Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

Khảo nghiệm tập đoàn các giống lúa nhập nội năm 2015 tại xã vinh thái, huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 75 trang )

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Cây lúa (Oryza sativa L.) thuộc họ Hoà thảo Gramineae, là một trong ba
cây lương thực chủ yếu trên thế giới. Khoảng 40% dân số thế giới coi lúa gạo là
nguồn lương thực chính, 25% trong số đó sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần
lương thực hàng ngày. Như vậy lúa gạo ảnh hưởng tới đời sống ít nhất khoảng
65% dân số thế giới. Ở Việt Nam, gần 100% dân số sử dụng lúa gạo làm lương
thực chính [4].
Cùng với sự phát triển của xã hội, những thành tựu khoa học kỹ thuật liên
tục ra đời đã nhanh chóng đi vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Trong những
năm gần đây nhờ áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực
như di truyền chọn giống, sinh lý, sinh hóa, hóa sinh, cơ giới, hóa học... mà năng
suất, phẩm chất, sản lượng và hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa không ngừng
được tăng lên ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
Như chúng ta đã biết, hiện nay biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng ảnh
hưởng đến đời sống con người và tác động mạnh mẽ đến sản xuất trồng trọt, đặc
biệt là hạn hán. Khô hạn là một yếu tố quan trọng bậc nhất ảnh hưởng đến an toàn
lương thực của thế giới. Tài nguyên nước phục vụ cho nông nghiệp không phải là
vô hạn, do đó sự khan hiếm nước phục vụ nông nghiệp là vấn đề cấp thiết trên
quy mô toàn cầu. Hạn hán được xem như là một trong những hậu quả nghiêm
trọng do sự suy giảm của nguồn nước. Trước tình hình đó, các nhà khoa học trên
thế giới đã tạo ra nhiều giống cây trồng có tính chịu hạn tốt.
Việt Nam là một nước đang phát triển, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn trong nền kinh tế quốc dân. Nước ta có địa hình đa dạng và diễn biến khí
hậu phức tạp, lượng mưa phân bố không đều giữa các vùng và các thời kỳ trong
năm nên hạn hán có thể xảy ra trong bất kỳ vùng nào, mùa nào. Theo ước tính ở
nước ta, năng suất lúa bị thiệt hại do hạn hán là đáng kể, diện tích lúa bị hạn
hàng năm lên tới 0,4 triệu ha. Những năm 1988 – 1990 (số liệu Bộ nông nghiệp


và Công nghiệp thực phẩm) sản lượng lúa của vùng đồng bằng sông Hồng giảm
20 – 28% so với mức trung bình, chủ yếu là do hạn hán. Trong năm 1993, hạn
hán gay gắt liên tục xảy ra ở Trung Bộ và Nam Bộ làm giảm một nửa năng suất
lúa. Để nâng cao sự ổn định sản lượng lúa trong điều kiện khô hạn, việc nghiên
cứu chọn tạo các giống lúa có khả năng chịu hạn và có các đặc tính chống chịu

1


khác (chịu mặn, chịu lạnh,…) đã trở thành một trong những nội dung quan trọng
của các chương trình nghiên cứu tạo giống lúa trên thế giới và Việt Nam [12].
Việc sử dụng các giống lúa có khả năng thích nghi và chống chịu cao là một
biện pháp tiết kiệm chi phí hữu hiệu nhất. Chính vì vậy, để nâng cao và ổn định
sản lượng lúa trong điều kiện từng địa phương, nhằm làm giảm thiểu thiệt hại do
biến đổi khí hậu gây ra. Đa số các giống lúa được sử dụng trồng ở nước ta chủ
yếu là nhập nội từ nước ngoài.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Khảo nghiệm tập đoàn các giống lúa nhập nội năm 2015 tại xã Vinh
Thái, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế”
1.2. Mục tiêu của đề tài
Tuyển chọn giống lúa nhập nội có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt và năng
suất cao, phù hợp với điều kiện canh tác trong năm 2015 tại xã Vinh Thái, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Thí nghiệm áp dụng theo đúng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khảo
nghiệm tập đoàn giống lúa (BNN & PTNT).
- Theo dõi đầy đủ các chỉ tiêu về sinh trưởng phát triển, và năng suất của
các giống lúa thí nghiệm.
- Tuyển chọn được vài giống phù hợp với điều kiện địa phương, để có
những định hướng cho các nghiên cứu khác ở các vụ tiếp theo.

