Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tổng quan về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp Bảo Hiểm.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.89 KB, 35 trang )

Lời mở đầu
Chính sách Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước ta, đã thực hiện được từ những năm 60 của Thế kỷ XX.
Trải qua nhiều năm với những sửa đổi, bỏ sung cho phù hợp với từng giai
đoạn, chính sách Bảo hiểm xã hội đã đóng góp phần rất to lớn đảm bảo đời
sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính
trị - xã hội của đất nước. Người ta ví “ Cuộc sống không có bảo hiểm như
cầu thang không có tay viện”. Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH
trong hệ thống an sinh quốc gia (ASXH ) quốc gia. Trong những năm vừa
qua việc triển BHXH đã từng bước đi vào cuộc sống thông qua việc thực
hiện có hiệu quả các chế độ hưa trí, ốm đau, thai sản ….
Qũy BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có thể nói
là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử dụng quỹ
BHXH, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH,
ảnh hưởng tới sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy vấn đề làm thể nào để
nâng cao được hiệu quả trong việc thu - chi quỹ BHXH đây là câu hỏi được
đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan tâm nghiên cứu đến hoạt
động BHXH.
Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên lớn
và dân cư đông bao gồm: 27 huyện thị trong đó có 2 thị xã và một thành phố.
Là một tỉnh có truyền thống về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, năm
trên con đường huyết mạch từ Bắc chí Nam. Là một người con của đất
Thanh Hóa và là sinh viên khao Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân
nên em đã trọn đề tài “Bàn về quản lý thu chi chi BHXH tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2003 – 2008 “ . Qua bài viết này em xin nêu lên và đóng góp một
số ý kiến, một số suy nghĩ của mình trong việc quản lý thu chi quỹ BHXH.
Chương I: BHXH và quỹ BHXH
I. BHXH:
1. Khái niệm và bản chất:
Khái niệm:
BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được


tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động
dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo phần thu nhập để
thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình
họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động như
bị mất việc làm, ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi già…
Bản chất:
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong
xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền
tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sỡ lao động
và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao
động và người sử dụng lao động. Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH
thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên
được BHXH là người lao động và gia đình họ không có đủ các điều kiện
ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của
con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có
thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như già yếu,
thai sản v.v… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài
quá trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất khi gặp những biến
cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được
tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu,
ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của

người lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm.
Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm
bảo nhu cầu thiết yếu cuộc sống cho họ
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các
nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
2. Đối tượng, chức năng, bản chất:
2.1. Đối tượng:
Dù có lịch sử ra đời từ rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn rất
nhiều quan điểm chưa thống nhất, hay có sự nhầm lẫn giữa đối tượng của
BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
Theo khái niệm của BHXH :” BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng
một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng
lao động và người lao động dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm
đảm bảo phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của
người lao động và gia đình họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất
thu nhập theo lao động như bị mất việc làm, ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi
già…” vì vậy đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị mất đi hay
giảm đi do sự rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm giảm hoặc mất khả
năng lao động, mất việc làm.
Đối tượng tham gia BHXH đó là người lao động và người sử dụng
lao động, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng
tham gia có thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao động. Nhưng nhìn chung
thì khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng tham gia càng được mở rộng hơn.
2.2. Chức năng:
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì

suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động
khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc
làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người
lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào
các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy
định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quy định nhiệm vụ, tính
chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giúp những người
tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả
những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng vào quỹ
BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ
bị giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông
bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều
ngang. Phân phối lại giữa người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa
người đang khoẻ mạnh làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc
v.v…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công
bằng xã hội.
Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng
cao năng xuất lao động cá nhân và năng xuất lao động xã hội. Khi khỏe
mạnh tham gia lao động sản xuất người lao động được chủ sử dụng lao động
trả lường hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi già
yếu đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống
của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chổ dựa. Do đó,
người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc.
Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động và hiệu
quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích
người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo theo là năng
xuất lao động của xã hội.
Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa

người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động
và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về
tiền lương, tiền công, thời gian lao động v.v… Thông qua BHXH, những
mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều
thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu
nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi
cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải
quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp
phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và
an toàn hơn.
2.3. Bản chất:
Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Như đã phân tích ở
trên, rủi ro xảy đến với cuộc sống của người lao động không hoàn toàn do
người lao động gánh chịu mà nó ảnh hưởng tới người sử dụng lao động, tới
toàn xã hội, nó gây ra mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao
động làm giảm năng suất lao động, mất ổn định xã hội. Buộc nhà nước phải
can thiệp thông qua BHXH vì vậy BHXH ra đời mang tính tất yếu khách
quan.
BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh không đều theo không gian và
thời gian. Điều này thể hiện rõ trong nội dung cơ bản của BHXH, từ thời
điểm triển khai BHXH, người tham gia BHXH, mức đóng góp. Từ việc rủi ro
phát sinh theo không gian, thời gian, đến mức trợ cấp cho từng chế độ, từng
đối tượng.
BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch
vụ. Tính kinh tế được thể hiện qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH sao
cho hợp lúy, có hiệu quả nhất. Tính xã hội được thể hiện ở việc BHXH được
sử dụng nhằm đảm bảo ổn định cho những người lao dộng và gia đình họ.
BHXH thể hiện tính dịch vụ của nó thông qua họa động dịch vụ tài chính
( thông qua nguồn vốn nhàn rỗi )
3. Những nguyên tắc về BHXH:

