ôi thiu, hư hỏng, màu sắc tươi sáng… mà còn phải đảm bảo tuân thủ đúng quy
định về hóa chất, dư lượng kháng sinh, chất phụ gia được phép sử dụng. Theo
quy định, những sản phẩm sau đây bị cấm nhập khẩu và cấm kinh doanh trên thị
trường: sản phẩm đã biến chất (hư hỏng, thối rữa); sản phẩm chứa chất độc hại
hoặc bị nghi ngờ có chứa chất độc; sản phẩm mang nguồn bệnh hoặc bị nghi
ngờ mang mầm bệnh; sản phẩm không đảm bảo vệ sinh hoặc chứa chất lạ.
Bộ y tế và Phúc lợi Nhật Bản kết hợp với bộ Nông, Lâm, Ngư nghiệp
Nhật Bản đã xây dựng hệ thống quy định về hóa chất được phép và cấm sử
dụng. Trong đó các chất được phép sử dụng và cấm sử đụng được quy định rõ
ràng. Các chất cấm sử dụng bao gồm: chất gây ô nhiễm tại nước xuất khẩu, tụ
cầu khuẩn (Staphylococcus aureus); trực khuẩn (bacillus); chất tẩy trắng; khuẩn
Escherichia coli; vi khuẩn gây thối rữa (Putrefactve bacteria); độc tố trong
nhuyễn thể 2 mảnh vỏ; chất khử trùng; kháng sinh (chloramphenicol và
nitrofuran…); kim loại nặng và các hợp chất của nó;histaminel; hoocmôn.
Ngoài ra, luật cũng bao gồm các danh mục các chất phải kiểm dịch hàm lượng
bao gồm: chất làm ngọt; chất tạo màu; chât giữ màu; chất làm xốp; một số axit
như:(axit amin, axit nucleic, axit hữu cơ…); muối vô cơ; chất tạo vị(chua, cay,

đắng); men tiêu hóa…
Một vài ví dụ:
- Dư lượng kháng sinh(chloramphenicol và nitrofuran) và dẫn xuất của
nó; AOZ(3 amino, 2 oxazole); SEM(semicarbon) cho phép hàm lượng
không quá 0.5 phần tỷ.


- Một trong các loại kháng sinh được sử dụng phổ biến trong nuôi trồng
thủy sản là oxytetracyline có hàm lượng cho phép là 1 phẩn tỷ.
- Cá tươi không có dư lượng CO2
- Một số chế biến từ cá như xúc xích cá, ruốc cá, bánh cá, phải có độ
PH không quá 4,6; hàm lượng nước không quá 94%.
- Sản phẩm chế biến, đông lạnh không được phép chứa escherichia coli.
- Bánh cá không đựơc phép chứa trực khuẩn coli.
- Cá phi lê không được phép có chứa khuẩn colon bacillus.
2.2.4 Các quy định khác
Ngoài những quy định trên, hàng thủy sản còn phải tuân thủ các Luật đo
lường, Luật bao bì, Luật kiểm soát lây truyền động vật trong nước; đạt tiêu
chuẩn công nghiệp Nhật Bản (JIS) nếu muốn xuất khẩu vào thị trường này.
Ngoài ra, Cục môi trường Nhật Bản khuyến khích người tiêu dùng sử
dụng sản phẩm có đóng dấu “Ecomark”. Đây là chứng nhận được cấp cho sản
phẩm đảm bảo không gây hại cho môi trường từ khâu sản xuất đến tiêu dùng.
Sản phẩm có chứng nhận này sẽ dễ dàng tiếp cận thị trường hơn, vì Nhật Bản
rất coi trọng vấn đề môi trường như nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới.
Trên thực tế, nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam khác như: tôm, mực,
cá… đều không đủ tiêu chuẩn và phía Nhật Bản buộc phải trả lại hàng và cấm
các loại này. Tuy nhiên, Bộ Thủy sản một mặt hướng dẫn cụ thể doanh nghiệp
trong nước tiếp cận các tiêu chuẩn kĩ thuật cần thiết, một mặt tìm ra các giải
pháp phù hợp với việc báo cáo với Bộ y tế và Phúc lợi Nhật Bản nên không xảy
ra việc cấm này.


2.2.5 Ảnh hưởng của những hàng rào phi thuế của Nhật Bản tới ngành
thủy sản Việt Nam
Thị trường Nhật Bản vẫn là nơi có rất nhiều quy định nghiêm ngặt về an
toàn vệ sinh thực phẩm. Khách hàng Nhật Bản không chỉ tìm hiểu kỹ điều kiện
của cơ sở chế biến, kinh doanh thủy hải sản mà họ còn muốn biết tường tận


nguồn gốc ở vùng nào, khai thác có hợp pháp không, chế độ, điều kiện nuôi ra
sao… Tiêu chuẩn Global GAP và quy định IUU (illegal unreported and
unregulated fishing) đối với các mặt hàng thủy sản có nguồn gốc từ nuôi trồng
và khai thác, là một trong những chuẩn hóa mà Nhật Bản đưa ra với hàng nhập
khẩu từ các nước. Tuy nhiên, đến thời điểm này, VN chỉ mới có một vùng nuôi
tôm và 4 vùng nuôi cá tra đạt tiêu chuẩn Global GAP, còn đối với công tác
chứng nhận nguồn gốc thủy sản khai thác thì vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc
trong khâu tổ chức thực hiện.
Hiện nay, một trong những tồn tại lớn của ngành thủy sản nước ta vẫn là
nuôi trồng thủy sản với qui mô nhỏ lẻ, manh mún, thiếu quy hoạch gắn với nhu
cầu của thị trường cũng như áp dụng các tiêu chuẩn nuôi an toàn mang tính
quốc tế. Đối với khai thác thủy sản, tàu thuyền và phương tiện khai thác chậm
đổi mới, các dịch vụ hậu cần chậm phát triển, chưa đáp ứng kịp yêu cầu và nâng
cao hiệu quả khai thác xa bờ. Thêm vào đó, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu
chỉ quan tâm đến giá cả và lợi nhuận trước mắt, họ chưa nhận thức rõ tầm quan
trọng của chất lượng sản phẩm, chưa có sự đầu tư đúng mức cho xây dựng được
thương hiệu riêng và tạo chỗ đứng vững chắc cho mình.
Với mặt hàng tôm, hiện Việt Nam đang phát triển mạnh xuất khẩu tôm
thẻ chân trắng. Trong 6 tháng đầu năm nay, lần đầu tiên, tôm thẻ chân trắng có
kim ngạch xuất khẩu ngang bằng với tôm sú. Tuy nhiên, Việt Nam hiện mới chỉ
kiểm soát được 30% lượng giống tôm sú nhập khẩu và đây là loại tôm dễ bị
dịch bệnh.