1.4. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
- Xây dựng cơ sở khoa học cho việc đánh giá, tuyển chọn các giống lúa
nhập nội.
- Xác định khả năng sinh trưởng phát triển và khả năng cho năng suất của
các giống lúa.
- Các kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc đưa ra những khuyến
cáo đề xuất những giống lúa nhập nội thích hợp với điều kiện sinh thái của
huyện Phú Vang nói riêng và tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung.

2


1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Xác định được các giống lúa nhập nội thích hợp với vùng đất trồng lúa
của huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Khuyến cáo cho nông dân đưa vào sản xuất những giống lúa nhập nội tốt
có năng suất chất lượng cao nhằm góp phần nâng cao sản lượng lúa của huyện
và tỉnh.

3


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Nguồn gốc phân loại cây lúa
2.1.1. Nguồn gốc cây lúa
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây ngũ cốc có lịch sử lâu đời
nhất. Về nguồn gốc xuất xứ của cây lúa cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Người
ta cho rằng tổ tiên của chi lúa Oryza là một loại cây hoang dại trên siêu lục địa

Gondwana cách đây ít nhất 130 triệu năm và phát tán rộng khắp các châu lục
trong quá trình trôi dạt lục địa. Hiện nay có khoảng 21 loài cây hoang dại thuộc
chi này và 2 loài lúa đã được thuần hóa là lúa châu Á (Oryza sativa ) và lúa châu
Phi (Oryza glaberrima ). Có ý kiến cho rằng cây lúa được hình thành đầu tiên ở
vùng Tây Bắc Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Nam Trung Quốc, Việt Nam.
Tổ tiên của lúa châu Á (O. Sativa) là một loại lúa hoang phổ biến (Oryza
rufipogon) dường như có nguồn gốc tại khu vực xung quanh chân núi Himalaya,
với O. sativa thứ Indica ở phía Ấn Độ và O. sativa thứ Japonica ở phía Trung
Quốc. Hiện nay đây là giống lúa chính được gieo trồng làm cây lương thực trên
khắp thế giới. Nhiều giả thuyết khác nhau về nơi đầu tiên tiến hành việc gieo
trồng hay thuần hóa giống lúa này.
Ngày nay, lúa được trồng nhiều ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ và Châu
Đại Dương. Tính toán sản lượng cho thấy Châu Á không chỉ là quê hương của
Oryza sativa mà là nơi trồng lúa chính trên thế giới. Các giống lúa Indica được
phổ biến rộng ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, các giống Japonica thích nghi với
điều kiện lạnh hơn nên được trồng phổ biến ở miền Trung và Nam Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan [15],[18].
2.1.2. Phân loại cây lúa
Cây lúa Oryza sativa L. thuộc họ Hòa thảo Gramine, tộc Oryzae, có bộ
nhiễm sắc thể 2n = 4. Trong chi Oryza có nhiều loài. Năm 1960 Erygin chia ra
23 loài, 1960 Grist cho là 25 loài. Đến năm 1963 tại hội nghị Di truyền học tế
bào về lúa họp tại viện lúa quốc tế IRRI xác định có 19 loài. Nhiều công trình
nghiên cứu cho đến nay thống nhất rằng chỉ có 2 vùng trên thế giới là châu Á và
châu Phi biết thuần dưỡng cây lúa trồng từ cây lúa dại cách đây hàng triệu năm.
Đó là hai loài lúa trồng Oryza sativa và Oryza gluberrima trồng ở tây châu Phi
[12].
Theo quan điểm sinh thái học và tiến hóa đã chia lúa trồng ở châu Á thành
5 kiểu sinh thái có tên là Aus, Boro, Bulu, Aman và Trereh.
4



