Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Hải quan với công tác chống gian lận thuế trong điều kiện việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.9 KB, 28 trang )

Lời mở đầu
Đối với bất kỳ một quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò hết sức
quan trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Việc thực thi
một số chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này và từ
đó tạo điều kiện để mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, đất nước. Ở
Việt Nam, theo thống kê của Tổng cục thuế thì 92% ngân sách Nhà nước là thu
từ thuế nên phải có phương pháp tính hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho
các đối tượng nộp thuế kết hợp với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp
phải theo đúng chế độ kế toán, tài chính và quy định của pháp luật.
Thực trạng trốn thuế, gian lận thuế ở Việt Nam hiện nay đang rất phức tạp.
Số liệu của các cơ quan thanh tra thuộc ngành tài chính cho thấy, tình trạng gian
lận, trốn thuế trong 5 năm qua diễn ra ở hầu hết lĩnh vực. Cụ thể, trong giai đoạn
2007-2010, Thanh tra Tổng cục Thuế chỉ tiến hành khoảng 17.000 cuộc thanh kiểm tra, nhưng đã kiến nghị thu vào ngân sách hơn 11.423 tỷ đồng tiền thuế và
gần 1.020 tỷ đồng tiền xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Kết quả truy thu
thuế (do mức độ gian lận) ngày càng tăng. Còn thanh tra ngành hải quan dù chỉ
thực hiện chưa đến 640 cuộc thanh - kiểm tra trong vòng 5 năm qua, nhưng cũng
đã kiến nghị truy thu và xử phạt hành chính đối với các DN xuất - nhập khẩu vi
phạm với số tiền gần 116 tỷ đồng và 160 triệu USD. Tình trạng này làm đau đầu
các nhà quản lý nói riêng và xã hội nói chung. Có những kẻ đã lợi dụng những
kẽ hở trong luật và trong quản lý của nhà nước để bòn rút tiền từ ngân sách nhà
nước và đút túi cá nhân mình.
Trong nhiều cuộc họp, ngay cả đại diện Tổng cục Thuế và Hải quan đều
thừa nhận, tình trạng gian lận thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng
diễn biến tinh vi, phức tạp. Trong đó gian lận thông qua khai báo mã số và xuất
xứ hàng hoá là hai hình thức phổ biến và có dấu hiệu gia tăng. Đây là thực tế
đáng lo ngại, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn như hiện nay.
Nước ta đã hội nhập khu vực và nền kinh tế thế giới, theo đó nhiều dòng thuế
1


được cắt giảm và ưu đãi khác nhau. Đây chính là điểm mà các doanh nghiệp làm


ăn gian dối lợi dụng để gian lận thuế.
Đứng trước thực trạng đó Nhà nước, các Bộ, ban, ngành nói chung và
ngành Hải quan nói riêng đã từng bước khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu
sót trong công tác giám sát, quản lý, tăng cường công tác thuế, thanh kiểm tra xử
lý những gian lận về thuế, góp phần thu về cho ngân sách nhà nước, bảo đảm sự
phát triển kinh tế , công bằng xã hội.
Được sự phân công của bộ môn, cùng với sự giúp đỡ của thầy giáo Nguyễn
Quang Huy, với những kiến thức đã tích lũy được, em xin viết chuyên đề: Hải
quan với công tác chống gian lận thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay.
Bài viết gồm những nội dung chính sau đây:
Chương 1: Gian lận về thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay
Chương 2: Chức năng của Hải quan trong công tác phòng chống gian lận về
thuế
Chương 3: Kết quả đạt được và một số giải pháp

2


Chương 1. Gian lận về thuế trong điều kiện Việt Nam hiện nay

1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay
Năm 2011, năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm
2011-2015, nước ta có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị ổn định; kinh
tế-xã hội phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm
phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Thành tựu
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2011 ước tính tăng 5,89% so với năm
2010 và tăng đều trong cả ba khu vực, trong đó quý I tăng 5,57%; quý II tăng
5,68%; quý III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,10%. Trong 5,89% tăng chung của
nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, đóng góp 0,66 điểm

phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,53%, đóng góp 2,32 điểm
phần trăm và khu vực dịch vụ tăng 6,99%, đóng góp 2,91 điểm phần trăm.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2011 theo giá thực tế ước tính đạt
877,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2010 và bằng 34,6% GDP (Nếu loại
trừ yếu tố tăng giá thì vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện năm
2011 bằng 90,6% năm 2010), bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước 341,6 nghìn tỷ
đồng, chiếm 38,9% và tăng 8% so với năm trước; khu vực ngoài Nhà nước
309,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,2% và tăng 3,3%; khu vực có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài 226,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,9% và tăng 5,8%.
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2011 ước tính đạt 178
nghìn tỷ đồng, bằng 101,8% kế hoạch năm và tăng 6,7% so với năm 2010, trong
đó vốn trung ương quản lý đạt 42 nghìn tỷ đồng, bằng 100,4% kế hoạch năm và
tăng 7,1%; vốn địa phương quản lý đạt 136 nghìn tỷ đồng, bằng 102,3% kế
hoạch năm và tăng 6,5%.

3


Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2011 ước tính đạt 674,5 nghìn tỷ đồng,
bằng 113,4% dự toán năm và tăng 20,6% so với năm 2010 (Mục tiêu đề ra trong
Nghị quyết số 11 của Chính phủ là tăng 7-8%). Tổng chi ngân sách Nhà nước
năm 2011 ước tính 796 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách Nhà nước bằng 4,9%
GDP (Kế hoạch đề ra là 5,3%).
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2011 ước tính đạt 96,3 tỷ USD, tăng
33,3% so với năm 2010, có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD
là: Dệt may 14 tỷ USD, tăng 25,1% so với năm 2010; dầu thô 7,2 tỷ USD, tăng
45,9%; điện thoại các loại và linh kiện 6,9 tỷ USD, tăng 197,3%; giày dép 6,5 tỷ
USD, tăng 27,3%; thủy sản 6,1 tỷ USD, tăng 21,7%; điện tử máy tính 4,2 tỷ
USD, tăng 16,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 4,1 tỷ USD, tăng 34,5%;
gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 tỷ USD, tăng 13,7%; gạo 3,6 tỷ USD, tăng 12,2%; cao su

