Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác tại xã sơn kim 2, huyện hương sơn, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 70 trang )

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là nền tảng để định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế
xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể
thay thế được, đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp. Đất là cơ sở của sản xuất
nông nghiệp, là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra lương thực, thực
phẩm nuôi sống con người. Nhưng đất đai có tính cố định về vị trí và số lượng
nên sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết của
mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiên tại và tương lai.
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh dẫn đến quỹ
đất nông nghiệp và đặc biệt là đất canh tác bị giảm nhiều. Ngoài ra, xã hội phát
triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng về lương thực,
thực phẩm nên con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng đó, tạo ra sức ép đối với đất canh tác. Hàng năm
trên thế giới diện tích đất canh tác bị thu hẹp, kinh tế nông nghiệp trở nên khó
khăn hơn. Hoang mạc hoá hiện đang đe doạ 1/3 diện tích trái đất, ảnh hưởng đời
sống ít nhất 850 triệu người. Một diện tích lớn đất canh tác bị nhiễm mặn không
canh tác được một phần cũng do tác động gián tiếp của sự gia tăng dân số. Ở Việt
Nam từ năm 1978 đến nay, 130.000ha bị lấy cho thủy lợi, 63.000ha cho phát triển
giao thông, 21 ha cho các khu công nghiệp [25].
Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách như giao
đất nông nghiệp sử dụng ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, chương trình
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mô hình sản xuất thâm canh giỏi, các mô hình
chuyển đổi từ đất trồng cây lương thực sang trồng các loại cây hàng hoá, cây đặc
sản, cho hiệu quả kinh tế cao như: Mô hình luân canh lạc xuân + nghệ đỏ của
nông dân xã Chí Tân (huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên)[10]. Cùng mô hình
luân canh một vụ màu trên đất hai lúa, trên đồng ruộng huyện Văn Lâm (Hưng
Yên) nổi bật với cây khoai tây vụ đông. Không kén thời vụ như đỗ tương, ngô,
dưa chuột, dưa bao tử,… trở thành cây vụ đông chủ lực của các xã Đình Dù, Chỉ


Đạo (Văn Lâm) [11].
Xã Sơn Kim 2 là một xã miền núi cách trung tâm huyện Hương Sơn 25km
về phía Tây. Toàn xã có 20.645,54ha đất tự nhiên, trong đó có 278,88ha đất
trồng cây hàng năm. Xã Sơn Kim 2 có địa hình kéo dài và bị chia cắt bởi nhiều
1


khe suối, đồi núi phức tạp, đất canh tác thường bị rửa trôi, xói mòn quá trình sử
dụng đất canh tác gặp nhiều khó khăn như: đi lại, đất sản xuất manh mún nhỏ lẻ,
người dân thiếu kiến thức trong việc sử dụng đất canh tác. Người dân thiếu
thông tin về các mô hình sản xuất hiệu quả, việc tìm ra các mô hình sử dụng đất
canh tác có hiệu quả và phù hợp cho địa phương còn kém. Đời sống người dân
chưa cao, thu nhập bình quân là 17,5 triệu đồng/người/năm. Xuất phát từ thực tế
trên, việc đánh giá hiệu quả kinh tế các mô hình sử dụng đất canh tác để tìm ra
các mô hình sản xuất hiệu quả phù hợp với địa phương và các giải pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng đất canh tác là cần thiết. Vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác tại xã Sơn Kim 2,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2. Mục tiêu
1. Tìm hiểu thực trạng sử dụng đất canh tác tại xã Sơn Kim 2, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh
2. Đánh giá hiệu quả kinh tế các phương thức sử dụng đất canh tác tại địa
phương.
3. Đề xuất phương thức sử dụng đất phù hợp và có hiệu quả tại địa phương.

2


PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu

2.1.1. Khái niệm đất đai, đất nông nghiệp
* Khái niệm đất đai
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những
khái niệm, định nghĩa về đất. Khái niệm đầu tiên, khá hoàn chỉnh của học giả
Nga Docuchaiep 1897 cho rằng: “Đất là vật thể thống nhất cấu tạo độc lập, lâu
đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp của 5 thành phần bao gồm: đá
mẹ, sinh vật, khí hậu, địa hình và thời gian”. Tuy vậy, khái niệm này chưa đề
cập tới sự tác động của các yếu tố khác tồn tại trong môi trường xung quanh, do
đó sau này một số học giả khác đã bổ sung các yếu tố như: nước ngầm và đặc
biệt vai trò của con người để hoàn chỉnh khái niệm nêu trên.
Học giả người Anh Wiliam đã đưa thêm khái niệm về đất như sau: “đất là
lớp mặt tơi xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm cho cây”.
Bàn về vấn đề này, C.Mác đã viết:”Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ
biến quý báu nhất của sản xuất nông nghiệp”, “Điều kiện không thể thiếu được
của sự tồn tại và tái sinh hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”.
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho
rằng: “Đất là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối mọc được” và đất đai
được hiểu theo nghĩa rộng hơn như sau: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề
mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và
dưới bề mặt đó bao gồm khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước
và các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng
đất, tập đoàn động thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của
con người trong qua khứ và hiện tại để lại”.
Tóm lại, có thể hiểu: Đất đai là một khoảng không gian có giới hạn, theo
chiều thẳng đứng, theo chiều nằm ngang, đất giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa
hết sức to lớn đối với hoạt động sản xuất và cuộc sống của xã hội loài người.[19]
Theo luật đất đai năm 2003 và thông tư số 28/2004/TT-BTNMT [20],
[15]: Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, làm muối và mục
đích bảo vệ phát triển rừng; bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp,

đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác. Trong đó:
3


Đất sản xuất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp, bao gồm đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu năm.
Đất lâm nghiệp là đất đang có rừng tự nhiên hoặc rừng trồng đạt tiêu
chuẩn rừng, đất đang khoanh nuôi phục hồi rừng (đất rừng bị khai thác, chặt
phá, hỏa hạn nay được đầu tư để phục hồi rừng), đất trồng rừng mới.
* Khái niệm đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là tất cả những diện tích được sử dụng vào mục đích sản xuất
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, diện tích nghiên cứu thí
nghiệm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Kể cả diện tích đất lâm nghiệp và các
công trình xây dựng cơ bản phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp [7].
Đất nông nghiệp khác là đất tại nông thôn sử dụng để xây dựng nhà kính
và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt kể cả các hình thức trồng trọt
không trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các
loại động vật khác được pháp luật cho phép; xây dựng trạm, trại nghiên cứu thí
nghiệm nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, xây dựng cơ sở ươm tạo
cây giống, con giống; xây dựng kho, nhà của hộ gia đình, cá nhân để chứa nông
sản, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, máy móc, công cụ sản xuât nông nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội.
Khác với công nghiệp, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi sự chi
phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Những đặc điểm đó là:
* Đất đai đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không
thể thay thế.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên và có giới hạn nhất định.
* Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật

Trong nông nghiệp, đối tượng sản xuất là các sinh vật, bao gồm: các loại
cây trồng, vật nuôi và các loại sinh vật khác. Chúng sinh trưởng và phát triển theo
một quy luật sinh lý nội tại và đồng thời chịu tác động rất nhiều từ ngoại cảnh như
thời tiết, khí hậu, môi trường. Giữa sinh vật và môi trường sống của chúng là một
khối thống nhất, mỗi một biến đổi của môi trường lập tức sinh vật biến đổi để
thích nghi nếu quá giới hạn chịu đựng chúng sẽ bị chết. Các quy luật sinh học và
điều kiện ngoại cảnh tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con người.
4


* Sản xuất nông nghiệp tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn và
mang tính chất khu vực rõ rệt
Các nhà máy, khu công nghiệp dù có lớn thế nào đi chăng nữa thì cũng đều
bị giới hạn về mặt không gian nhưng đối với nông nghiệp thì khác hẳn: ở đâu có
đất ở đó có sản xuất nông nghiệp. Phạm vi của sản xuất nông nghiệp rộng khắp có
thể ở đồng bằng rộng lớn, có thể ở khe suối, triền núi, vì đất nông nghiệp phân tán
kéo theo việc sản xuất nông nghiệp mang tính phân tán, manh mún.
Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn, do
đó ở mỗi vùng địa lý nhất định của lãnh thổ các yếu tố sản xuất (đất đai, khí hậu,
nguồn nước, các yếu tố về xã hội) là hoàn toàn khác nhau. Mỗi vùng đất có một hệ
thống kinh tế sinh thái riêng vì vậy mỗi vùng có lợi thế so sánh riêng. Việc lựa
chọn vấn đề kinh tế trong nông nghiệp trước hết phải phù hợp với đặc điểm của tự
nhiên kinh tế - xã hội của khu vực. Như việc lựa chọn giống cây trồng vật nuôi, bố
trí cây trồng, quy trình kỹ thuật.. là nhằm khai thác triệt để các lợi thế của vùng.
* Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ
Đó là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp. Tính thời vụ này
không những thể hiện ở nhu cầu về đầu vào như: lao động, vật tư, phân bón rất
khác nhau giữa các thời kỳ của quá trình sản xuất mà còn thể hiện ở khâu thu
hoạch, chế biến, dự trữ và tiêu thụ trên thị trường.
2.1.3. Đặc điểm đất đai trong sản xuất nông nghiệp

Đất nông nghiệp theo quan điểm của người sử dụng và nghiên cứu kinh
tế, với nghĩa thông thường là toàn bộ đất đai được sử dụng trong quá trình sản
xuất nông nghiệp. đất nông nghiệp bao gồm đất được sử dụng vào trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp.
Đặc điểm của đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt, có độ
phì và không thay thế được. Đất đai được gọi là tư liệu sản xuất đặc biệt vì năng
suất vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Chỉ thông qua đất, các tư
liệu sản xuất mới tác động đến cây trồng và việc sử dụng đất đai đúng hướng
còn quyết định đến hiệu quả sản xuất.
Diện tích đất đai có giới hạn về mặt tự nhiên, nên con người không thể tự
ý tăng diện tích lên một cách vô hạn như các tư liệu sản xuất khác.
Đất đai có vị trí cố định và gắn với các điều kiện thời tiết, khí hậu của
từng vùng cụ thể, vì thế con người không thể di chuyển đất đai từ nơi này tới nơi

5


khác, mà phải bố trí hệ thống canh tác (cây trồng, vật nuôi) với từng vùng sinh
thái theo vị trí của đất đai.
Đất canh tác là một bộ phận của đất nông nghiệp, được sử dụng trồng cây
hàng năm và được gọi là đất trông cây hàng năm. Đất canh tác là đất có các tiêu
chuẩn về chất lượng nhất định, được thường xuyên cày bừa, cuốc xới để trồng
cây có chu kỳ dưới một năm.
Đất canh tác có một vị trí quan trọng trong quá trình sản xuất nông
nghiệp, bởi nố chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng diện tích đất nông nghiệp. Với
sinh vật, đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn là nguồn cung cấp dinh
dưỡng cho cây trồng. Việc quản lý và sử dụng tốt đất đai sẽ góp phần làm tăng
thu nhập, ổn định kinh tế, chính trị xã hội.
2.1.4. Phân loại đất
Theo Luật Đất Đai 2003, nhóm đất nông nghiệp được phân thành các loại sau:

+ Đất trồng cây hàng năm (đất canh tác) là loại đất dùng trồng các loại
cây ngắn ngày, có chu kỳ sinh trưởng không quá một năm. Đất trồng cây hàng
năm bao gồm:
Đất 3 vụ là đất gieo trồng và thu hoạch được 3 vụ/năm với các công thức
3 vụ lúa, 2 vụ lúa + 1 vụ màu,…
Đất 2 vụ có công thức luân canh như lúa - lúa, lúa - màu, màu - màu,…
Đất 1 vụ là đất trên đó chỉ trồng được 1 vụ lúa hay 1 vụ màu/năm.
Ngoài ra đất trồng cây hàng năm còn được phân theo các tiêu thức khác
và được chia thành các nhóm đất chuyên trồng lúa, đất chuyên trồng màu,…
Đất trồng cây lâu năm gồm đất dùng để trồng các loại cây có chu kỳ sinh
trưởng kéo dài trong nhiều năm, phải trải qua thời kỳ kiến thiết cơ bản mới đưa vào
kinh doanh, trồng một lần nhưng thu hoạch trong nhiều năm.
Đất rừng sản xuất là diện tích đất được dùng để chuyên trồng các loại cây
rừng với mục đích sản xuất.
Đất rừng phòng hộ: là diện tích đất để trồng rừng với mục đích phòng hộ.
Đất rừng đặc dụng: là diện tích đất được Nhà nước quy hoạch, đưa vào sử
dụng với mục đích riêng.
Đất nuôi trồng thủy sản là diện tích đất dùng để nuôi trồng thủy sản như
tôm, cua, cá…
6


Đất làm muối là diện tích đất được dùng để phục vụ cho quá trình sản
xuất muối.
Về phân loại đất: Năm 2000 thực hiện theo quy định của Luật Đất đai
năm 1993; Năm 2010 thì phân loại đất thực hiện theo quy định tại Điều 6 Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai [9].
2.1.5. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
* Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội
Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn

tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những
hàng hóa có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có được
thông qua hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi, hay nói cách khác là thông
qua quá trình sản xuất nông nghiệp [12].
* Nông nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
sản xuất công nghiệp và khu vực thành thị phát triển
Nông nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến.
Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu
vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, các ngành kinh tế
quốc dân khác và đô thị.
Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hóa công nghiệp và
các ngành kinh tế khác [12].
* Nông nghiệp là nguồn thu ngân sách quan trọng của Nhà nước
Nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất của nước ta. Tỷ
trọng giá trị tổng sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25% tổng thu
ngân sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp được
thực hiện dưới nhiều hình thức: thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh doanh khác…
Hiện nay xu hướng chung tỷ trọng GDP của nông nghiệp sẽ giảm dần trong quá
trình tăng trưởng kinh tế [12].
* Nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo
nông thôn
Nước ta với hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đã đáp ứng được
nhu cầu cấp thiết hàng ngày của người dân [12].
7


2.1.6. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
* Khái quát về sử dụng đất bền vững