Gutchih (1938) chia lúa trồng thành 3 loài phụ là Indica, Japonica và
Previs. Trong đó, Previs có hạt ngắn, Indica có hạt thon dài còn Japonica có hạt
to, dày, rộng [12].
Đinh Dĩnh (1958) chia lúa trồng thành 2 nhóm: Lúa tiên và lúa cánh. Lúa
tiên có nguồn gốc từ Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Đông Nam Á. Lúa tiên có lá
hẹp, hạt thon dài, thích ứng với vùng nhiệt đới ẩm. Lúa cánh có nguồn gốc ở
Bắc Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu. Lúa có hạt bầu thích hợp với vùng ôn đới
và cận nhiệt đới [12].
Quan điểm canh tác học chia lúa trồng O.stiva thành 4 loại hình thích ứng
có điều kiện canh tác khác nhau (Trần Văn Thủy, 1998) [27].
- Lúa cạn: Là loại lúa được trồng trên đất cao không giữ nước và sống chủ
yếu nhờ nước trời.
- Lúa có tưới: Được trồng trên những cánh đồng có công trình thủy lợi, chủ
động về nước tưới, tiêu theo yêu cầu của từng thời kỳ sinh trưởng của cây lúa.
- Lúa nước sâu: Được gieo trồng ở những cánh đồng thấp, khó rút nước
hoặc rút nước chậm khi có mưa hoặc lũ. Tuy nhiên thời gian ngập nước không
quá 10 ngày và mực nước không quá 50cm.
- Lúa nước nổi: Là loại lúa được gieo trồng trước mùa mưa khi lúa đã đẻ
nhánh mực nước dâng cao do mưa lớn thì lúa vươn lóng rất nhanh (khoảng
10cm/ngày) để ngoi theo vươn lên trên mặt nước.
Ở Việt Nam tồn tại cả 4 nhóm lúa trên, nhưng chủ yếu là nhóm lúa nước có
tưới. Nhóm lúa cạn tồn tại nhiều ở vùng núi và Trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên.
Lúa có tưới được canh tác chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng ven biển miền Trung. Lúa nước sâu được trồng
chủ yếu ở các vùng ngập úng, trũng đồng bằng Bắc Bộ.
Dựa vào thời gian sinh trưởng, cây lúa chia làm 4 loại:
-

Lúa rất sớm: < 100 ngày

Lúa sớm: 101 – 120 ngày
Lúa lỡ: 121 – 140 ngày
Lúa muộn: > 140 ngày
Sự phân loại trên chỉ mang tính tương đối, vì nếu bị ảnh hưởng của nhiệt
độ, một số giống lúa sớm có thể trở thành lỡ hoặc muộn.
Dựa vào đặc điểm sinh thái và địa lí, loài Oryza sativa L. được chia thành 3
nhóm: Indica, japonica và Javanica (hay Japonica nhiệt đới).

- Nhóm Indica: Thường trồng ở khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, có thân cao, dễ
đổ ngã, nhiều chồi, lá ít xanh và cong, kháng sâu bệnh tốt, hạt gạo dài hoặc
trung bình, nhiều tinh bột.