3,2 tỷ USD, tăng 35%; cà phê 2,7 tỷ USD, tăng 48,1%; đá quý, kim loại quý và
sản phẩm gần 2,7 tỷ USD, giảm 5,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ
USD, tăng 51,3%; xăng dầu 2,1 tỷ USD, tăng 53,6%.
Nhập siêu hàng hóa năm 2011 ước tính 9,5 tỷ USD, bằng 9,9% tổng kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu. Mức nhập siêu của năm 2011 là mức thấp nhất trong
vòng 5 năm qua và là năm có tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu thấp
nhất kể từ năm 2002.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước (thấp hơn
nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và năm 2010).
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số
giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Ở khu vực nông thôn, tình trạng thiếu đói giáp hạt trong năm tuy còn xảy ra
nhưng đã giảm so với năm trước. Cả nước có 622,8 nghìn lượt hộ thiếu đói,
giảm 21,7% so với năm 2010, tương ứng với 2621 nghìn lượt nhân khẩu bị thiếu
đói, giảm 14,6%.
4


Đời sống của người làm công ăn lương cũng được cải thiện hơn. Mức lương
tối thiểu của cán bộ công chức tăng từ 730 nghìn đồng/tháng lên 830 nghìn
đồng/tháng từ 01/5/2011. Theo Nghị định số 70/2011/NĐ-CP của Chính phủ,
lương tối thiểu cho các doanh nghiệp được điều chỉnh tăng áp dụng cho 4 vùng
từ 01/10/2011, theo đó mức lương tối thiểu của vùng 1 là 2,0 triệu đồng/tháng;
vùng 2 là 1,78 triệu đồng/tháng; vùng 3 là 1,55 triệu đồng/tháng; vùng 4 là 1,4
triệu đồng/tháng. Như vậy, lần đầu tiên mức lương tối thiểu khu vực doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thống
nhất.
1.2. Khó khăn, hạn chế
Năm 2011, giá cả hàng hóa tăng cao cùng với thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên
cây trồng, vật nuôi đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của dân

cư, đặc biệt là nông dân và người lao động có thu nhập thấp ở khu vực thành thị.
Tuy nhiên, được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ cùng với việc thực hiện tốt
các chính sách an sinh xã hội của các cấp, các ngành, các địa phương nên nhìn
chung đời sống đại bộ phận dân cư có những cải thiện.
Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta năm 2011 đối mặt với một loạt khó
khăn và thách thức: Lạm phát tăng trở lại; kinh tế vĩ mô còn nhiều bất ổn; lãi
suất tăng cao; doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh do
tín dụng thu hẹp; tỷ giá có những thời điểm biến động phức tạp.
Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã nhìn nhận khách quan, toàn diện về những
thiếu sót và tồn tại của nền kinh tế, trên cơ sở đó đề ra nhiều giải pháp, biện
pháp quan trọng, cùng với sự quyết tâm và đồng thuận cao của nhân dân cả
nước. Các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm
phát được triển khai đồng bộ đã phát huy tác dụng.
Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề gian lận thuế ngày càng phức
tạp. Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân ngày càng tinh vi hơn trong việc gian
lận thuế,với số tiền gian lận ngày càng lớn. Vậy gian lận thuế là gì, nguyên
5


nhân, cách thức và thực trạng gian lận thuế ở Việt Nam hiện nay như thế nào
chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ngay sau đây.
2. Gian lận về thuế
Khái niệm gian lận về thuế
Nguyên nhân gian lận thuế

Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, trong vài năm trở lại đây, tình trạng
gian lận thuế xuất nhập khẩu ngày càng trở nên phức tạp. Ý kiến các chuyên
gia trong lĩnh vực tài chính cho rằng nguyên nhân nằm ở chỗ ý thức chấp hành
pháp luật của doanh nghiệp chưa cao, trong khi đó cơ chế chính sách trong lĩnh
vực quản lý hải quan còn nhiều kẽ hở, thiếu tính đồng bộ.

Bên cạnh nguyên nhân muôn thủa tồn tại song song với việc Nhà nước thu
thuế - đó là động cơ gia tăng lợi nhuận của người kinh doanh, còn có nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan khác dẫn đến hoạt động gian lận thuế của
các DN kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu ngày một gia tăng và cuộc đấu tranh
phòng chống hoạt động này chưa đạt kết quả như mong muốn. Đó là:
- Hoạt động ngoại thương ngày càng gia tăng đi cùng với nó là sự gia tăng
số lượng DN có hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu. Giả sử tỷ lệ gian
lận không đổi thì số lượng người gian lận gia tăng đương nhiên gia tăng.
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh những lợi ích đạt được cho
nền kinh tế thì cũng có nhiều bất lợi phải chấp nhận mà một trong số đó là sự du
nhập các thủ đoạn gian lận thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DN, mặt khác, cũng tạo ra kẽ hở để các
6


DN lợi dụng. Ở đây, điều cần lưu ý là, để giảm bớt tác động mặt trái của việc
đơn giản hóa thủ tục hải quan thì chúng ta phải hiện đại hóa và nâng cao hiệu
quả hoạt động thanh tra, kiểm tra nhưng trên thực tế chất lượng và hiệu quả
công tác này của chúng ta chưa tương xứng với mức độ đơn giản hóa thủ tục hải
quan.
- Pháp luật nói chung, pháp luật về hải quan và thuế nói riêng của Việt Nam
còn những điểm bất hợp lý, thiếu minh bạch nên dễ bị lợi dụng để gian lận thuế.
- Máy móc, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động quản lý hải quan nói chung
và phục vụ cho hoạt động kiểm hóa nói riêng mặc dù đã được đầu tư nâng cấp
và hiện đại hóa nhưng chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn.
- Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận công chức
hải quan còn hạn chế. Thậm chí một số công chức hải quan còn móc nối với DN
để giúp DN gian lận thuế.
- Hoạt động hợp tác quốc tế về hải quan tuy đã có nhiều tiến bộ, đạt nhiều