Sử dụng đất đai bền vững là nhu cầu cấp bách của nhà nước ta cũng như
nhiều nước trên thế giới. Những hiện tượng sa mạc hóa, lũ lụt, diện tích đất
trống đồi núi trọc ngày càng gia tăng là nguyên nhân của việc sử dụng đất kém
bền vững làm cho môi trường tự nhiên ngày càng bị suy thoái.
Khái niệm bền vững được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước
nêu ra hướng vào 4 yêu cầu sau:
Bền vững về mặt kinh tế: cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị
trường chấp nhận.
Bền vững về tài nguyên thiên nhiên.
Bền vững về môi trường: loại sử dụng đất phải bảo vệ được đất đai, ngăn
chặn sự thoái hóa đất, bảo vệ được môi tường tự nhiên.
Bền vững về xã hội: thu hút được lao động, đảm bảo đời sống xã hội
* Những quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Theo FAO, nông nghiêp bền vững bao gồm quản lý hiệu quả tài nguyên
cho nông nghiệp (đất đai, lao động...) để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con
người đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên môi trường và bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên. Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống có hiệu quả
kinh tế, đáp ứng cho nhu cầu xã hội về an ninh lương thực, đồng thời giữ gìn và
cải thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng của môi trường sống cho đời sau.
Một hệ thống nông nghiệp bền vững phải đáp ứng cho nhu cầu ngày càng
cao về ăn mặc thích hợp cho hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội gắn với việc
tăng phúc lợi trên đầu người. Đáp ứng nhu cầu là một phần quan trọng, vì sản
lượng nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong những thập kỷ tới.
Phúc lợi cho mọi người vì phúc lợi của đa số dân trên thế giới đều còn rất thấp.
Các quan điểm trên có nhiều cách biểu thị khác nhau, song về nội dung
thường bao gồm 3 thành phần cơ bản :
Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống
nông nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường.
Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối
quan hệ con người hiện tại và cho cả đời sau.

8


Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý.
Phát triển nông nghiệp bền vững chiếm vị trí quan trọng, nhiều khi có tính
quyết định trong sự phát triển chung của xã hội. Điều cơ bản nhất của phát triển
nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự tiếp cận đúng
đắn về môi trường để giữ gìn tài nguyên đất đai cho thế hệ sau và điều quan
trọng nhất là phải biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, giữ vững, cải thiện chất
lượng môi trường, có hiệu quả kinh tế, năng suất cao và ổn định, tăng trưởng
chất lượng cuộc sống, bình đẳng các thế hệ và hạn chế rủi ro.
2.1.7. Về hiệu quả sử dụng đất
* Khái niệm về hiệu quả
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả, trước kia quan điểm của con
người hạn chế, người ta thường quan niệm kết quả và hiệu quả là một. Sau khi
nhận thức con người phát triển cao hơn, người ta thấy rõ sự khác biệt giữa kết
quả và hiệu quả. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng:
Bản chất của hiệu quả là sự thể hiện yêu cây cầu tiết kiệm thời gian, trình
độ sử dụng nguồn lực xã hội. Các Mác cho rằng quy luật tiết kiệm thời gian là
quy luật có tầm quan trọng đặc biệt tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất.
Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó, nó quyết định động lực
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh xã hội và
nâng cao đời sống con người qua mọi thời đại.
Hiệu quả là một phàm trù trọng tâm và rất cơ bản của khoa học kinh tế và
quản lý. Việc xây dựng hiệu quả là hết sức khó khăn và phức tạp và nhiều vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn chưa giải đáp hết được.
Bản chất của hiệu quả xuất phát từ mục đích sản xuất và phát triển kinh tế
xã hội, đáp ứng ngày càng cao về đời sống vật chất và tinh thần của mọi thành
viên trong xã hội.
Việc nâng cao hiệu quả không chỉ là nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp,

mỗi người sản xuất mà là của mọi ngành, mọi vùng. Đây là vấn đề mang tính
chất toàn cầu, là xu hướng chung của thế giới ngày nay [3].
Hiệu quả là một thuật ngữ dùng để chỉ các mối quan hệ giữa kết quả thực
hiện với các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có
kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Hay nói cách khác hiệu quả chính là
kết quả mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu của mình [5].

9


* Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất
Việc sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng, vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các
nước trên thế giới, nó không chỉ thu hút sự quan tâm các nhà khoa học, các nhà
hoạt động chính sách, các nhà doanh nghiệp mà còn là sự mong muốn của nông
dân, những người trực tiếp tham gia và quá trình sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào nhu cầu thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi
trên cơ sở lưa chọn các sản phẩm ưu thế ở từng địa phương, từ đó nghiên cứu áp
dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao, đó là một
trong những điều kiện tiên quyết để phát triển nông nghiệp theo hướng xuất
khẩu có tính ổn định và bền vững.
* Các chỉ tiêu đánh giá kết quả sử dụng và hiệu quả sử dụng đất
+ Số diện tích đất đưa vào sản xuất so với tiềm năng có thể.
+ Hệ số sử dụng ruộng đất: diện tích gieo trồng/diện tích canh tác
+ Chi phí đầu vào (lao động, vốn, …) trên một đơn vị diện tích.
+ Giá sản lượng trên một đơn vị diện tích đất.
+ Lợi nhuận tính trên một đơn vị diện tích.
* Các chỉ tiêu đánh giá kết quả bảo vệ, cải tạo, bồi dưỡng đất đai
+ Số diện tích hoang hóa đưa vào sản xuất.
+ Biến động đất đai qua các thành phần cơ giới của đất (pH, hàm lượng

các chất dễ tiêu có trong đất)
+ Dựa vào các chỉ tiêu đánh giá kết quả qua mỗi năm để đánh giá.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đất
- Nhóm nhân tố tự nhiên
Là nhóm có ảnh hưởng lớn nhất trong tất cả các nhân tố và tác động
mạnh đến tất cả các lĩnh vực của con người, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn
chịu sự tác động là rất lớn. Nhóm nhân tố này bao gồm: Điều kiện khí hậu, thời
tiết, vị trí địa lý, thổ nhưỡng, môi trường sinh thái, thủy văn. Trong các nhóm
nhân tố này, có thể nói rằng đất đai à điều kiện thời tiết có tác đọng rất lớn đến
khả năng sản xuất của nông hộ. Do đó, lựa chọn cây trồng, bố trí thời vụ cần
phải thông qua các điều kiện tự nhiên sẵn có đồng thời khắc phục những điều
kiện bất lợi để thúc đẩy sản xuất phát triển.
10


- Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội
Đây là nhóm nhân tố cũng có tác động không nhỏ đến hiệu quả, hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp đặc biệt trong giai đoạn hiện nay như: nhân tố lao động; vốn
sản xuất, phương thức canh tác, cơ sở hạ tầng, và một số nhân tố khác.
- Nhân tố lao động
Đây là nhân tố quyết định đến sự thành bại và mọi vấn đề khác trong cuộc
sống lẫn trong kinh doanh và sản xuất nông nghiệp cũng không phải là ngoại lệ.
Hơn thế nữa, đây là nhân tố rất quan trọng bởi thông qua lực lượng lao động,
kiến thức, kinh nghiệm, khả ăng nắm bắt thông tin của các nông hộ là cơ sở của
việc lựa chọn cây gì, con gì, và thâm canh ra sao, mùa vụ thế nào sẽ quyết định
đến kết quả thu được trên từng mảnh đất.
- Phương thức canh tác
Đây chính là một phần của kinh nghiêm, trình độ dân trí, năng lực học hỏi
của lực lượng la động. Khả năng này chính là khả năng hỏi kỹ thuật, áp dụng kỹ
thuật vào sản xuất, canh tác. Đây là điều rất quan trọng đặ biệt trong giai đoạn

cơ giới hóa diễn ra trên quy mô lớn, chính điều này sẽ quyết định cho việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi phương thức thâm canh. Một nền nông
nghiệp lạc hậu không chỉ biểu hiện trên khía cạnh năng suất thấp, chất lượng
kém mà còn biểu hiện qua kỹ năng lao động trên từng vùng đất, trình độ khai
thác đất yếu kém, thiếu tính khoa học, tiến hành khai thác đất một cách thô bạo
đối với đất đai sẽ làm suy thoái một cách nghiêm trọng. Với mọt phương thức
canh tác hợp lý sẽ đảm bảo tính hài hòa giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất
thông qua đặc tính sinh học của từng loại cây trồng.
- Vốn đầu tư
Là yếu tố không thể thiếu cho tất cả các ngành sản xuất vật chất nói chung
và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Bởi đây là yếu tố cho việc quyết định chuyển
đổi cây trồng cũng như khả năng đầu tư về phân bón, áp dụng kỹ thuật của nông
hộ. Bên cạnh đó, yếu tố cư sở vật chất cũng đóng vai trò rất lớn trong việc sản
xuất của các nông họ hiện nay.
2.1.8. Hiệu quả kinh tế

Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng của hoạt động
kinh tế, là thước đo, cơ sở động lực của hoạt động sản xuất. Nó phản ánh trình độ
khai thác các yếu tố đầu tư, các nguồn lực tự nhiên và các phương thức quản lý.
Nâng cao chất lượng của hoạt động kinh tế, tăng cường sử dụng các nguồn lực có
11


sẵn trong hoạt đông sản xuất là yêu cầu khách quan của mọi ngành sản xuất xã hội
do nhu cầu vật chất cuộc sống của con người ngày càng tăng [5].
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế, trong đó sản xuất phải đạt cả hiệu
quả kỹ thuật và hiệu quả phân phối. Có nghĩa là yếu tố hiện vật và giá trị đều
đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả kinh tế.
Về mặt khái quát có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh
tế là một kinh tế biểu hiện sự tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu

phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó
trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra [2].
Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết
kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu
quả kinh tế, gắn liền với quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật
năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao
hiệu quả kinh tế là đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả chi phí để tạo ra nguồn lực đồng thời phải bao
gồm cả chi phí cơ hội [21].
Hiệu quả kinh tế còn biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế
đạt được với chi phí kinh tế bỏ ra để đạt được kết quả đó. Quan hệ so sánh tuyệt
đối chỉ có ý nghĩa ở một phạm vi rất hẹp.
Trong thực tế tùy theo mục đích tính toán hiệu quả kinh tế mà xác định
kết quả sao cho phù hợp như: mục tiêu sản xuất ra sản phẩm nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội là chính thì kết quả được sử dụng là tổng giá trị sản phẩm được
sản xuất ra nhưng đối với doanh nghiệp hay trang trại phải thuê nhân công kết
quả thu được cần phải quan tâm đến lợi nhuận, đối với nông hộ kết quả mà nông
hộ quan tâm là kết quả thu nhập.
Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là những chi phí cho
yếu tố đầu vào như: đất, lao động, nguyên nhiên vật liệu tùy theo từng mục đích
nghiên cứu mà chi phí bỏ ra được tính toàn bộ hoặc cho từng yếu tố chi phí.
- Hệ thống quan điểm thứ nhất.
Quan điểm này cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi việc so sánh
giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra (các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực). Theo
hệ thống quan điểm này, chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số
giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra.
Kết quả kinh tế = kết quả sản xuất - chi phí
Hiệu quả kinh tế = kết quả / chi phí.
12



- Hệ thống quan điểm thứ hai.
Quan điểm này cho rằng hiệu quả kinh tế phải được kết hợp cả hiệu quả
kỹ thuật lẫn hiệu quả phân bổ nguồn lực.
Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật × Hiệu quả phân bổ
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi
phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng và sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ
thuật hay công nghệ áp dụng vào nông nghiệp.
Hiệu quả phân bổ chỉ đề cập đến sự điều chỉnh các chi phí nguồn lực
và sản lượng để phản ánh các giá cả có liên quan và kỹ thuật sản xuất đã được
chọn [24].
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của hiệu quả kinh tế
sử dụng đất là: Trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng của
cải vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động
thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất
phát từ vấn đề này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra
được loại hình sử dụng đất hiệu quả kinh tế cao.
Chỉ tiêu hiệu quả về mặt kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
- Chi phí trung gian (IC): là khoản chi phí vật chất thường xuyên bằng
tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử dụng
trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (VA): là hiệu số giữa giá trị sản xuất (GO) và chi phí
trung gian (IC), là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản
xuất đó: VA=GO - IC
- Hiệu quả kinh tế trên một đồng chi phí trung gian (IC):GO/IC; VA/IC.
- Hiệu quả kinh tế trên một ngày công lao động (LĐ) quy đổi: GO/LĐ;
VA/LĐ.
Các chỉ tiêu phân tích được đánh giá định lượng (giá trị) bằng tiền theo

thời giá hiện hành và định tính (phân cấp) được tính bằng mức độ cao, thấp. Các
chỉ tiêu đạt mức càng cao thì hiệu quả kinh tế càng lớn.

13


2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tình hình sử dụng đất trên thế giới và Việt Nam
* Tình hình sử dụng đất trên thế giới:
Thế giới có tổng diện tích đất tự nhiên 511 triệu km 2. Trong đó đất nông
nghiệp có khoảng 3,3 tỷ ha phân bố: Châu Mỹ chiếm 35%; Châu Á chiếm 26%;
Châu Âu chiếm 13%; Châu Phi chiếm 20%; Châu Đại Dương chiếm 6%. Bình quân
diện tích đất nông nghiệp trên đầu người toàn thế giới là 12.000m 2, Hoa Kỳ 2.000m2,
Nhật 650m2. Theo báo cáo của UNDP năm 1995, ở khu vực Đông Nam Á bình quân
đất canh tác trên đầu người của các nước như sau: Indonesia 0,12ha, Malaysia
0,27ha, Philippin 0,13ha, Thái Lan 0,42ha, Việt Nam 0,1ha[16].
Tài nguyên đất trên thế giới có khoảng 13,530 triệu ha, đất canh tác chiếm
10,6% tổng diện tích vào năm 2000, bình quân đầu người trên 1ha đất canh tác ở
vùng Châu Á Thái Bình Dương là 9,7 người/ha, dự báo tới năm 2025 đạt 17,7
người/ha [24].
Châu Á mặc dù chiếm ½ dân số nhưng chỉ có khoảng 20% đất nông
nghiệp toàn cầu. Đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích ở Châu Á, tiềm năng đất
trồng trọt nhờ nước trời khá lớn, khoảng 407 triệu ha chủ yếu nằm trong vùng
nhiệt đới ẩm của Đông Nam Á, phần lớn diện tích này là đất dốc, chua nhiệt đới,
khoảng 40-60 triệu ha trước đây vốn là đất rừng tự nhiên che phủ, nhưng đến
nay do hoạt động của con người nên rừng đã bị phá và thảm thực vật rừng
chuyển thành cây bụi và cỏ dại.
Từ năm 1995 - 2010 dân số Đông Nam Á dự kiến sẽ tăng thêm 133 triệu
người, ở khu vực này có thể dành thêm 12-15 triệu ha của 93 triệu tiềm năng đất
nhờ nước trời còn lại để sản xuất. Diện tích đất canh tác giảm dần do quá trình