5


- Nhóm Japonica: Thân ngắn, chống đổ ngã, lá xanh đậm, thẳng đứng, hạt gạo
thường tròn, ngắn hoặc trung bình. Khi nấu lên dẻo, có năng suất cao, thường
được trồng ở vùng ôn đới hoặc những nơi có độ cao trên 1000 m so với mặt
nước biển.
- Nhóm Javanica: Có lá rộng với nhiều lông và ít chồi, thân cứng, chắc và ít cảm
quang, hạt lúa thường có râu, thường được trồng nhiều ở Indonesia.
Ngoài ra còn có lúa Oryza blaberrima được trồng ở Tây Phi cách đây 3.500
năm, có thân cao như Indica, gié lúa thẳng, có ít hoặc không có nhánh phụ. Hạt
lúa không có lông trên vỏ trấu và gạo đỏ. Loại lúa này kháng được nhiều sâu
bệnh và chịu hạn. Tuy nhiên năng suất kém hơn những loại lúa khác [47].
Dựa trên những điều tra nghiên cứu ngày nay về mối quan hệ giữa kiểu gen
và kiểu hình của lúa đã phân loại lúa trồng thành 6 nhóm:
- Nhóm 1: Loài Indica điển hình phân bố trên toàn thế giới.
- Nhóm 2: Gồm các loài ngắn ngày, chịu hạn phân bố chủ yếu ở tiểu lục địa Ấn
Độ.

- Nhóm 3 và 4: Gồm loại ngập nước của Ấn Độ và Bangladesh.
- Nhóm 5: Gồm loài lúa thơm của tiểu lục địa Ấn Độ như Basmati 370.
- Nhóm 6: Bao gồm các loại Japonica và Javanica điển hình.
Tóm lại có nhiều cách phân loại cây lúa theo điều kiện sinh thái, theo vĩ độ,
theo mùa vụ, theo thời gian sinh trưởng hay theo chất lượng gạo,…
2.2.

Giá trị của lúa gạo
2.2.1. Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo
Lúa gạo giữ vai trò thiết yếu trong tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của
những người ăn cơm gạo hàng ngày.
Gạo là thức ăn giàu dinh dưỡng, so với lúa mì, gạo có thành phần tinh bột
và protein thấp hơn, nhưng năng lượng tạo ra cao hơn vì chứa nhiều chất béo
hơn, ngoài ra nếu tính năng suất trên 1 hecta, gạo cung cấp nhiều calo hơn lúa
mì do năng suất lúa cao hơn năng suất lúa mì. Hạt gạo là loại thức ăn dễ tiêu hóa
và cung cấp loại protein tốt nhất cho cơ thể con người. Tuy nhiên để bảo quản
gạo được lâu, cùng với thói quen thích ăn gạo trắng nên gạo được xay chà kỹ
làm mất các thành phần dinh dưỡng đó [4].

6


Bảng 2.1. Thành phần hóa học của lúa gạo so với 3 loại hạt ngũ cốc
Chỉ tiêu
Cao
Gạo
Lúa Mì
Bắp
(Tính trên trọng lượng khô)
lương

lức
Protein
(%)
12,2
11,4
9,6
8,5
Chất béo
(%)
2,2
5,7
4,5
2,6
Chất đường bột
(%)
81,1
74,0
67,4
74,8
Chất xơ
(%)
1,2
2,3
4,8
0,9
Tro
(%)
1,6
1,6
3,0

1,6
Năng lượng
(cal/100g)
436
461
447
447
Thiamin (B1)
(mg/100g)
0,52
0,37
0,38
0,34
Riboflavin (B2)
(mg/100g)
0,12
0,12
0,15
0,05
Niacin (B3)
(mg/100g)
4,3
2,2
3,9
4,7
Fe
(mg/100g)
5
4
10

3
Zn
(mg/100g)
3
3
2
2
Lysine
(g/16gN)
2,3
2,5
2,7
3,6
Threonine
(g/16gN)
2,8
3,2
3,3
3,6
Methionine
+
(g/16gN)
3,6
3,9
2,8
3,9
cystine
Tryptophan
(g/16gN)
1,0