thành tựu đáng ghi nhận, song vẫn chưa đáp ứng đòi hỏi của công tác quản lý.
Điều này thể hiện ở việc không cập nhật được kịp thời những thay đổi về thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ ở các nước cũng như chữ ký của người có
thẩm quyền ký giấy chứng nhận xuất xứ, không có cơ sở dữ liệu tin cậy về giá
của hàng hóa ở nước xuất khẩu và thông tin về DN nước ngoài có quan hệ kinh
doanh với DN Việt Nam.
- Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về DN để sử dụng
chung cho các cơ quan quản lý nhà nước.
- Bên cạnh đó, một số ý kiến khác cho rằng Hải quan còn buông lỏng việc
xác định lại trị giá tính thuế, tỉ giá tại thời điểm chuyển tiêu thụ nội địa. Do vậy,
doanh nghiệp lợi dụng để trốn thuế. Đơn vị Hải quan nên căn cứ vào thời điểm
doanh nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng để xác định số thuế phải nộp: thuế
7


suất, tỉ giá, tính tại thời điểm đó. Một lý do nữa được đơn vị hải quan địa
phương nêu ra biểu thuế nhập khẩu ưu đãi tuy đã được sửa đổi theo hướng tích
cực, nhưng các mặt hàng có tên gọi hoặc phạm vi sử dụng tương tự nhau vẫn có
mức thuế suất chênh lệch và chưa có tiêu chuẩn phân biệt dẫn đến tranh chấp,
khiếu kiện kéo dài…

2.3. Các thủ đoạn gian lận thuế
Một là, cố tình kê khai sai số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu:
Trong điều kiện đơn giản hóa thủ tục hải quan hiện nay, nhiều lô hàng được
miễn kiểm tra, việc kiểm tra thực tế hàng hóa trước khi thông quan chỉ tiến hành
đối với những lô hàng có nghi vấn, còn lại sẽ kiểm tra sau thông quan đối với
một số chủ hàng. Vì vậy, nhiều chủ hàng đã lợi dụng sự thông thoáng này để
thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không khai báo đầy đủ các mặt hàng hoặc
cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu, nhập khẩu để không phải nộp thuế.
Hai là, khai sai tên hàng, chủng loại hàng, mã số hàng hóa:

Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được phân biệt theo từng mặt hàng
cụ thể. Theo thông lệ quốc tế, biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được phân
loại theo danh mục HS có mã số hàng hóa cụ thể. Như vậy, tên hàng, chủng loại
hàng và mã số hàng hóa liên quan trực tiếp đến thuế suất của mặt hàng đó.
Trong điều kiện thông quan trước, kiểm tra sau, nhiều chủ hàng đã gian lận thuế
nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng, sai mã số hàng hóa. Thậm chí nếu có
thể móc nối được với cán bộ hải quan biến chất, chủ hàng lại muốn được đưa
vào luồng đỏ (kiểm tra trước, thông quan sau) vì lô hàng này không thuộc diện
kiểm tra sau thông quan, nên nếu sai sót này được bỏ qua ở khâu kiểm hóa thì
hành vi gian lận có tỷ lệ thành công rất cao. Trong trường hợp không móc nối
được với cán bộ hải quan, chủ hàng cũng vẫn sẵn sàng thực hiện thủ thuật này
8


và hy vọng vào việc không nằm ở diện kiểm tra trước hoặc kiểm tra sau thông
quan.
Ba là, gian lận về xuất xứ hàng hóa:
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam vừa phân biệt theo mặt hàng, vừa
phân biệt theo xuất xứ hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, tùy theo xuất xứ của hàng
hóa nhập khẩu mà áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất ưu đãi và thuế
suất thông thường. Như vậy, cùng một mặt hàng, cùng mã hàng hóa nhưng xuất
xứ khác nhau thì thuế suất có thể chênh lệch rất nhiều.
Gian lận về xuất xứ hàng hóa chủ yếu được thực hiện qua thủ thuật nhập
hàng hóa không đủ điều kiện nhưng vẫn sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O)
100% hàm lượng ASEAN (C/O mẫu D) hoặc sử dụng C/O giả. Việc sử dụng
C/O giả có thể do người nhập khẩu bị người xuất khẩu lừa nhưng thường là có
sự thỏa thuận giữa hai bên.
Bốn là, gian lận về trị giá tính thuế:
Việc gian lận thuế qua trị giá chủ yếu diễn ra ở những mặt hàng có thuế suất
cao như: ô tô, xe máy, linh kiện điện tử, máy móc, hàng tiêu dùng... Các hành vi

gian lận thường được thực hiện dưới các hình thức sau:
- Chủ hàng câu kết với người xuất khẩu cố tình ghi giá trong hợp đồng và
hóa đơn thương mại thấp hơn giá thực tế mua bán đối với những mặt hàng chịu
thuế suất cao (chủ yếu là các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt).
- Chủ hàng dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải quan để khai báo
trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá giao dịch
thực tế, sau đó khai báo thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng giống hệt,
tương tự đã nhập khẩu trước. Bằng hành vi này, chủ hàng đã lợi dụng các quy
định về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao
9


dịch hàng nhập khẩu giống hệt/tương tự để được tính thuế với mức giá thấp hơn
so với trị giá giao dịch thực tế.
- Chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử (với số lượng ít) để
thăm dò thái độ của cơ quan hải quan (hải quan thường ít để ý kiểm tra lô hàng
số lượng ít, tổng giá mua thấp), sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng
thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan
chưa kịp xác minh và xử lý, chủ hàng đã tiến hành giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi
địa chỉ đăng ký kinh doanh.
- Chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá hoặc không khai
báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng hoặc các
khoản thanh toán gián tiếp để làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
- Chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của hàng hóa nhập
khẩu để tăng vốn đầu tư, tăng giá thành hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, từ đó,
“chuyển” lợi nhuận sang cho công ty mẹ ở nước ngoài để được hưởng thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp thấp. Đây là hành vi gian lận giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu nhưng có liên quan chặt chẽ đến hành vi chuyển giá.
Năm là, giả mạo điều kiện và chứng từ để hưởng ưu đãi thuế:
Các ưu đãi thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gồm có các quy định

về miễn thuế, giảm thuế và hoàn thuế. Để được hưởng các ưu đãi này, người
xuất khẩu, nhập khẩu phải thỏa mãn những điều kiện nhất định và phải có đầy
đủ các hồ sơ, chứng từ để chứng minh các điều kiện đó. Các dạng ưu đãi thường
bị lợi dụng để gian lận về điều kiện và giả mạo chứng từ là gia công xuất khẩu,
sản xuất xuất khẩu và ưu đãi đối với một số dự án đầu tư ở một số lĩnh vực hoặc
ở địa bàn kinh tế xã hội khó khăn. Các biểu hiện cụ thể của thủ thuật gian lận
này là:

