Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BÀI tập cá NHÂN SO SÁNH HOẠT ĐỘNG đầu tư TRONG CÔNG TY bảo HIỂM NHÂN THỌ và PHI NHÂN THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.65 KB, 10 trang )

Họ và tên SV:Nguyễn Mạnh Huy
Mã SV: CQ521567
Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
BÀI TẬP CÁ NHÂN
SO SÁNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG
CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ PHI NHÂN THỌ

I.

Giống nhau:
1.Các nguyên tắc đầu tư:
Hoạt động đầu tư của DNBH nói chung đều phải tuân theo những
nguyên tắc cơ bản:
- Nguyên tắc an toàn: nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối
đa rủi ro trong đầu tư, bảo toàn nguồn vốn sử dụng. Việc đảm bảo
nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng đối vơi DNBH, nó đảm
bảo cho doanh nghiệp thực hiện các cam kết với khách hàng trong các
hợp đồng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an toàn của các
khoản mục đầu tư được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục
đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp. Ngoài ra,
nguyên tắc này yêu cầu DNBH phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của
mình.Nguyên tắc phân tán rủi ro không chỉ áp dụng đối với hoạt động
kinh doanh bảo hiểm trực tiếp mà còn sử dụng đối với cả hoạt động đầu
tư của DNBH, bởi vì mỗi danh mục đều mang trong mình những yếu tố
rủi ro riêng. Do đó, để phân tán rủi ro, cách tót nhất là đặt vốn vào nhiều
danh mục khác nhau.
- Nguyên tắc sinh lời:
Hoạt động đầu tư phải đảm bảo tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận rất cần thiết
để đảm bảo cho DNBH tăng cường sức mạnh tài chính, thực hiện các
chiến lược của doanh nghiệp như: giảm phí, mở rộng phạm vi bảo
hiểm… Do đó, người quản lý quỹ bảo hiểm cần đầu tư vào những lĩnh




vực đem lại mức lợi nhuận hợp lý, đồng thời đảm bảo nguyên tắc an
toàn. Bởi vì theo nguyên lý đầu tư: khi rủi ro đầu tư càng cao thì tỷ suất
lợi nhuận đầu tư cũng càng cao và ngược lại.
-Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên:
Việc đầu tư của DNBH phải bảo đảm có tính thanh khoản hợp lý.DNBH
có thể phải thanh toán tiền cho người tham gia bảo hiểm bất kỳ lúc nào
khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Do đó, các lĩnh vực đầu tư phải phù hợp
với từng loại quỹ đầu tư dài hạn hay ngắn hạn. Tính thanh khoản của các
khoản mục đầu tư của DNBH được pháp luật thể chế bằng việc quy định
danh mục đầu tư với những tỷ lệ nhất định.Trong thực tế, việc đồng thời
thực hiện các nguyên tắc trên đối với DNBH là 1 vấn đề phức tạp và
mâu thuẫn với nhau. Khi DNBH thực hiện nguyên tắc an toàn, khả năng
sinh lời của các khoản đầu tư bị giảm xuống. Ngược lại, nếu chỉ chú ý
đến nguyên tắc sinh lời , rủi ro đầu tư sẽ tăng lên, ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán của DNBH. Ngoài ra, các nguyên tắc đầu tư cần được
áp dụng linh hoạt tùy thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào.So
với hoạt động đầu tư từ các nguồn vốn tự có, hoạt động đầu tư từ các
nguồn vốn nợ phải tuân thủ nguyên tắc trên là hết sức nghiêm ngặt.Bởi
vì, đây không phải là tiền của DNBH, mà đây là các khoản nợ của doanh
nghiệp đối với khách hàng.
2.Nguồn vốn đầu tư:
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ đểu thực hiện hoạt
động đầu tư của mình từ những nguồn sau:
- Vốn điều lệ
- Quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện
- Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
- Vốn điều lệ: Trong hoạt động kinh doanh, DNBH thu tiền phí bảo

hiểm từ khách hàng trước, sau đó mới dùng tiền này để chi trả bồi
thường khi có sự kiện xảy ra. Như vậy, lẽ ra họ có thể không cần tiền