0,6
1,0
1,1
(Nguồn: McCanco và Widdowson, 1960: Khan và Eggum, 1978 và Eggum
1979)
Trong hạt gạo, hàm lượng dinh dưỡng tập trung ở các lớp ngoài và giảm
dần vào trung tâm. Phần bên trong nội nhũ chỉ chứa chủ yếu là chất đường bột.
Cám hay lớp vỏ ngoài của hạt gạo chiếm khoảng 10% trọng lượng khô là thành
phần rất bổ dưỡng của lúa, chứa nhiều protein, chất béo, khoáng chất, vitamin và
đặt biệt là các vitamin nhóm B [19].
2.2.2. Giá trị sử dụng của lúa gạo
Ngoài cơm ra, gạo còn dùng để chế biến nhiều loại bánh, làm môi trường
để nuôi cấy niêm khuẩn, men, cơm mẻ… Gạo còn dùng để cất rượu, cồn…
Người ta không thể nào kể hết công dụng của nó.
Cám hay lớp vỏ đúng hơn lớp vỏ ngoài của hạt gạo do chứa nhiều protein,
chất béo, vitamin nhất là vitamin nhóm B, nên được dùng làm bột dinh dưỡng
trẻ em và điều trị bệnh phù thũng. Cám là thành phần cơ bản trong thức ăn gia
súc, gia cầm và trích lấy dầu ăn…

7


Trấu ngoài công dụng làm chất đốt, chất độn chuồng còn làm ván ép, vật
liệu cách nhiệt, cách âm, chế tạo cacbon và silic…[6].
2.2.3. Giá trị kinh tế của lúa gạo
Cây lúa là cây có thể thâm canh mang lại hiệu quả kinh tế cao, có thể trồng
xen trồng gối với các loại cây trồng khác hoặc thả cá xen với trồng lúa. Đầu tư
vốn không cao, nhanh cho thu hoạch nên vòng xoay vốn nhanh. Sản xuất lúa
gạo mang lại hiệu quả cho nông dân, tăng thu nhập, tăng GDP...[9].
Lúa gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nó

không chỉ mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước mà còn mang lại đời sống
ấm no hơn cho người dân. Từ một nước thiếu lương thực, trong những năm gần
đây Việt Nam liên tục đứng thứ hai về xuất khẩu lúa gạo của thế giới, góp phần
đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.
Bảng 2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm
Năm
Sản lượng (triệu tấn)
Giá trị (triệu USD)
2005

5,25

1.279

2006

4,64

1.276

2007

4,56

1.490

2008

4,68


2.663

2009

6,00

2.437

2010

6,89

3.250

2011

7,12

3.656

2012

8,05

3.700

(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam, 2012)
Qua bảng 2.2 cho thấy sản lượng xuất khẩu gạo của nước ta có nhiều biến
động và có xu hướng tăng dần. Đáng kể nhất là giai đoạn từ năm 2008 đến năm
2012, sản lượng xuất khẩu gạo đã liên tục tăng từ 4,68 triệu tấn lên 8,05 triệu tấn

(tăng 41,86%). Giá trị xuất khẩu gạo nhìn chung cũng tăng dần nhưng lại không
cùng tỷ lệ thuận với việc tăng sản lượng gạo xuất khẩu qua các năm. Cụ thể, sản
lượng gạo xuất khẩu năm 2009 tăng 1,32 triệu tấn so với năm 2008 nhưng giá trị
xuất khẩu lại giảm 226 triệu USD. Sản lượng gạo xuất khẩu năm 2010 tăng 0,89
triệu tấn so với năm 2009 và đã mang về 813 triệu USD. Giá trị xuất khẩu gạo
năm 2012 cao hơn 1,2% so với năm 2011.
8


2.3. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình hình sản xuất lúa trên Thế giới
Trên thế giới, cây lúa được 250 triệu nông dân trồng, là cây lương thực
chính của 1,3 tỷ người ngèo nhất trên thế giới, là sinh kế chủ yếu của nông dân,
là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con người, bình quân sử dụng
khoảng 180 – 200 kg gạo/ người/ năm tại các nước châu Á.
Ở Việt Nam dân số trên 87 triệu và 100% người Việt Nam sử dụng lúa gạo
làm lương thực chính.
Cây lúa phân bố rộng từ 530 Bắc đến 350 Nam. Trong đó châu Phi có 41
nước trồng lúa, châu Á có 30 nước, Bắc Trung Mỹ có 14 nước, Nam Mỹ có 13
nước và châu Đại Dương có 5 nước trông lúa.
Sản lượng lúa gia tăng trong thời gian qua đã mang lại sự an sinh. Ngày
16/12/2002, tại kỳ họp thứ 57 hàng niên của Hội đồng Liên hiệp Quốc đã chọn
năm 2004 là năm Lúa gạo Quốc tế với khẩu hiệu “Cây lúa là Cuộc sống”.
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới giai đoạn 2004 – 2014
Chỉ tiêu
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Năm
(triệu ha)