10


- Nhập khẩu hàng hóa không phải là thiết bị đồng bộ, không thỏa mãn điều
kiện miễn thuế nhưng khai báo là các bộ phận, thiết bị của thiết bị đồng bộ để
được miễn thuế.
- Tẩy xóa, sửa chữa vận tải đơn để tăng số lượng hàng hóa xuất khẩu từ
nguyên liệu nhập khẩu để gia công xuất khẩu. Điển hình cho thủ đoạn này là
Công ty Cổ phần may Hoà Bình. Công ty này đã sửa chữa vận tải đơn để làm
thủ tục thực xuất áo thun với số lượng 42 kiện hàng nhằm được miễn thuế nhập
khẩu của số vải nhập khẩu tương ứng.
- Kê khai sai về định mức tiêu hao vật tư, nguyên liệu, khai sai về định mức
hao hụt đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hoặc gia công hàng hóa xuất
khẩu để bán hàng đã sản xuất, gia công từ nguyên liệu nhập khẩu vào thị trường
nội địa, từ đó trốn thuế của nguyên liệu nhập khẩu. Đây là một thủ đoạn gian lận
khá phổ biến hiện nay. Dạng gian lận này có ở mọi địa phương trong cả nước.
Chẳng hạn như, tại Cục Hải quan Bình Dương, năm 2010 tiến hành kiểm tra 60
vụ thì phát hiện 19 vụ vi phạm với số thuế truy thu 8,5 tỷ đồng.
- Giả mạo định mức tiêu hao nguyên, vật liệu nhập khẩu đối với hàng hoá
gia công. Theo đó, DN sử dụng bản định mức tiêu hao nguyên vật liệu đã ký sao
y bản chính không phải là bản thật (bản gốc), thực chất đó là bản định mức đã
cắt dán để hợp thức hoá giấy tờ kèm theo bộ hồ sơ xuất khẩu.

Sáu là, lợi dụng quy định quản lý kinh doanh hàng tạm nhập, tái xuất để
bán hàng vào thị trường nội địa:
Theo quy định pháp luật hiện hành, nếu thực hiện đúng mục đích của hoạt
động tạm nhập, tái xuất thì hàng hóa được miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu hoặc
không phải nộp thuế khi tạm nhập và khi tái xuất. Tùy theo từng trường hợp mà
hàng hóa phải làm thủ tục hải quan hoặc không làm thủ tục hải quan nhưng phải
lưu ở kho ngoại quan hoặc kho bảo thuế và phải chịu sự giám sát của hải quan.
Tuy nhiên, một số DN đã sử dụng một số thủ thuật để trốn thuế, đó là các thủ
11


đoạn khai báo sai số lượng nhập khẩu, khi vận chuyển hàng từ cửa khẩu đến nơi
làm thủ tục hải quan để phá dỡ niêm phong, lấy hàng; tự ý tiêu thụ nội địa không
khai báo; tái xuất khống mặc dù hàng đã tiêu thụ nội địa… Điển hình là các vụ
Công ty TNHH Tuấn Ngân xuất khống 110.000 m vải; Công ty sản xuất thương mại xuất nhập khẩu Tây Nam (Quân khu 7) đã tiêu thụ nội địa hơn
14.728 tấn xăng dầu trị giá trên 46,8 tỷ đồng với chiêu thức tiêu thụ nội địa hàng
hóa tạm nhập, tái xuất.
Bảy là, nhập khẩu hàng nguyên chiếc nhưng tháo rời chia thành nhiều lô
hàng nhỏ để được hưởng thuế suất thấp đối với linh kiện:
Theo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành, thuế suất đối với linh
kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu thấp hơn thuế suất hàng nguyên chiếc, chẳng
hạn như thuế suất linh kiện rời của ô tô, của điều hòa thấp hơn thuế suất ô tô
hoặc điều hòa nguyên chiếc. Lợi dụng sự chênh lệch thuế suất này, DN tháo rời
hàng nguyên chiếc thành linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Một trường hợp
điển hình của thủ đoạn gian lận này đã bị phát hiện là Công ty Sanyo Ha Asean.
Công ty này đã ký hợp đồng với Công ty cổ phần Điện tử Gree tại Bình Dương.
Theo đó, Công ty cổ phần Điện tử Gree nhập khẩu linh kiện, chi tiết máy điều
hòa (một phần mở tờ khai nhập khẩu ở Bình Dương, một phần ở Đồng Nai) lắp
thành điều hòa hoàn chỉnh để bán cho Công ty Sanyo Ha Asean. Tuy nhiên, cơ
quan hải quan đã chứng minh công ty này không hề sản xuất máy điều hòa tại