vốn trước hoặc cần nhưng rất ít để mua sắm nguyên vật liệu, nhà cửa…
để sản xuất kinh doanh.Tuy nhiên trong thực tế, pháp luật lại quy định
vốn pháp định cho các DNBH là tương đối lớn.Sở dĩ, nhà nước yêu cầu
vốn pháp định của các DNBH cao như vậy là nhằm bảo vệ quyền lợi cho
người tham gia bảo hiểm. Giong như các tổ chức trung gian tài chính
khác, khi DNBH làm ăn không có hiệu quả, không còn đủ tiền để trả cho
khách hàng, nhà nước sẽ lấy tiền từ vốn điều lệ của doanh nghiệp để giải
quyết cho họ. DNBH thường phải ký quỹ 1 phần vốn điều lệ của DNBH
theo quy định theo quy định của pháp luật ( ở Việt Nam, phần ký quỹ
bằng 2% vốn pháp định), phần còn lại họ có thể đem đi đầu tư và sinh
lời. Trong DNBH, nguồn vốn đầu tư này chiếm tỷ trọng chưa phải là lớn
nhất nhưng cũng khá quan trọng. Nó là vốn tự có của doanh nghiệp nên
không chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật, tạo điều kiện cho
DNBH đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao.
- Qũy dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện:
DNBH cũng như các trung gian tài chính khác có chức năng quan trọng
lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu thong qua việc thu phí bảo
hiểm của người tham gia bảo hiểm và đầu tư nguồn phí đó 1 cách có
hiệu quả. Nhưng trong quá trình hoạt động kinh doanh, bản thân DNBH
cũng có thể gặp phải những rủi ro, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của doanh nghiệp và suy cho cùng là ảnh hưởng đến quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm.Chính vì vậy, để quản lý DNBH và đảm bảo khả
năng thanh toán cho doanh nghiệp, nhà nước yêu cầu DNBH phải trích
lập quỹ dự trữ bắt buộc.ở Việt Nam, luật quy định các DNBH phải trích
lập 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc. Mức tối
đa của quỹ dự trữ bắt buộc bằng 10% vốn điều lệ của DNBH.

Trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, DNBH phải luôn duy
trì được khả năng thanh toán của mình. Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc theo
yêu cầu của pháp luật, DNBH có thể tựu thành lập quỹ dự trữ tự nguyện
nhằm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp, được lấy từ lợi nhuận


1.
a)
b)
-

-

sau thuế chưa phân phối và phải được ghi trong điều lệ hoạt động của
doanh nghiệp.
Các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện là 1 nguồn vốn đầu tư chiếm tỷ
trọng nhỏ, nhưng cũng góp phần làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho
DNBH.
- Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng:
Cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của DNBH được phân phối
cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức, trích lập các quỹ như quỹ đầu tư
phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…, phần còn lại chưa sử dụng
sẽ bổ sung vào nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm:
Các quỹ dự phòng nghiệp vụ là 1 đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm.DNBH phải lập các quỹ DPNV để chi trả, bồi thường cho khách
hàng khi có sự kiện xảy ra.
Cuối mỗi năm tài chính, DNBH phải trích lập các quỹ DPNV từ quỹ tài
chính bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và cho phần trách nhiệm
còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong năm tài chính tiếp theo, các quỹ

DPNV thường không phải sử dụng để chi trả, bồi thường cho phần trách
nhiệm phát sinh từ hợp đồng được ký từ năm trước. Do vậy, sẽ có 1
phần quỹ DPNV là nhàn rỗi có thể đem đi đầu tư kiếm lời.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư:
Đều có 2 loại nghĩa vụ tài chính chủ yếu:
Trách nhiệm đối với người tham gia bảo hiểm
Trách nhiệm đối với cổ đông
Quy mô của DNBH: Quy mô của DNBH cũng có ảnh hưởng đến sự lựa
chọn hình thức đầu tư:
Các DNBH lớn, tức là có vốn đầu tư lớn, sẽ có phạm vi lựa chọn đầu tư
rộng hơn, có khả năng đầu tư vào nhiều danh mục khác nhau, đặc biệt là
khi có quy định tỷ lệ đầu tư tối thiểu với 1 số lĩnh vực như bất động sản,
trái phiếu chính phủ…
Mức độ thanh khoản của các tài sản tài chính sẽ phụ thuộc vào quy mô
đầu tư vào tài sản đó của DNBH so với quy mô của toàn thị trường.