3.1. Là sự đảm bảo về mặt xã hội:
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của BH, nó vừa mang
giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước hết là sự
đảm bảo về vật chất ( qua các chế độ BHXH ). Mức đảm bảo về vật chất cũng
là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh
hưởng tới sự phát tiển của BHXH, BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng
đời lao động thực tế có thu nhập là cơ sở để đảm bảo cho quãng đời không
tham gia và lao động ( mất sức lao đông hay cao tuổi).
3.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện:
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu. Như vậy, nhà
nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người lao động và người sử dụng
lao động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ
về BHXH. Điều này được thể chế hóa trong Bộ luật Lao động và các văn bản
pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức tham
gia, các loại hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có thể tham gia trên
cơ sở sự phát triển của hế thống BHXH của một số nước trong từng giai đoạn
nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều kiện và phát triển mở
rộng hơn.
3.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH:
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các vấn đề có liên quan đến việc
thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối
thiểu của từng chế độ BHXH là mức đóng định kỳ ( hàng tháng ), mức thời
gian tối thiểu để tham gia và được hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức
tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu, tiền lương bình
quân, quảng đời lao động…Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị
của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tác này liên
quan trực tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích
người lao động và các tầng lớp xã hội tham gia.
3.4. BHXH phải đảm bảo tính thống nhất và liên tục cả về mức tham gia
và thời gian thực hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao động:

Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị
trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm trí
mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao
động…Điều này có thể xảy ra trong các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo
cho người tham gia BHXH có thể duy trì một cách liên tục theo thời gian có
tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận
tiện cho người lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và
tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ
chủ yếu nhất để duy trì quan hệ BHXH đối với người lao động.
3.5. Công bằng trong xã hội:
Đây là nguyên tắc quan trọng xong cũng rất phức tạp trong chính sách
BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiện trong một thời gian dài, cả trong và
ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có sư thay đổi diễn ra.
Mức và thời gian của từng người và mức hưởng lương của họ cũng có thể
không giống nhau. Việc theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản,
nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về
đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy, đảm
bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm bảo tính tuyệt
đối.
Sự công bằng trước hết phải đặt trong quan hệ giữa đóng góp và được
hưởng. Điều này được thể hiện trong nội dung và điều kiện tham gia từng chế
độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, công bằng được đặt trong các quan hệ xã
hội giữa những người tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng,
địa bàn, nghành nghề khác nhau…dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo
hiểm.
4. Những quan điểm cơ bản về BHXH:
Hiện nay có 5 quan điểm về BHXH như sau:
- BHXH là một trong những chính sách XH cơ bản nhất của mỗi quốc gia, nó
thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức
và quản lý của mỗi quốc gia

- Mọi người lao động trong xã hội đều có quyền bình đẳng trước BHXH
không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp.
- Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ BHXH đối với
người mà họ sử dụng.
+ Họ phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định so với tổng quỹ
lương.
+ Họ phải thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với những người lao động mà
mình sử dụng.
- Các mức hưởng BHXH phụ thuộc vào 5 yếu tố sau:
+ Tình trạng sức khỏe, thương tật, thông qua dám định y khoa
+ Ngành nghề công tác của người lao động
+ Thời gian công tác và tiền lương của người lao động
+ Mức đóng góp BHXH và thời gian đóng góp
+ Tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước qua từng thời kỳ.
- Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp BHXH từ việc ban hành các chính
sách và tổ chức bộ máy thực hiện các chính sách BHXH
II. Quỹ BHXH:
1. Khái niệm:
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là
dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các
biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia
đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm: Người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước.
2. Nguồn quỹ BHXH:
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
+ Người sử dụng lao động đóng góp
+ Người lao động đóng góp
+ Nhà nước đóng và hổ trợ thêm

+ Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ,
lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi )
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH
cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người
lao động trên cơ sỡ quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia
rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng
góp một phần BHXH cho người lao động sẽ trách được thiệt hại kinh tế do
phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà
mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp,
kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. Về phía người lao động,
sự đóng góp một phần dể BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu
trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền
lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích.
Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động. BHXH không
thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của
nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và
người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong
lĩnh vực BHXH có cơ sỡ vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình
thức biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia
đóng góp và hổ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chổ dựa để đảm
bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ
các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của
các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử
dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhât cho rằng,
phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh
nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản
của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quôc dân