Việt Nam, mà chỉ thực hiện công đoạn lắp ráp đơn giản là thành sản phẩm hoàn
chỉnh.
Tám là, cố tình nợ thuế xuất khẩu, nhập khẩu sau đó tự bỏ kinh doanh,
bỏ trốn để trốn thuế:
Theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tùy theo từng
trường hợp cụ thể, người nộp thuế có thể phải nộp thuế trước khi thông quan
hoặc có thời gian ân hạn thuế từ 15 ngày đến 275 ngày. Quy định ân hạn thuế
12


này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
DN. Lợi dụng quy định này, một số đối tượng đã thành lập DN, thực hiện nhập
khẩu ồ ạt nhiều lô hàng nhưng cố tình nợ thuế sau đó tự bỏ kinh doanh, bỏ trốn
để trốn thuế. Đây chính là kiểu DN “ma” đã được đề cập nhiều trong thời gian
gần đây. Kiểu trốn thuế này khá phổ biến. Đó là lý do tại sao số nợ thuế lũy kế
của ngành Hải quan rất lớn, tính đến ngày 30/10/2011 số nợ thuế chuyên thu quá
hạn là 5.218 tỷ đồng.
Chín là, nhập khẩu hàng từ Trung Quốc sau đó bóc nhãn mác ghi xuất
xứ Trung Quốc để dán nhãn mác ghi xuất xứ Việt Nam:
Đây là một chiêu thức rất mới nhằm gian lận thương mại quốc tế trong giới
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng Trung Quốc. Đó chính là việc nhập khẩu hàng
Trung Quốc (những hàng chất lượng thấp không có thương hiệu và giá rẻ hoặc
hàng thuộc diện bị áp thuế cao khi xuất khẩu từ Trung Quốc sang nước thứ ba)
sau đó bóc nhãn mác xuất xứ Trung Quốc và thay bằng nhãn mác xuất xứ Việt
Nam. Hành vi này không chỉ làm nước nhập hàng bị thất thu thuế, mà còn làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của hàng hóa Việt Nam.
Hậu quả
Gian lận thuế làm giảm nguồn thu cho ngân sách. Theo thống kê thuế là
nguồn thu chính của ngân sách Nhà nước, hàng năm nguồn thu từ thuế chiếm
trên 90% tổng thu Ngân sách nhà nước, là nguồn thu ổn định của ngân sách Nhà

nước, thuế là khoản thu mang tính luật pháp thể hiện tính cưỡng chế cao.
Thuế có vai trò điều tiết nền kinh tế:
- Thuế là công cụ tài chính điều tiết nền kinh tế. Đây là vai trò có tính chất
quyết định của thuế. Sử dụng công cụ thuế, nhà nước có thể mở rộng hoặc thu
hẹp một ngành kinh tế nào đó. Để khuyếch chương, phát triển một ngành kinh tế
nhà nước sử dụng biện pháp: đánh thuế thấp, thu hẹp phạm vi chủ thể nộp thuế,
13


mở rộng diện miễn, giảm thuế. Để thu hẹp một ngành kinh tế nhà nước sử dụng
biện pháp: đánh thuế cao, mở rộng phạm vi chủ thể nộp thuế, giảm diện miễn,
giảm thuế.
- Thuế là công cụ điều chỉnh giá cả thị trường, hạn chế lạm phát: Khi giá cả
một loại hàng hoá nào đó trên thị trường tăng lên, Nhà nước có thể điều chỉnh
giá bằng cách giảm thuế đối với mặt hàng đó và ngược lại; Để kiềm chế tốc độ
lạm phát nhà nước có thể giảm thuế.
- Thuế là công cụ để Nhà nước thực hiện việc bảo hộ nền sản xuất trong
nước.
Việc gian lận thuế sẽ làm ảnh hường nghiêm trọng tới việc vận hành của nền
kinh tế, làm giảm sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Thuế còn là công cụ để điều tiết thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng và thực hiện
công bằng xã hội. Chính vì vậy việc gian lận thuế sẽ làm giảm công bằng xã hội.
3. Những văn bản pháp luật, quy định có liên quan
4. Đánh giá hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay
Thành tựu
- Đã xây dựng được hệ thống chính sách thuế áp dụng đối với mọi thành
phần kinh tế thay thế các chế độ thu của cơ chế quan liêu bao cấp.
- Đã xây dựng được một hệ thống bộ máy tổ chức quản lý thuế thống nhất
trong cả nước ngày càng được củng cố và tăng cường về mọi mặt.
- Xây dựng hàng loạt các quy trình và biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế

theo hướng chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ quản lý thuế
được tách thành 3 bộ phận độc lập, và từng bước chuyển sang chế độ tự khai - tự
nộp thuế.
- Đội ngũ cán bộ thuế được tăng cường và đào tạo bồi dưỡng, nâng cao kể
cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp (năm 1990 cán bộ có trình độ từ trung cáp trở lên chỉ chiếm 36% nhưng
14


đến năm 2004 đã lên tới 94,1%; cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm
tỷ lệ từ 10,5% năm 1990 lên đến 34,2% năm 2004)
- Công tác kiểm tra, thanh tra thuế đã được coi trọng, là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của công tác quản lý thuế.
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã được chú trọng từng
bước nhằm nâng cao tính tuân thủ tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của tổ
chức, cá nhân.
- Đã ứng dụng công nghệ thông tin vào nhiều khâu quản lý thuế, do đó đã
góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
4.2. Hạn chế
a. Về chính sách thuế
- Chưa bao quát hết mọi nguồn thu trong nền kinh tế.
- Chưa khuyến khích và bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn sản xuất trong
nước.
- Chưa thực sự đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế.
- Chính sách thuế vẫn còn phức tạp, một số sắc thuế còn nhiều mức thuế
suất, lồng ghép nhiều chính sách xã hội, nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế
tính trung lập của thuế.
b. Quản lý thuế:
* Cơ chế quản lý thuế:
- Cơ chế quản lý thuế hiện hành chưa được xây dựng trên cơ sở đề cao

tính chủ động, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải tự tính - tự
khai, tự nộp thuế vào Ngân sách nhà nước, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Biểu hiện:
+ Một thời gian dài chưa coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ chất lượng cao để nâng cao sự hiểu biết, tự giác tuân thủ pháp
luật của đối tượng nộp thuế.
15