đô thị hóa, khai thác khoáng sản. Do vậy, đất đồi núi sẽ ngày càng quan trọng
hơn cho sản xuất nông lâm nghiêp [4].
* Tình hình sử dụng đất ở Việt Nam
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có những biến chuyển
rõ rệt. Kinh tế đất nước đã chuyển mình, cơ cấu kinh tế đã có những chuyển
dịch. Tuy nhiên trong cơ cấu kinh tế đất nước ta thì nông nghiệp vẫn là chủ yếu
và trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp thì cây láu vẫn là cây trồng chủ đạo. Cơ
cấu nông thôn vẫn còn mang nặng tính thuần nông, ngành nghề ít phát triển, thị
trường tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định do tác động mạnh mẽ của quyt luật gia
tăng dân số ngày càng cao gây nên tình trạng đất chật người đông, chính điều
14


này đã gây cản trở rất lớn đối với quá trình công nghiệp hóa công nghiệp hóa
nông thôn .
Hiện nay, tổng diện tích đất đai của Việt Nam là 55.121,3 nghìn ha với
33.583,3 nghìn ha đất nông nghiệp (thống kê tại thời điểm 01/01/2010) trong đó
đất sản xuất nông nghiệp là 16.441,2 nghìn ha chiếm 39% tổng diện tích đất đai
của cả nước ta.
Đất nông nghiệp nước ta gồm nhiều loại thổ nhưỡng có giá trị kinh tế
cao, thích hợp cho sự phát triển cây lương thực và cây công nghiệp nhiệt đới có
giá trị. Diện tích đất trồng cây hàng năm của Việt Nam là 16.381,7 nghìn ha
chiếm 77,23 % đất sản xuất nông nghiệp. Trong đó diện tích trồng lúa là 9.52,7
nghìn ha, tập trung lớn ở đồng bằng song Hồng và đồng bằng song Cửu Long,
đây là hai vựa lúa lớn nhất nước ta .
Các đồng bằng châu thổ có đất phù sa chiếm 10 triệu ha, trong đó Nam bộ
chiếm một nửa diện tích, đây chính là cơ sở cho các vùng trồng cây lương thực
và cây công nghiệp ngắn ngày. Riêng diện tích đất cỏ dùng vào chăn nuôi là
72.3 nghìn ha và 4.155,6 nghìn ha là dùng cho các cây hàn năm khác. Diện tích
đất nông nghiệp xếp hạng trên 200 nước trong khi đó dân số thì xếp ở hạng 15.

Nước ta là nước nông nghiệp nhưng điều đáng lo ngại là diện tích đất canh tác
cang giảm. Nguyên nhân chính là do tốc độ gia tăng dân số nhanh, quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hoá được đẩy mạnh, tình trạng chia đất cho các thế hệ
trong gia đình diễn ra ngày càng lớn.
2.2.2. Xu thế phát triển nông nghiệp thế giới
Theo Đường Hồng Dật [3], trên con đường phát triển nông nghiệp, mỗi
nước chịu ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau, nhưng
đều giả quyết các vấn đề chung sau:
Không ngừng nâng cao năng suất chất lượng nông sản, nâng cao năng suất
lao động nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Mức độ đầu tư vốn, lao động khoa học, vào các công trình phát triển nông
nghiệp. Chiều hướng chung là giảm lao động chân tay, đầu tư nhiều lao động trí
óc, tăng cường hiệu quả lao động quản lý và tổ chức.
Mỗi quan hệ giữa nông nghiệp và môi trường.
Từ những vấn đề chung đã nêu trên đây mỗi nước lại có chiến lược phát
triển khác nhau, có thể chia thành hai nhóm chính như sau:

15


Nông nghiệp công nghiệp hóa: Những nước đi theo khuynh hướng này
muốn cho sản xuất nông nghiệp có được cách tổ chức quản lý sản xuất như trong
công nghiệp cụ thể là chuyên môn hóa lao động, sản xuất theo dây chuyền,
chuyên canh, tăng cường đầu tư…Theo Lê Văn Khoa và cộng sự [16], nền nông
nghiệp công nghiệp hóa chỉ là nền nông nghiệp nhằm vào số lượng và lợi nhuận,
không làm lành mạnh cho sức khỏe và nảy sinh nhiều tiêu cực đối với xã hội và
môi trường.
Nông nghiệp sinh thái: Nông nghiệp sinh thái nghĩa là có sự kết hợp hài
hòa giữa những cái tích cực những cái đúng đắn hợp lý của nông nghiệp công
nghiệp hóa và sinh thái nông nghiệp. Nội dung của nông nghiệp sinh thái thực

hiện tính đa dạng sinh học: trồng nhiều loại cây khác nhau, luân xen canh cây
trồng, trồng trọt theo phương thức nông lâm kết hợp,…Ngoài ra, còn phải đảm
bảo sự tái sinh hoạt chất, nghĩa là sử dụng đúng mức các nguồn tài nguyên, tạo ra
mối quan hệ đúng đắn giữa các thánh phần và tác nhân của hệ sinh thái nông
nghiệp. Trong nông nghiệp sinh thái học còn đề cập đến nội dung cấu trúc nhiều
tầng để tận dụng tối đa ánh sáng mặt trời, nước mưa,…Vì vậy, cần thực hiện theo
phương thức nông lâm kết hợp, trồng xen, trồng gối [20].
Gần đây, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu nền nông nghiệp bền vững.
Đây là một dạng nông nghiệp sinh thái với mục tiêu là sản xuất nông nghiệp đi
đôi với giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo nông nghiệp phát triển
bền vững, lâu dài.
Xuất phát từ quan điểm đó, nông nghiệp bền vững phải tuân thủ các mục
tiêu sau:
Phải khai thác nhiều hơn các quá trình tự nhiên như chu trình dinh
dưỡng, cố định đạm và các mối quan hệ sâu hại thiên địch trong quá trình sản
xuất nông nghiệp.
Giảm thiếu những đầu tư từ bên ngoài và không tái tạo với tiềm ẩn lớn phá
hoại môi trường hoặc gây hại đến sức khỏe của người sản xuất và tiêu thụ.
Tiếp cận một cách hợp lý với những cơ hội, những nguồn tài nguyên mang
tính năng sản xuất và với sụ tiến bộ của các hình thái nông nghiệp có tính xã hội
hóa hơn. Sử dụng có hiệu quả cao hơn tiềm năng sinh học, tri thức và kỹ năng
bản địa bao gồm những cách tiệp cận sáng tạo mà có thể các nhà kha học chưa
hiểu đầy đủ và người dân chưa chấp nhận rộng rãi.