c)

d)

e)

Các quan điểm đàu tư của người quản lý đầu tư:
Hoạt động đầu tư của DNBH chịu tác động của nhiều nhân tố nhưng suy
cho cùng, quyết định đầu tư cuối cùng là do người chịu trách nhiệm
quản lý hoạt động đầu tư quyết định trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Nếu người quản lý đầu tư là những người thận trọng, họ thiên về
lựa chọn những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro thấp. Ngược lại, nếu
người quản lý đầu tư là những người mạo hiểm, họ có thể lựa chọn

những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn. Thực tế cho thấy
quan điểm quản lý đầu tư ở các thị trường bảo hiểm khác nhau là khác
nhau. Do cùng chịu 1 sức ép, các chính sách đầu tư nhìn chung có xu
hướng tương tự nhau giữa các DNBH hoạt động trên cùng 1 thị trường.
Chế độ thuế:
Thuế là 1 nhân tố bên ngoài quan trọng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt
động đầu tư của DNBH: khuyến khích tăng đầu tư cho nền kinh tế, các
chính phủ thường ưu đĩa không đánh thuế đối với lợi nhuận được đem
tái đàu tư. Khi nhà nước áp dụng chính sach thuế này, các DNBH có xu
hướng để lại nhiều hơn lợi nhuận sau thuế, bổ sung vào vốn điều lệ, tăng
nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ tăng giá trị đầu tư
vào những lính vực được nhà nước khuyến khích thông qua việc giảm
thuế. Thông thường, đề thu hút vốn đầu tư vào những lĩnh vực phục vụ
cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhà nước thường
sử dụng công cụ thuế. Thuế sẽ ảnh hưởng đặc biệt tới việc lựa chọn hình
thức đầu tư khi nhà nước có những ưu đãi thuế riêng cho các DNBH so
với các nhà đầu tư khác.
Các điều kiện của thị trường vốn:
Quy mô của thị trường vốn và thị trường tài chính trong nước có tác
động quan trọng đối với sự lựa chon đầu tư. Các thị trường vốn được tổ
chức tốt có thể cung cấp một phạm vi rộng rãi các tài sản tài chính và
điều này được thể hiện trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm.
Nếu thị trường vốn chưa phát triển đầy đủ, sự lựa chọn hình thức đầu tư


f)

2.
-


-

sẽ bị hạn chế.Điều này được thể hiện rõ trong thị trường bảo hiểm Việt
Nam trong những năm qua.
Một số công cụ quản lý nhà nước:
Việc DNBH được phép đầu tư vào lĩnh vực nào, giá trị đầu tư là bao
nhiêu , thông thường đều bị pháp luật các nước khống chế. Sự quản lý
của nhà nước đối với hoạt động đầu tư của DNBH cũng phải thông qua
pháp luật.Ngoài ra, Nhà nước còn định hướng đầu tư, đưa ra những danh
mục đầu tư để DNBH lựa chọn.Thậm chí còn giới hạn mức đầu tư tối
đa, tối thiểu.
Các hình thức đầu tư của DNBH:
Cho vay có thế chấp: Hoạt động đầu tư thông qua cho vay có vai trò rất
quan trọng đối vơi các DNBH, đặc biệt là các DNBH nhân thọ, điều đó
được thể hiện như sau:
+ Cho vay có tài sản thế chấp tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính
+ Cho vay có tài sản thế chấp tạo thu nhập ổn định cho DNBH
+ Cho vay có tài sản thế chấp tạo ra 1 kênh huy động vốn cho
nền kinh tế
+ Cho vay có tài sản thế chấp góp phần khuyến khích việc tiêu
thụ các sản phẩm bảo hiểm
Đầu tư chứng khoán: Là công cụ đầu tư được các DNBH sử dụng rộng
rãi nhất. Đầu tư vào chứng khoán có tính thanh khoản cao, vì DNBH có
thể nhanh chóng bán các loại chứng khoán trên thị trường để đáp ứng
nhu cầu chi trả tiền mặt của doanh nghiệp. Chứng khoán mà DNBH đầu

chủ
yếu
gồm
cổ

phiếu

trái
phiếu.
+ Cổ phiếu:Là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi
sổ xác nhận quyền sở hữu 1 hoặc 1 số cổ phần của công ty đó. Khi
DNBH đầu tư vào cổ phiếu, họ được hưởng các quyền đối với công ty
với tư cách là người sở hữu, với mức độ tương ứng với tỷ lệ cổ phiếu
nắm giữ. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ
đông, có hai loại phiếu cơ bản: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Trái phiếu: Là 1 loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức
chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức


-

3.