+ Làm thay các chức năng thuộc trách nhiệm của người nộp thuế như:
tính toán xác định mức thuế để ra thông báo thuế, xác định mức miễn, giảm
thuế….
Hậu quả là giảm nhẹ nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế; Nhiều vi
phạm về thuế là do thiếu hiểu biết gây ra, dẫn đến gánh nặng phải tăng cường
công tác quản lý thuế để khắc phục các sai phạm; lãnh phí nguồn nhân lực, tài
chính cho cơ quan thuế, cơ quan thuế kkhông đủ nhân lực và tài chính để thực
hiện các chức năng chủ yếu của mình như: tăng cung các hoạt động hỗ trợ, tăng
cường thanh tra, kiểm tra.
- Nghĩa vụ trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ
quan thuế và tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy
định đầy đủ và thiếu nhất quán giữa các sắc thuế. Do đó chưa có đủ cơ sở pháp
lý để tổ chức quản lý thuế có hiệu quả.
- Một số quy định còn rườm rà phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch, gây
khó khăn tốn kém chi phí cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh
tiêu cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
- Chưa phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế tiên tiến trên khu vực và
thế giới.
* Môi trường pháp lý:
- Môi trường pháp lý kinh tế xã hội chưa được cải cách đồng bộ, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế như quản lý đăng ký kinh doanh, quản

lý đất đai, quản lý xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý thanh toán
bằng tiền mặt….
- Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ
bản chất và lợi ích của công tác thuê; chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành
vi gian lận về tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế để thu tiền thuế.
Tình trạng trốn thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm
thất thu cho ngân sách, vừa không đảm bảo công bằng xã hội.

16


Chương 2. Vai trò của Hải quan trong công tác chống gian lận về thuế
1. Vai trò chung của Hải quan trong công tác chống gian lận về thuế
1.1.

Cơ sở lý luận chung

1.2.

Thẩm quyền

a. Thẩm quyền của tổ chức
Cơ quan Hải quan được quyền ra quyết định xử phát đối với 4 sắc thuế sau
đây: thuế xuất khẩu – nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu,
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu, thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao.
b. Thẩm quyền của các cá nhân
+ Đội trưởng đội nghiệp cụ thuộc Chi cục Hải quan có quyền phạt tiền đến
500.000đ
+ Chi cục trưởng Chi cục Hải quan được quyền phạt đến 10.000.000đ, tịch

thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính đến 20.000.000đ.
+ Cục trưởng Cục Hải quan được quyền phạt đến 20.000.000đ, tịch thu
tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính.
+ Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan có
quyền phạt đến 100.000.000đ.
2. Cách thức tiến hành kiểm tra phát hiện gian lận về thuế
- Kiểm tra sau thông quan
- Kiểm tra thực tế
- Thanh, kiểm tra thường xuyên
3. Biện pháp xử lý
17


3.1. Biện pháp hành chính
Theo quy định tại mục IV, phần B Thông tư số 61/2207/TT-BTC ngày
14/6/2007 của Bộ Tài chính xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế như
sau:
Người nộp thuế có hành vi trốn thuế, gian lận thuế thì phải nộp đủ số tiền
thuế trốn, số tiền thuế gian lận, ngoài ra còn bị xử phạt theo số lần tính trên số
tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận như sau:
3.1.1. Phạt tiền 1 lần tính trên số thuế trốn, số thuế gian lận đối với người nộp
thuế vi phạm lần đầu (trừ các trường hợp bị xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn
đến thiếu thuế ) hoặc vi phạm lần thứ hai mà có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên
khi có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
3.1.1.1. Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; hoặc nộp
hồ sơ khai thuế sau chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp theo quy định
tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 32 hoặc kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ
khai thuế theo quy định tại Điều 33 của Luật Quản lý thuế.
Đối với loại thuế có kỳ tính thuế theo năm, nhưng theo quy định phải nộp hồ
sơ khai thuế tạm tính nộp theo tháng, quý, nếu hồ sơ khai thuế tạm nộp sau 90

ngày so với thời hạn quy định, nhưng vẫn trong thời hạn nộp hồ sơ quyết toán
thuế năm thì không xử phạt về hành vi trốn thuế, mà xử phạt về hành vi chậm
nộp hồ sơ khai thuế quy định tại Điều 9 Nghị định số 98/2007/NĐ-CP.
3.1.1.2. Không cung cấp được hoá đơn, chứng từ hợp pháp hoặc cung cấp sau
thời hạn quy định đối với hàng hoá vận chuyển trên đường, trừ trường hợp cung
cấp được chứng từ nộp thuế hợp pháp trong thời hiệu khiếu nại theo quy định;
3.1.1.3. Sử dụng hoá đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hoá,
dịch vụ mua vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế

18


phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc
tăng số tiền thuế được khấu trừ, số thuế được hoàn.
3.1.1.4. Lập thủ tục huỷ vật tư, hàng hoá hoặc giảm số lượng, giá trị vật tư,
hàng hoá không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế
được hoàn, được miễn, giảm;
3.1.1.5. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ lập hoá đơn về số lượng, giá trị làm
căn cứ kê khai nộp thuế thấp hơn thực tế;
3.1.1.6. Sử dụng hoá đơn giả, hoá đơn đã hết giá trị sử dụng, hoá đơn của cá
nhân, tổ chức khác để bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và khai không đầy đủ số
thuế phải nộp, nhưng không thuộc các trường hợp bị xử phạt về hành vi khai sai
dẫn đến thiếu thuế;
3.1.1.7. Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc
xác định số tiền thuế phải nộp;
3.1.1.8. Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên
hoá đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá, dịch vụ đã
bán và bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế;
3.1.1.9. Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán giá trị hàng
hoá, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế

miễn, số tiền thuế giảm, số tiền thuế được hoàn, nhưng thực tế không có hàng
hoá, dịch vụ mua vào;
3.1.1.10. Sử dụng hàng hoá được miễn thuế (bao gồm cả không chịu thuế)
không đúng với mục đích quy định mà không khai thuế;
3.1.1.11. Sửa chữa, tẩy xoá chứng từ kế toán, sổ kế toán làm giảm số thuế
phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, số tiền thuế được
giảm;
19