16


Tăng cường tính tự chủ trong nông dân, cải thiện những bất lợi giữa mẫu
hình cây trồng, tiềm năng sản xuất và các trở ngại của môi trường, khí hậu, địa
hình để đảm bảo tính bền vững lâu dài của các mức sản xuất hiện tại.

Sản xuất hiệu quả và có lãi với việc nhấn mạnh quản lý tổng hợp trang trại,
bảo vệ đất, nước, năng lượng và các nguồn tài nguyên sinh học.
2.2.3. Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam
Phương thức sản xuất nông nghiệp của các nước trên thế giới cho thấy mỗi
phương thức sản xuất nông nghiệp đều có những ưu và nhược điểm. Vấn đề quan
trọng nhất là phải nghiên cứu vận dụng phương thức nào cho sản xuất tại Việt
Nam là hợp lý. Các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học về định hướng phát triến
nông nghiệp Viêt Nam thời gian tới khẳng định cần tận dụng tối đa những ưu thế
của chúng ta đang có như thành tựu của quá trình đổi mới, của khoa học và kỷ
thuật trên thế giới và ở Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu vận dụng theo
những điệu kiện cụ thể của địa phương. Nhìn chung, xu hướng phát triển của nền
nông nghiệp Việt Nam tập trung ở các vấn đề sau đây:
Xác định cơ cấu sản phẩm dựa trên cơ sở của các tiềm năng tự nhiên, kinh
tế, xã hội của từng vùng, lấy hiệu quả kinh tế xã hội tổng hợp làm thước đo để xác
định cơ cấu và tỷ lệ sản phẩm phù hợp với các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển nông
sản hàng hóa [4].
Để khuyến khích sản xuất nông sản hàng hóa, khuyến khích các sản phẩm
xuất khẩu cần tiếp tục tạo ra sự đồng bộ giữa các yếu tố của kinh tế thị trường, từng
bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thị
trường ruộng đất, tạo ra sự lưu chuyển mạnh mẽ đất nông nghiệp để hình thành các
doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp hàng hóa với quy mô thích hợp [6].
Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật vào sản xuất nông
nghiệp. Trong sản xuất hàng hóa cần ứng dụng khoa học công nghệ một cách
đồng bộ, nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất và lưu thông hàng
hóa. Sản phẩm làm ra phải chứa đựng một lượng tri thức khoa học - kỷ thuật và tổ
chức quản lý cao để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành
sản phẩm [23].
2.2.4. Một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất trên thế giới và
Việt Nam
* Những nghiên cứu thế giới

Hầu hết các nước đều xem sản xuất nông nghiệp là cơ sở hạ tầng, là thu nhập
quan trọng của mình. Vì vậy, việc năng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để
đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài là vấn để được nhiều nhà khoa học trên thế
17


giới quan tâm. Hướng nghiên cứu mà đa số các nhà khoa học quan tâm trong lĩnh
vực nâng cao hiệu quả sử dụng đất là xem xét sự phù hợp của mỗi giống cây trồng
trên từng loại đất là cơ sở để bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp nhằm khai thác hiệu
quả những tiềm năng đất đai nói riêng và lợi thế của từng vùng sinh thái nói chung.
Xuất phát từ lý do trên mà hàng năm các viện nghiên cứu nông nghiệp thuộc nhiệu
nước trên thế giới đã tạo ra những giống cây trồng mới giúp cho việc hình thành
nên các kiểu sử dụng đất mới ngày càng phù hợp với đất đai, khí hậu của mỗi vùng
là cơ sở để khai thác đất đai có hiệu quả hơn. Viện lúa quốc tế (IRRI) đã có nhiều
thành tựu về lĩnh vực giống lúa cũng như hệ thống cây trồng trên đất canh tác. Tại
Nhật Bản, tạp chí “Farming Japan” hàng tháng đều giới thiệu các công trình của các
nước trên thế giới về các hình thức sử dụng đất đai, đặc biệt là của Nhật.
Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống hóa tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng
đất đai thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác: Đó là sự phối hợp giữa cây
trồng và gia súc, các phương thức tồng trọt và chăn nuôi, cường độ lao động, vốn
đầu tư, tổ chức sản xuất, sản phẩm làm ra, tính chất hóa của sản phẩm.
Các nước trong khu vực đều có những chính sách và nghiên cứu về sự phát
triển của nông nghiệp nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng. Trung
Quốc đã coi việc khai thác và sử dụng đất đai là yếu tố quyết định để phát
triển kinh tế xã hội nông thôn. Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các chính
sách quản lý và sử dụng đất đai ổn định, giao đất cho nông dân sử dụng, thiết
lập hệ thống trách nhiệm và tính chủ động sáng tạo của nông dân trồng sản
xuất. Chính quyền các địa phương của Trung Quốc thực hiện chủ trương “Ly
nông bất ly hương” đã thúc đẩy nền sản xuất nông nghiệp cũng như sự phát
triển kinh tế nông thôn một cách toàn diện. Thái Lan có chính sách cho thuê

đất dài hạn hay cấm tròng các loại cây không thích hợp trên từng loại đất đã
thúc đẩy việc quản lý và sử dụng đất có hiệu quả hơn.
* Những nghiên cứu ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Đời sống và các hoạt động kinh tế - xã
hội thậm chí cả nền văn minh từ xa xưa đã gắn với trồng trọt và chăn nuôi. Vì
vậy, những nghiên cứu về cơ cấu cây trồng, hệ thống nông nghiệp và hiệu quả sử
dụng đất ở nước ta gắn liền với lịch sử hình thành, đấu tranh và bảo vệ Tổ Quốc.
Từ thời Hùng Vương dân ta đã di chuyển từ vùng gò đồi xuống vùng đồng
bằng, ven biển để khai hoang xây dựng đồng ruộng sản xuất nông nghiệp và hình
thành nên các thôn, bản.

18


Thời Nam Bắc phân tranh (1593 - 1788) và tiếp sau là thời của các vua
triều Nguyễn (1802 - 1945) có những bậc “thần hoàng” nổi tiếng như Nguyễn Lộ,
Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ đã đưa dân đi khai hoang đất đai ở các
vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long xây dựng các công trình thủy lợi tưới
tiêu và cải tạo đất lựa chọn hệ thống cây trồng, bố trí mùa vụ sản xuất, quy hoạch
sử dụng đất lâu bền và đánh giá hiệu quả đất.
Dưới thời thuộc Pháp (1867-1945) nhiều giống cây trống mới đã được
tuyển chọn trong nước hoặc du nhập từ nước ngoài và sản xuất trong nước ở các
đồn điền như cà phê, cam, quýt, chè…, đặc biệt là cao su. Cây cao su đã được
trồng với quy mô rộng lớn và được mở rộng ra đến tận Thanh Hóa. Tuy nhiên, dù
thời nào đi nữa thì ở nước ta cây lúa nước vẫn là cây trồng chính. Năm 1888,
Việt Nam đã xuất khẩu 300.000 tấn gạo cho các nước thuộc địa Pháp.
Do yêu cầu của việc tăng năng suất, sản lượng cây trồng để đáp ứng nhu
cầu lương thực, thực phẩm của con người nên các nghiên cứu về trồng xen, trồng
gối, luân canh, tăng vụ đã được nghiên cứu từ rất sớm. Trên cơ sở đó để đánh giá
hiệu quả sử dụng đất và lựa chọn các loại hình sử dụng đất hiệu quả nhất.

Điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn nhiều khó khăn, chịu nhiều
rủi ro do thiên tai bão lụt, hạn hán, sâu bệnh… làm cho năng suất và sản lượng
cây trồng thấp, không ổn định và bấp bênh. Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử
dụng đất của một vùng có thể thấy rõ một số loại hình sử dụng đất sử dụng nguồn
giống cây trồng của địa phương có khả năng chống chịu khá với điều kiện ngoại
cảnh không thuận lợi, năng suất cây trồng ổn định nhưng lại thấp, không đáp ứng
yêu cầu con người. Do đó cần phải đưa các giống cây trồng tốt, cho năng suất cao,
ổn định, phù hợp với điều kiện sinh thái cụ thể của vùng vào sản xuất. Ngoài ra,
đối với những loại hình sử dụng đất chưa phát huy được tiềm năng vốn có của
vùng, năng suất chưa cao và kém ổn định thì phải có điều chỉnh phù hợp để nâng
cao hơn nữa hiệu quả sử dụng đất.
Những năm qua Việt Nam đã quan tâm giải quyết tốt các vấn đề kỷ thuật,
kinh tế và tổ chức trong sử dụng đất nông nghiệp, việc nghiên cứu và ứng dụng
tập trung vào các vấn đề sau: lai tạo các giống cây trồng mới có năng suất cao; bố
trí luân canh cây trồng vật nuôi với từng loại đất; thực hiện thâm canh toàn diện,
liên tục trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỷ thuật vào sản xuất. Các công trình có giá
trị trên phạm vi cả nước phải kể đến các công trình: Nghiên cứu đánh giá tài
nguyên đất đai của Việt Nam của Nguyễn Khang và Phạm Dương Ưng (1995)
[15]; Đánh giá hiện trạng sử dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu
19


bền [22]; Phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng [17]; Hiệu
quả kinh tế sử dụng đất canh tác trên đất phù sa sông Hồng huyện Mỹ Văn, tỉnh
Hải Hưng [1].
Cũng trong giai đoạn này, chương trình quy hoạch tổng thể đang được tiến
hành nghiên cứu đề xuất dự án phát triển đa dạng hóa nông nghiệp, nội dung quan
trọng nhất là phát triển hệ thống cây trồng để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp. Những công trình nghiên cứu mô phỏng chiến lược phát triển nông
nghiệp vùng đồng bằng sông hồng của GS.TS. Đào Thế Tuấn cũng đề cập đến

việc phát triển hệ thống cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong điều kiện
Việt Nam. Hệ thống cây trồng vùng đồng bằng sông Cửu Long do GS.TS.
Nguyễn Văn Luật chủ trì cũng đưa ra một kết luận về phân vùng sinh thái và
hướng áp dụng những giống cây trồng trên các vùng sinh thái khác nhau nhằm
khai thác sử dụng đất mang lại hiệu quả cao hơn.
Khi nghiên cứu vùng đất thường xuyên ngập úng của xã Hiệp Hòa, tỉnh
Bắc Giang tác giả Nguyễn Văn Hoàn cho biết nếu chỉ đơn thuần cấy một vụ
lúa/năm thì lợi nhuận thu được là 5,8 triệu đồng/năm/ha, còn nếu cấy lúa kết hợp
nuôi cá thì lợi nhuận thu được sẽ tăng lên 13,7 triệu đồng/ha. Từ kết quả phân tích
đánh giá hiệu quả kinh tế đó để điều chỉnh hướng sản xuất nhằm phát huy hết tiềm
năng của vùng.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Tháp, Đặng Văn Minh thì khi đánh giá về tình
hình sử dụng đất ở huyện Đăk Hà thì bên cạnh về đánh giá hiệu quả kinh tế của
các loại hình sử dụng đất cũng cần chú ý đến sự thay đổi tính chất đất đai của các
loại hình sử dụng đất qua quá trình canh tác như độ cứng của đất, màu sắc tầng
đất, độ màu mỡ của đất…
Tác giả Đoàn Công Quý khi nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng
đất canh tác ở các xã đồng bằng huyện Thạch Thất, Tỉnh Hà Tây đã sử dụng phân
tích thông qua các chỉ tiêu: số hộ trồng theo từng loại cây, diện tích bình quân
trồng từng loại cây/hộ, năng suất trung bình, mức đầu tư vật chất trên 1 ha, tổng
giá trị sản xuất trên 1 ha, thu nhập trên một đồng chi phí vật chất, hệ số sử dụng
đất canh tác.
Khi đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất ở huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái Bình, tác giả Phan Quốc Hưng và Vũ Thị Thu Hương đã xem xét phân tích
trên ba phương diện hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, và tác động môi trường của
từng loại hình. Và để so sánh hiệu quả giữa các loại hình sử dụng đất cần đưa ra
phân cấp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội thông qua các chỉ tiêu tổng
20



thu nhập, thu nhập hỗn hợp hiệu quả đồng vốn, sử dụng lao động, mức độ chấp
nhận của người dân thành các mức độ rất cao, cao, trung bình và thấp. Từ kết quả
so sánh để đề xuất các loại hình sử dụng đất có thể mở rộng [13].
Hiệu quả sử dụng đất của các loại hình sử dụng đất trên các tiểu vùng khác
nhau sẽ khác nhau. Trong nghiên cứu của mình về “Hiệu quả sử dụng đất canh
tác huyện Đông Anh, Hà Nội” tác giả Nguyễn Thị Vòng đã tiến hành phân tích và
so sánh hiệu quả tính trên một đơn vị diện tích và tính trên một công lao động của
từng tiểu vùng sinh thái khác nhau so với bình quân chung của toàn huyện. Từ đó,
có những hướng điều chỉnh cũng như phát triển các loại hình sử dụng đất triển
vọng phù hợp với điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của từng tiểu vùng góp
phần vào sự phát triển chung của toàn huyện.