-

-

-

phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu là 1 công
cụ nợ do chính phủ hoặc các doanh nghiệp phát hành.
Đầu tư bất động sản: cũng là 1 lĩnh vực quan trọng trong danh mục đầu
tư của DNBH
Các hình thức đầu tư khác: Ngoài các hình thức đầu tư nói trên thì các
DNBH còn có thể đầu tư ở một số hình thức khác tùy theo quy định của

từng nước. Mỗi hình thức đầu tư có những đặc điểm riêng về rủi ro, về
tính thanh khoan… Chính vì vậy, DNBH nhân thọ hay phi nhân thọ với
những đặc điểm riêng của mình sẽ phải lựa chọn những hình thức đầu tư
cho phù hợp với đặc điểm đó.
Tổ chức hoạt động đầu tư:
Tổ chức hoạt động đầu tư của DNBH phụ thuộc vào nhiều nhân tố trong
đó có 3 nhân tố chủ yếu là: quy mô của DNBH, tính chất của nghiệp vụ
bảo hiểm và qui định của pháp luật nơi DNBH hoạt động.
Để tiến hành hoạt động đầu tư , các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng 3
mô hình phổ biến:
Mô hình 1: Phòng đâu tư trực thuộc doanh nghiệp bảo hiểm. Mô hình tổ
chức này thướng được áp dụng đối với những doanh nghiệp bảo hiểm có
quy mô nhỏ hoặc DNBH mới thành lập. Do đó, hoạt động đầu tư còn
hạn chế, hoặc chưa phát triển.
Mô hình 2: Thành lập 1 tổ chức đầu tư độc lập dưới hình thức công ty
đầu tư hay hay quỹ đầu tư do công ty bảo hiểm sở hữu toàn bộ hoặc nắm
cổ phần chi phối. Đây là 1 mô hình được áp dụng khá phổ biến ở các
DNBH trên thế giới, bởi vì mô hình này phù hợp với các DNBH có quy
mô lớn và phát triển. Nó giúp các doanh nghiệp tập trung các nguồn lực
của mình, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Mô hình 3: Mua cổ phần ở mức không chi phối của các tổ chức đầu tư
khác. Ngoài việc thành lập 1 tổ chức đầu tư độc lập dưới hình thức công
ty đầu tư hay quĩ đầu tư do DNBH sở hữu toàn bô hoặc nắm cổ phần chi
phối, các DNBH còn có thể mua cổ phần ở mức không chi phối của các


II.

tổ chức đầu tư khác nhằm mở rộng và đa dạng hóa hoạt động đầu tư của
mình.

+) Theo quy định giới hạn đầu tư Nghị đinh 46/2007/NĐ-CP, các
DNBH đều mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo
lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế.
Khác nhau.
Tiêu chí

Công ty bảo hiểm nhân thọ

Mục đích bên cạnh mục tiêu chung là
đầu tư
nâng cao kết quả kinh doanh
và bù đắp chi phí kinh doanh
như bảo hiểm phi nhân thọ,
hoạt động đầu tư trong doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ là
hoạt động bắt buộc để bù đắp
các khoản “nợ tiết kiệm” đối
với người được bảo hiểm
Đặc điểm Kinh doanh bảo hiểm nhân
đầu tư
thọ cho phép DNBH đầu tư
vào các lĩnh vực dài hạn.
Hình thức đầu tư trong doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ
chủ yếu bao gồm cho vay thế
chấp (chủ yếu bằng bất động
sản, ngoài ra các khoản vay
theo đơn bảo hiểm cũng ngày
càng gia tăng), cổ phiếu, trái
phiếu, đầu tư bất động sản,