3.1.1.12. Huỷ bỏ chứng từ kế toán, sổ kế toán làm giảm số thuế phải nộp
hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, giảm;
3.1.1.13. Sử dụng hoá đơn, chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác
định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; khai sai căn cứ tính thuế
phát sinh số thuế trốn, số thuế gian lận;
3.1.1.14. Lập hai hệ thống sổ kế toán có nội dung ghi khác nhau làm giảm số
thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, giảm.
3.1.2. Phạt tiền 1,5 lần tính trên số thuế trốn đối với người nộp thuế khi có
một trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, trong các trường hợp: Vi phạm
lần đầu, có tình tiết tăng nặng hoặc vi phạm lần thứ hai, có một tình tiết giảm
nhẹ.
3.1.3. Phạt tiền 2 lần tính trên số thuế trốn đối với người nộp thuế khi có một
trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, trong các trường hợp: Vi phạm lần thứ
hai mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vi phạm lần thứ ba và có một tình tiết
giảm nhẹ.
3.1.4. Phạt tiền 2,5 tính trên số thuế trốn đối với người nộp thuế khi có một
trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, trong các trường hợp: Vi phạm lần thứ
hai mà có một tình tiết tăng nặng hoặc vi phạm lần thứ ba mà không có tình tiết
giảm nhẹ.
3.1.5. Phạt tiền 3 lần tính trên số tiền thuế trốn đối với người nộp thuế khi có

một trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế trong các trường hợp: Vi phạm lần
thứ hai mà có từ hai tình tiết tăng nặng trở lên hoặc vi phạm lần thứ ba có tình
tiết tăng nặng hoặc vi phạm từ lần thứ tư trở đi.
3.1.6. Khi xác định mức phạt tiền đối với người nộp thuế có hành vi trốn thuế
vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì xem xét giảm trừ thì hai
tình tiết giảm nhẹ được giảm trừ một tình tiết tăng nặng để xác định mức phạt.
20


Số tiền thuế trốn theo quy định tại Mục này là số tiền thuế phải nộp vào Ngân
sách Nhà nước theo quy định của pháp luật mà người nộp thuế không nộp do
thực hiện một trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế quy định tại Khoản 1,
Điều 14 Nghị định số 98/2007/NĐ-CP bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và
xác định trong biên bản kiểm tra thuế, kết luận thanh tra thuế.
3.1.7. Các hành vi vi phạm quy định tại Mục này bị phát hiện trong thời hạn
nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế hoặc bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ
khai thuế, nhưng không làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn, số thuế miễn, giảm và không thuộc trường hợp bị xử phạt đối với hành vi
trốn thuế thì bị xử phạt về hành vi phạm về thủ tục thuế; chậm nộp tiền thuế;
khai thiếu thuế hoặc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán; bao
gồm cả các trường hợp sau:
3.1.7.1. Trường hợp người nộp thuế là tổ chức, cá nhân không kinh doanh
đang thuộc diện được miễn thuế, được hoàn thuế theo quy định của pháp luật, kê
khai không đúng căn cứ xác định số thuế được miễn, số thuế được hoàn nhưng
không làm thiệt hại đến số thuế của Ngân sách Nhà nước thì không bị xử phạt
đối với hành vi trốn thuế.
3.1.7.2. Trường hợp người nộp thuế theo phương pháp kê khai đang trong
thời hạn hưởng ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp bị phát hiện có hành vi
vi phạm như khai sai làm tăng khống chi phí để tăng số lỗ, để giảm lãi; giảm chi
phí để tăng lãi và xác định không đúng các điều kiện để được hưởng miễn thuế

thu nhập doanh nghiệp thì:
a) Nếu vi phạm được kiểm tra phát hiện ngay trong thời gian đang được ưu
đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thì không xử phạt về hành vi trốn thuế mà
thực hiện xử phạt vi phạm về thủ tục thuế hoặc xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kế toán;

21


b) Nếu vi phạm chưa được kiểm tra phát hiện mà cá nhân, tổ chức không tự
điều chỉnh hậu quả làm giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp của năm tiếp sau
khi hết thời hạn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thì bị xử phạt về hành vi
trốn thuế.
Truy cứu trách nhiệm hình sự
Phạm vi áp dụng
Chủ thể áp dụng hình thức xử phạt này chỉ là cá nhân và hành vi đã đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mức xử phạt
- Cá nhân có hành vi trốn thuế từ 50.000.000đ trở lên.
- Cá nhân có hành vi trốn thuế từ dưới 50.000.000đ nhưng vẫn tái phạm.
Tái phạm là đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn tiếp tục trốn thuế hoặc
phạm các tôi về kinh tế mà chưa được xoá án.
- Mức án cao nhất được quy định tại điều 161 Bộ luật hình sự là 7 năm tù
giam.

Chương 3. Kết quả đạt được và một số giải pháp
1. Kết quả truy thu thuế tại cục Hải quan Hải Phòng
Theo Cục Hải quan Hải Phòng, dựa vào tiêu chí quản lí rủi ro (do Phòng
Quản lí rủi ro thực hiện) cho máy soi conatainer, kết hợp với kiểm tra thực tế
hàng hóa, trong 6 tháng đầu năm 2012 đơn vị phát hiện được 26 vụ vi phạm liên

quan đến hành vi gian lận thuế, truy thu gần 4,4 tỷ đồng.
Đến hết tháng 6, toàn Cục đã ban hành 80 quyết định ấn định thuế, truy thu
gần 20 tỉ đồng từ công tác kiểm tra sau thông quan; tăng 100% số vụ và tăng
58,8% tổng số tiền truy thu so với cùng kì năm 2011. Đến nay, các doanh nghiệp
22