21


PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đất canh tác và các hộ dân có đất canh tác tại xã Sơn Kim 2, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi thời gian: Thời gian thực tập từ ngày 01/1/2015 - 01/5/2015 và thời
gian đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác 3 năm gần đây, từ năm 2012 - 2014
+ Phạm vi không gian: xã Sơn Kim 2, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Phạm vi nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu điểm về tình hình quản lý sử
dụng đất canh tác, hiệu quả sử dụng, qua đó phân tích và phát hiện những mặt
được và chưa được trong việc sử dụng đất canh tác tại xã Sơn Kim 2, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác chỉ đi sâu
đánh giá hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế chỉ tính theo các công thức luân canh

cho một số loại cây trồng chính/1ha.
3.2 Nội dung nghiên cứu
- Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội xã Sơn Kim 2, huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Thực trạng sử dụng đất canh tác của xã
- Đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác
- Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác tại địa phương
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu
* Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp
Báo cáo số liệu thứ cấp về tình hình KT - XH của UBND xã Sơn Kim 2
năm 2012 - 2014. Các tài liệu, báo cáo khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Thông tin về tình hình đất đai ở xã Sơn Kim 2, các tài liệu, các bài báo của ban
địa chính xã, Đồ án quy hoạch Nông thôn mới của xã. Phòng tài nguyên môi
trường huyện và các cơ quan liên quan.

22


* Phương pháp thu thập thông tin sơ cấp
- Phỏng vấn sâu: Đối tượng là cán bộ Hội nông dân xã; Cán bộ khuyến
nông xã; cán bộ phụ trách nông nghiệp xã, trưởng thôn, những nông dân điển
hình trong sử dụng hiệu quả đất canh tác để tìm hiểu thông tin về thực trạng sử
dụng đất canh tác của vùng nghiên cứu, hiệu quả sử dụng và giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng.
- Phỏng vấn hộ: Chọn ngẫu nhiên 30 hộ có diện tích đất canh tác tại xã để
điều tra hộ về thông tin chung của hộ, thực trạng sử dụng đất canh tác của hộ,
các phương thức sử dụng và hiệu quả kinh tế của từng phương thức trong 3 năm
gần đây từ 2012 - 2014, điều tra về chi phí sán xuất, năng suất cây trồng, loại cây
trồng, mức độ sử dụng đất bằng bảng hỏi bán cấu trúc.

- Thảo luận nhóm: thực hiện 1 cuộc thảo luận nhóm 10 người bao gồm đại
diện các hộ nông dân, các trưởng thôn, cán bộ phụ trách nông nghiệp xã, cán bộ
khuyến nông xã để tìm giải pháp sử dụng đất canh tác hiệu quả
- Quan sát thực địa: Tiến hành quan sát tổng thể địa bàn nghiên cứu về
tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội và tình hình sản xuất.
3.3.2. Phương pháp phân tích thống kê, xử lý số liệu
- Số liệu định tính sẽ được phân tích, đánh giá.
- Số liệu định lượng sẽ được xử lý bằng phần mềm Excel.

23


PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Sơn Kim 2
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Xã Sơn Kim II nằm phía Tây Nam của huyện Hương Sơn, cách trung tâm
huyện khoảng 25 km, có vị trí địa lý từ 18 0 5,02" đến 18010,27" độ vĩ Bắc và từ
105043,25" đến 105048,54" độ kinh Đông
- Phia Bắc giáp xã Sơn Kim I và thị trấn Tây Sơn
- Phía Nam giáp nước CHDCND Lào và xã Hương Quang (huyện Vũ Quang)
- Phía Đông giáp xã Sơn Tây và xã Hương Quang (huyện Vũ Quang)
- Phía Tây giáp xã Sơn Kim I và nước CHDCND Lào
Toàn xã có 8 thôn với tổng diện tích tự nhiên trong địa giới hành chính là:
20.645,54ha.
b. Địa hình địa mạo
* Địa hình
Xã Sơn Kim II là một xã miền núi, địa hình bị chía cắt lớn ở phía Bắc và
phía Nam còn phía Đông và phía Tây là đồi núi nhấp nhô, bên cạnh đó là hệ
thống sông ngòi phân bổ không đồng đều nên có sự chênh lệch giữa vùng này

sang vùng khác.
* Địa mạo
Sơn Kim II có địa mạo bao gồm đồi núi, sông núi bao quanh, có độ cao từ
200 - 600 mét xen kẻ các khu dân cư tạo thành từng vùng cách biệt.
c. Điều kiện khí hậu thời tiết
Theo số liệu thống kê của trạm khí tượng thủy văn huyện Hương Sơn xã
Sơn Kim II thuộc vùng Bắc Trung bộ nên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới
gió mùa. Và được chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 9 và
mùa lạnh từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau.
d. Thủy văn
Hệ thống thủy văn của xã chịu sự ảnh hưởng bởi hệ thống sông suối khá
dày, xã có sông Ngàn Phố chảy từ Tây sang Đông với chiều dài 15km, sông Tre
24


chảy từ Nam sang Bắc với chiều dài khoảng 9km. Ngoài ra có hệ thống khe suối
gần như phủ đều trên toàn xã như khe Chì Lời, khe Ô ồ, khe Đá, khe Cấy, khe
Chẹt, khe Yên, khe Vọng. Trong khu dân cư còn có ao hồ, hoang mặt nước đã
ảnh hưởng tích cực đến việc điều hòa tiểu khí hậu và môi trường sinh thái.
e. Tài nguyên đất
Theo tài liệu, số liệu thu thập và điều tra bổ sung của xã cho thấy đất đai ở
xã được phân ra các loại chính sau:
- Đất feralit vàng đỏ phát triển trên đá phiển thạch, sét và biến chất, đào
sâu 120 cm chưa có tầng cứng rấn, ký hiệu: FoSx, có diện tích khoảng
1.827,48ha, được phân bổ về phía Tây của xã
- Đất phù sa được bồi có sản phẩm feralit, thành phần cơ giới thịt nhẹ, độ
kết von từ 10 - 30%, ký hiệu: Fsz với diện tích khoảng 1.637,42ha, được phân
bổ ở trung tâm xã
- Đất phù sa được bồi hàng năm, thành phần cơ giới thịt nhẹ, ký hiệu
Pbx3/8 với diện tích khoảng 1.246ha phân bổ ở trung tâm xã

- Đất feralit vàng đỏ ở dưới rừng, đào sâu từ 40 - 120 cm đã có tầng cứng
rắn, ký hiệu PsY có diện tích khoảng 5.792,63ha, phân bổ ở những vùng đồi núi
cao
- Đất feralit vàng đỏ ở dưới rừng. Đào sâu 120 cm chưa có tầng cứng rắn,
ký hiệu: PSx có diện tích khoảng4.035ha, được phân bổ phía Bắc và phía Nam
của xã
- Đất feralit vàng đổ phát triển trên đá phiển thạch, sét và biến chất, đào
sâu từ 40 - 120 cm chưa có tầng cứng rắn, ký hiệu: FoSy có diện tích khoảng
2.250ha được phân bổ ở trung tâm của xã
f. Tài nguyên nước
Sông suối và mặt nước chuyên dung trên địa bàn của xã có diện tích
tương đối lớn 168,68ha. Tuy nhiên do địa hình khá phức tạp nên chỉ đưa được
một phần vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy nước dùng cho sản xuất nông
nghiệp ở đây chủ yếu phụ thuộc vào khe suối tự nhiên
g. Tài nguyên rừng
Sơn Kim II có diện tích đất Lâm nghiệp tương đối lớn (19110,10ha),
trong đó rừng sản xuất 3.433,10ha và rừng phòng hộ 8.142,20ha rừng ở đây bao
gồm những oài gỗ quý như: Lim, Táu, Dổi, ..vv..
25


×