(tấn/ha)
(triệu tấn)
2004
150,58
4,03
607,58
2005
155,04
4,09
634,28
2006
155,63
4,12
640,92
2007
155,09
4,23
656,78
2008
160,04
4,30
688,04
2009
158,10
4,34
686,93
2010
161,20
4,35
701,97

2011
162,48
4,45
722,72
2012
162,94
4,51
734,91
2013
165,16
4,49
740,90
*
2014
160,18
4,42
707,48
(Nguồn: FAOSTAT,USDA(*), 2015)
Kết quả số liệu ở bảng 2.3 cho thấy:
Về diện tích: Diện tích trồng lúa thế giới có nhiều biến động và có xu hướng
tăng dần, từ năm 2004 ở mức 150,58 triệu ha đến năm 2014 diện tích đã tăng lên
160,18 triệu ha, nghĩa là trong vòng 9 năm, diện tích trồng lúa đã tăng thêm 9,6
triệu ha.
9


Về năng suất: Năng suất lúa bình quân trên thế giới không ổn định qua các
năm và đạt cao nhất với 4,51 tấn/ha vào năm 2012. Đến năm 2014, năng suất lúa
có giảm nhẹ và xuống còn 4,42 tấn/ha.
Về sản lượng: Sản lượng lúa thế giới cũng có nhiều biến động nhưng nhìn

chung cũng có xu hướng tăng dần từ năm 2004 ở mức 607,58 triệu tấn lên 707,48
triệu tấn vào năm 2014. Như vậy trong vòng 10 năm sản lượng lúa tăng thêm 99,9
triệu tấn.
Bảng 2.4. Tình hình sản xuất lúa gạo của các châu lục trên thế giới năm 2013
Chỉ tiêu
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
(triệu ha)
(tấn/ha)
(triệu tấn)
Khu vực
Thế giới
165,16
4,49
740,90
Châu Á
146,95
4,57
671,02
Châu Phi
10,89
2,64
28,72
Châu Mỹ
6,59
5,50
36,08
Châu Âu
0,65

6,01
3,90
Châu Đại Dương
0,12
9,99
1,17
(Nguồn: FAOSTAT, 2015)
Theo FAOSTAT (2015) năm 2013 toàn thế giới có khoảng 165,16 triệu ha
diện tích đất trồng lúa, châu Á (146,95 triệu ha) chiếm gần 89% diện tích trồng
lúa của thế giới, tiếp đến là châu Phi (10,89 triệu ha), châu Mỹ (6,59 triệu ha),
châu Âu và châu Đại Dương chiếm diện tích ít nhất.
Châu Á có sản lượng lúa gạo cao nhất thế giới (671,02 triệu tấn) nhưng
năng suất trung bình lại thấp (4,57 tấn/ha) so với các nước châu Âu (6,01
tấn/ha), châu Mỹ (5,5 tấn/ha), châu Đại Dương (9,99 tấn/ha). Do các châu lục
này có áp dụng khoa học kỹ thuật, trình độ canh tác phát triển hơn hẳn các nước
châu Á và châu Phi.