vi phạm đã nộp vào ngân sách trên 10,3 tỉ đồng. Đây là số thu tương đối lớn từ
hoạt động kiểm tra sau thông quan.
Theo Hải quan Hải Phòng, các hành vi vi phạm chủ yếu tại địa bàn tập trung
chủ yếu vào vấn đề gian lận thương mại và chính sách mặt hàng nhằm trốn thuế.
Cụ thể, các hành vi vi phạm được phát hiện như: Khai sai về trị giá, mã số
hàng hóa, thuế suất hoặc các hành vi lợi dụng ưu đãi về chính sách mặt hàng,
chính sách ưu đãi trong các lĩnh vực gia công, sản xuất xuất khẩu...
2 vụ việc điển hình (có số truy thu lớn) được Chi cục Kiểm tra sau thông
quan (KTSTQ) Hải Phòng thực hiện trong những tháng đầu năm đều liên quan
đến việc khai sai mã số dẫn đến làm thiếu số thuế phải nộp, với tổng số tiền tăng
thêm trên 10 tỉ đồng.
Vụ thứ nhất liên quan đến mặt hàng “Thuốc mầu AM” và chất kết dính (Ab
150 và Ab 160), vụ thứ hai liên quan đến mặt hàng “vận thăng lồng”. Cụ thể, từ
năm 2007 đến nay, một DN FDI nhập khẩu qua cảng Hải Phòng các mặt hàng là
nguyên liệu sản xuất sơn như chất kết dính, dầu bóng, chất tẩy rửa, thuốc mầu
AM các loại… Trong đó, 2 mặt hàng DN khai báo sai mã số thuế là chất kết
dính (Ab 150 và Ab 160) và thuốc mầu AM các loại, dẫn đến làm giảm số thuế
phải nộp .
Theo Chi cục KTSTQ, mặt hàng chất kết dính có thời điểm được DN khai
vào nhóm 3208 (mã chi tiết 3208209030) thuế NK ưu đãi 15% hoặc 20% (tùy
thời điểm), có thời điểm thì khai vào nhóm 2707 (mã chi tiết 2707999000) thuế
NK ưu đãi 0% hoặc 1% (tùy thời điểm). Tuy nhiên, căn cứ vào kết quả phân tích
của Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa XNK (Tổng cục Hải quan) và đối

chiếu với biểu thuế hiện hành, Chi cục KTSTQ xác định mã số của mặt hàng
“chất kết dính” là 3208109090 có thuế suất NK 22% đến 28% (tùy thời điểm).

23


DN đã đồng ý với việc điều chỉnh lại mã của cơ quan Hải quan. Từ kết quả
này, Hải quan Hải Phòng đã ra quyết định ấn định thuế với số tiền tăng thêm
trên 2,14 tỉ đồng, DN đã chấp hành quyết định ấn định thuế.
Với mặt hàng thuốc mầu AM, DN trên cũng khai nhiều tên, nhiều mã khác
nhau như: “thuốc mầu, nguyên liệu sản xuất sơn” có mã 3212901900 thuế suất
NK ưu đãi 3%; “Sơn” có mã 3208209090 thuế suất thuế NK ưu đãi 26%; hoặc
“thuốc mầu” có mã 3208209030 (mã sơn bán thành phẩm) thuế suất thuế NK ưu
đãi 20%.
Nhưng theo kết quả phân tích phân loại hàng hóa và biểu thuế hiện hành, Chi
cục KTSTQ Hải Phòng xác định mặt hàng “thuốc mầu AM” được DN nhập về
thực chất là “sơn bán thành phẩm”, có mã 3208209030 thuế suất thuế NK ưu đãi
20%.
Hải quan Hải Phòng đã ra quyết định ấn định thuế gần 4,9 tỉ đồng đối với các
lô hàng “thuốc mầu AM” các loại do DN nhập từ năm 2009 đến cuối tháng 32012. Đến tháng 4 vừa qua, DN đã chấp hành quyết định ấn định thuế và nộp đủ
số tiền vào NSNN. Như vậy, riêng xác định lại mã số 2 mặt hàng “chất kết dính”
và “thuốc mầu AM” các loại của DN này, Hải quan Hải Phòng đã thu đúng, thu
đủ cho NSNN trên 7 tỉ đồng.
Vụ thứ 2 liên quan đến mặt hàng “vận thăng lồng” (tên tiếng Anh Lift hoặc
Hoist) cũng do 1 DN có vốn FDI nhập khẩu.
Qua phân tích 10 tờ khai NK (có dấu hiệu nghi vấn), Chi cục KTSTQ thấy có
7 tờ khai được DN khai báo “thiết bị nâng kiểu thùng, tời nâng kiểu thùng, thang
nâng kiểu thùng” và áp mã 8428109000 (mã số của “tời nâng kiểu thùng” có
thuế suất thuế NK ưu đãi 0%). Nhưng có 3 tờ khai DN lại khai “thang nâng kiểu
thùng, tời nâng kiểu thùng” và áp mã 8428102900 (mã của “thang máy nâng hạ

khác, loại dùng trong xây dựng” có thuế suất thuế NK ưu đãi 10%).
24


Qua các biện pháp nghiệp vụ, Chi cục KTSTQ xác định cả 10 bộ tờ khai trên
thực chất là mặt hàng “vận thăng lồng” (thuộc nhóm “thang máy nâng hạ khác,
loại dùng trong xây dựng”) loại dùng trong xây dựng có mã 8428102900, thuế
suất thuế NK ưu đãi 10%.
Căn cứ kết quả kiểm tra tại trụ sở DN và giải trình của DN, Hải quan Hải
Phòng đã ra quyết định ấn định thuế với một số lô hàng NK (khai sai mã số) của
DN, với tổng số tiền ấn định tăng thêm gần 8,2 tỉ đồng.
Kết thúc năm 2011, toàn Cục ra quyết định và tiến hành kiểm tra sau thông
quan (KTSTQ) 488 vụ. Trong đó có 476 vụ tại cơ quan Hải quan và 12 vụ tại trụ
sở DN.

Từ kết quả các cuộc KTSTQ, Cục Hải quan Hải Phòng đã ban hành 115
quyết định ấn định thuế với tống tiền truy thu gần 47 tỉ đồng. Đến nay, các DN
đã nộp vào NSNN gần 45,5 tỉ đồng.
Ngoài ra, đơn vị còn xử phạt vi phạm hành chính 12 vụ, với tổng số tiền phạt
gần 484 triệu đồng.
Bên cạnh đó, trong “Năm KTSTQ - 2011” Chi cục KTSTQ Hải Phòng còn
tham mưu giúp Cục trưởng xây dựng kế hoạch quán triệt Chỉ thị 568/CT-TCHQ
của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về tăng cường công tác KTSTQ và ban
hành Kế hoạch số 1762/KH-STQ ngày 19-4-2011 của Cục Hải quan Hải Phòng
để thực hiện Chỉ thị 568.
2. Tồn tại, hạn chế
- Năng lực cán bộ Hải quan còn yếu kém
- Pháp luật còn nhiều kẽ hở, thiếu chặt chẽ
25



×