liên doanh, ký cược quỹ dài
hạn, đầu tư vào các quỹ đầu
tư,…

Công ty bảo hiểm phi nhân
thọ
bù đắp chi phí kinh doanh, tạo
điều kiện giảm phí bảo hiểm,
tăng khả năng khai thác hợp
đồng, nâng cao mức giữ lại
trong các hợp đồng tái bảo
hiểm, từ đó ổn định và nâng
cao kết quả kinh doanh của các
công ty bảo hiểm phi nhân thọ
Các hợp đồng bảo hiểm phi
nhân thọ có thời hạn là ngắn
(thường là dưới 1 năm) do đó
các quỹ của DNBH phi nhân
thọ chủ yếu đầu tư vào các
danh mục có thời hạn ngắn và
tính thanh khoản cao như trái
phiếu, tiền gửi ngân hàng, cho
vay, tín phiếu kho bạc.
Việc lựa chọn đầu tư của các
DNBH phi nhân thọ thường là
rất hạn chế do quy mô quỹ bảo
hiểm phi nhân thọ nhỏ hơn các
quỹ bảo hiểm nhân thọ tính



Một trong những đặc điểm
lớn đầu tiên của hoạt động
đầu tư trong các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
là chịu ảnh hưởng rất lớn từ
những thay đổi về lãi suất và
lạm phát. Do tính chất dài
hạn của các hợp đồng BHNT
và nhu cầu chi trả có thể dự
đoán khá chính xác, nên các
doanh nghiệp BHNT thường
đầu tư vào chứng khoán dài
hạn và ít có nhu cầu đâu tư
vào chứng khoán ngắn hạn.
Một đặc điểm khác là ngày
đáo hạn của hợp đồng thường
là trùng hoặc gần trùng với
ngày đáo hạn của các khoản
đầu tư. Bên cạnh đó, do
nguồn vốn đầu tư của doanh
nghiệp BHNT hình thành từ
các khoản phí mang tính tiết
kiệm nên các hoạt động đầu
tư ra nước ngoài thường bị
Nhà nước kiểm soát chặt chẽ.

theo phí bảo hiểm. Bên cạnh
đó, đầu tư nước ngoài của quỹ
bảo hiểm phi nhân thọ thường
quan trọng hơn so với bảo hiểm

nhân thọ do ít chịu sự kiểm soát
đầu tư ra nước ngoài từ phía
Nhà nước. Do vậy, các DNBH
phi nhân thọ có xu hướng đầu
tư ra thị trường nước ngoài để
tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.

Đánh giá Việc đánh giá hiệu quả đầu
hiệu quả tư trong BHNT là phức tạp
đầu tư
và khắc khe hơn nhiều so với
bảo hiểm phi nhân thọ. Đánh
giá hiệu quả đầu tư trong
BHNT phải đưa chỉ tiêu tỷ
suất lợi nhuận lên hàng đầu,
DNBH nhân thọ không chỉ
đơn giản cần đầu tư có lãi mà

Giống như các doanh nghiệp
thông thường khác, DNBH phi
nhân thọ sử dụng tỷ suất lợi
nhuận để đánh giá hiệu quả đầu
tư của mình. Tỷ suất lợi nhuận
có thể tính bằng bình quân lãi
suất của các doanh mục do các
DNBH phi nhân thọ chủ yếu
đầu tư ngắn hạn. Ngoài ra,


còn phải đảm bảo tỷ suất lợi

nhuận đầu tư thu được phải
hớn hơn lãi suất kỹ thuật
dùng để tính phĩ. Có như vậy
DNBH mới đảm bảo có đủ
tiền trả cho khách hàng tham
gia bảo hiểm. Tỷ suất lợi
nhuận đầu tư phí bảo hiểm
được tính bằng công thức
Nếu < lãi suất kỹ thuật,
DNBH không đủ dự phòng
toán học để trả cho người
tham gia bảo hiểm
Nếu = lãi suất kỹ thuật,
DNBH chỉ đủ tiền để trả cho
người tham gia bảo hiểm
Nếu > lãi suất kỹ thuật,
DNBH có đủ tiền để trả cho
người tham gia bảo hiểm và
còn có lãi.

DNBH có thể sử dụng phương
pháp NPV để đánh giá hiệu quả
của danh mục đầu tư:
NPV=
Nếu NPV 0, danh mục đầu tư
có lãi
Nếu NPV < 0, danh mục đầu
tư lỗ




×