Một vấn đề nan giải khác đang làm đau đầu các DN xuất khẩu thủy sản, đó là
việc một số thị trường đang thắt chặt kiểm soát dư lượng kháng sinh trong thuỷ
sản. Kể từ ngày 9/6/2011, Nhật Bản đã chính thức tăng tần suất kiểm tra dư
lượng enrofloxacin lên mức 100% với các lô tôm nhập khẩu từ Việt Nam.


Cuối năm 2010, các DN xuất khẩu tôm cũng kêu ca việc Nhật Bản kiểm tra hoạt
chất Trifluralin ở 100% lô hàng. Các DN xuất khẩu cho rằng, dư lượng kháng
sinh có trong thủy sản xuất khẩu là do khâu nuôi trồng, chứ không phải do chế
biến. Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý chặt chẽ kháng sinh thì nguy cơ
mất thị trường là có thật.
2.3 Đánh giá chung và các vấn đề đặt ra
2.3.1 Các kết quả đạt được
Một là, các cơ quan chức năng và doanh nghiệp Việt Nam ngày càng quan
tâm đến các tiêu chuẩn kĩ thuật Nhật Bản. Tiến hành đổi mới công nghệ nuôi
trồng và chế biến, quản lý chất lượng và các vấn đề liên quan đến vệ sinh an
toàn thực phẩm, do đó đã gặt hái được những kết quả đáng kể trong mấy năm
gần đây.
Hai là, nhà nước và các cơ quan chức năng đã giám sát chặt chẽ việc thực
hiện các tiêu chuẩn kĩ thuật đối với hàng thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản để
có những giải pháp kịp thởi nhằm hạn chế tối thiểu những tổn thất cho nhà nước
và doanh ngiệp Việt Nam. VASEP đã khoanh vùng và quan sát 100% từ nuôi
trồng, chế biến và bảo quản. Đi đôi với việc này thì Bộ Thủy Sản(nay là Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn) đã ra quyết định 06/2007 QĐ-BTS có
hiệu lực từ ngày 26/7/2007 về cấp bách kiểm soát dư lượng hóa chất, kháng
sinh cấm trong thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản.
Ba là, hệ thống các điểm tư vấn, hỏi đáp về các hàng rào kĩ thuật, các tiêu
chuẩn khác được thành lập ở các địa phương, cung cấp thông tin thường xuyên
cho các doanh nghiệp về cảnh báo của thị trường đối với các lô hàng xuất khẩu
của doanh nghiệp. Công tác quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm được

duy trì tương đối thường xuyên, giải pháp kịp thời với các rào cản của Nhật
Bản.


Bốn là, hệ thống các văn bản, pháp luật đã dần được thay đổi, cải thiện
nhằm phù hợp với các quy định quốc tế và của Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn
Việt Nam (Tiêu chuẩn Việt Nam) liên quan đến nông nghiệp, nông sản và thực
phẩm gồm có 799 tiêu chuẩn trong đó có 409 tiêu chuẩn tự nghiên cứu trong đó
số tiêu chuẩn Việt Nam phù hợp là 210 và 390 tiêu chuẩn chấp nhận tiêu chuẩn
quốc tế và nước ngoài, bao gồm nhiều vấn đề về yêu cầu kỹ thuật, ghi nhãn
mác, bao gói, vận chuyển, bảo quản,
Năm là, trong việc kiểm soát dư lượng hóa chất độc hại thì kết quả kiểm
tra dư lượng các chất độc hại trong tôm thực hiện vào tháng 5-2007, tại các tỉnh
miền trung từ Quảng Bình đến Bình Ðịnh, cho thấy không mẫu tôm nào có dư
chất kháng sinh cũng như dư lượng hóa chất.
2.3.2 Tồn tại
2.3.2.1 Về phía nhà nước
Một là, công tác kiểm tra không thường xuyên trong việc thực hiện các quy
định, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như các vấn đề về môi
trường.Trình độ quản lý còn yếu kém, công tác quản lý lỏng lẻo, chưa thực sự
kiên quyết xử lí các cá nhân và doanh ngiệp vi phạm.
Hai là, đội ngũ công nhân viên và trang thiết bị kiểm tra còn chưa đạt yêu
cầu, các tiêu chuẩn của Việt Nam chỉ đáp ứng được 30%, còn 70% là chưa đáp
ứng được tiêu chuẩn của quốc tế và Nhật Bản.
Ba là, một phần do chạy theo thành tích do đó cấp phép xuất khẩu một
cách dễ dãng hơn cho các doanh nghiệp sản xuất. Các cơ quan chức năng chủ
quan trong đối với vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nên đã nới lỏng trong công
tác quản lý nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và xuất khẩu sang Nhật Bản



×