để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao
động phải chiệu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả
chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và
người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số
nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chiệu toàn
bộ chi phí quản lý BHXH v.v…
Mức đóng góp của một số nước trên thế giới
Tên nước Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của
người lao động so
với tiền lương (%)
Tỷ lệ đóng góp của
người sử dụng lao
động so với quỹ
lương (%)
CHLB Đức
CH Pháp
Indonexia
Philipin
Malaixia
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Bù thiếu
Chi toàn bộ chế độ
ốm đau, thai sản
14,8 – 18,8
11,82
3,0

2,85 – 9.25
9,5
16,3 – 22,6
19,68
6,5
6,85 – 8,05
12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Ở nước ta, từ năm 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ
2 nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí
nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn
tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh
doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta
chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP
ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định
12/CP ngày 26/01/1995, trong đó văn bản này đều quy định quỹ BHXH
được hình thành từ các nguồn sau đây:
Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương
của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các
chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp.
+ Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế
độ hưu trí và tử tuất.
+ Nhà nước đóng và hổ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động.
+ Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố
quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính
toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ
chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán

học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính
toán khác nhau:
+ Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH,
từ đó có cơ sỡ xác định mức đóng phí.
+ Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
+ Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức
hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí phải đóng.
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH
lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao
động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao
động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác
định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số
đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức
hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P = f
1
+ f
2
+ f
3
Trong đó:
P – Phí BHXH
F
1
– Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
F
2
– Phí dự phòng
F

3
– Phí quản lý
3. Mục đích sử dụng quỹ:
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
+ Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH;
+ Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH;
+ Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH;
Trong 3 nội dung chỉ tiêu nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các
chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Bao gồm các chế độ BHXH:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm
vi trợ cấp của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu có chi, thu
trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn
thu. Thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó. l
4. Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế - xã hội:
Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách kinh tế:
Mối quan hệ giữa chính sách BHXH với chính sách kinh tế được thể hiện
ở chỗ hai loại chính sách này có giới hạn hợp lí. Nếu không xác định được
giới hạn hợp lí này sẽ dẫn đến hoặc là xây dựng một hệ thống BHXH
không phù hợp khả năng và trình độ phát triển của nền kinh tế làm cho
chính sách BHXH thực thi không cao, tác động tiêu cực đến nền sản xuất
xã hội. Hoặc nếu chỉ tập trung phát triển kinh tế, coi trọng yếu tố năng

suất lao động mà không đầu tư thoả đáng cho chính sách xã hội trong đó
có chính sách BHXH sẽ làm mất ổn định xã hội. Bởi vậy thực hiện tốt
chính sách BHXH sẽ tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản xuất, tạo
năng suất lao động cao, sản xuất ổn định. Mối quan hệ giữa chính sách
BHXH với chính sách kinh tế còn thể hiện thông qua mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Tăng trưởng
kinh tế tự thân nó không dẫn tới tiến bộ xã hội và càng không dẫn tới công
bằng xã hội một cách trực tiếp, mặc dù tăng trưởng kinh tế ở một mức độ
nào đó có thể thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải qua khâu
phân phối mới đưa các chính sách BHXH nói riêng và phúc lợi xã hội nói
chung tới các tầng lớp dân cư. tăng trưởng kinh tế là một điều kiện quan
trọng để thực hiện chính sách BHXH có hiệu quả. Ngược lại khi xem xét
chính sách BHXH dưới góc độ một chính sách kinh tế khi hoạch định
chính sách BHXH không hợp lí, xây dựng mức đóng BHXH không phù
hợp sẽ làm nâng giá thành sản phẩm lên cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh
giảm, hạn chế tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên giữa tăng trưởng kinh tế và
chính sách BHXH cũng có sự mâu thuẫn. Qúa trình nâng cao hiệu quả
kinh tế thường xuất hiện các hiện tượng cố tình không thực hiện chính
sách BHXH cho người lao động như đóng BHXH không đứng mức thu
nhập, kí hợp đồng lao động ngắn hạn, trang bị bảo hộ lao động không đảm
bảo gây ra tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp. Việc giải quyết hài hoà
mối quan hệ này phụ thuộc vào bản chất chế độ chính trị xã hội và năng
lực quản lí của Nhà nước trong việc tạo điều kiện tối ưu sự kết hợp sự
phát triển kinh tế với việc thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội gắn
liền tiến bộ xã hội với sự phát triển toàn diện con người.
Mối quan hệ giữa BHXH với chính sách xã hội:
Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, được cụ thể hoá và thể chế hoá
bằng pháp luật, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói
chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả
mãn những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hoá, tinh

thần của nhân dân... chính sách xã hội bao trùm lên mọi cuộc sống của con
người. Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một chính sách

×