10


Bảng 2.5. Tình hình sản xuất lúa một số nước trên thế giới năm 2013
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Tên nước
(ha)
(tạ/ha)
(tấn)
Thế giới
164.721.663

45.272
745.709.788
Trung Quốc
30.557.000
52,600
205.985.229
Ấn Độ
42.500.000
35,906
152.600.000
Inđônêxia
13.443.443
51,360
69.045.141
Bănglađet
11.500.000
29,333
33.889.632
Thái Lan
12.600.000
30,000
37.800.000
Việt Nam
7.753.163
56,315
43.661.570
Philippin
4.689.760
38,449
18.032.422

Brazin
2.473.288
47,860
11.549.881
Côlômbia
473.104
41,362
1.956.856

246.500
64,200
1.582.530
Nhật
1.581.000
67,388
10.654.000
(Nguồn: FAO,2015)
Thông qua bảng 2.5 ta thấy Ấn Độ có diện tích trồng lúa lớn nhất nhưng
sản lượng không đứng đầu điều này chứng tỏ việc áp dụng nhưng tiến bộ khoa
học kỹ thuật của Ấn Độ còn nhiều hạn chế khiến năng suất và sản lượng lúa ở
đây thấp. Trung Quốc có diện tích trồng lúa ở vị trí số 2 nhưng sản lượng lại dẫn
đầu do năng suất khá cao. Nhật Bản là nước có năng suất cao nhất khẳng định
những tiến bộ vượt trội của họ trong việc vận dụng các phương pháp canh tác
công nghệ cao.
Cùng với sự phát triển của xã hội nhiều diện tích sản xuất nông nghiệp
đã chuyển đổi để đáp ứng cho nhu cầu đó. Nhưng bên cạnh đó cũng đã kéo
theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu mới của khoa học
được áp dụng vào sản xuất, từ đó đã tạo điều kiện canh tác của người nông
dân không ngừng được cải tiến, vì vậy năng suất ngày càng tăng lên. Việc
sản xuất lúa gạo không chỉ đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn

trở thành hàng hoá trao đổi trên thị trường quốc tế. Có những quốc gia sản
xuất nhiều gạo nhưng vẫn không đủ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước mà phải
còn nhập khẩu như: Indonesia, Banladesh, Phillipin… Trong khi đó Thái
Lan mặc dù năng suất bình quân chỉ đạt 29,74 tạ/ha lại đứng đầu thế giới về
lượng gạo xuất khẩu.

11


Tình hình nhìn chung của các nước có diện tích trồng lúa nhiều nhất thế
giới năm 2013. Đứng đầu vẫn là 8 nước châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Việt Nam, Philippines, Brazin. Trong đó
chỉ có 4 nước có năng suất cao hơn 50 tạ/ha là Trung Quốc, Việt Nam,
Indonexia và Ý. Mặc dù năng suất lúa ở các nước Châu Á còn thấp nhưng
do diện tích sản xuất lớn nên Châu Á vẫn là nguồn đóng góp rất quan trọng
cho sản lượng lúa trên thế giới (trên 90%). Như vậy, có thể nói Châu Á là
vựa lúa quan trọng nhất thế giới.
2.3.2. Tình hình sản xuất lúa tại Việt Nam
Việt Nam là một trong 10 nước sản xuất lúa gạo lớn nhất trên thế giới. Năm
1980 diện tích trồng lúa là 5,6 triệu ha, sản lượng là 23,5 triệu tấn. Đến năm 2007
diện tích trồng lúa là 7,30 triệu ha, năng suất đạt 36,56 triệu tấn. Việt Nam là nước
nông nghiệp , trong đó nghề trồng lúa đóng vai trò chủ đạo trong cơ cấu cây
trồng, nên lúa có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, xã hội nước ta. Việt Nam
nằm ở vùng Đông nam Châu Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thích hợp cho phát
triển cây lúa. Có nhiều đồng bằng châu thổ rộng lớn được bồi đắp thường xuyên
(đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long) cùng một loạt các châu thổ
nhỏ hẹp ở ven các dòng sông, ven biển miền Trung khác. Các đồng bằng châu thổ
đều được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa.
Năm 2005, diện tích canh tác lúa của Việt Nam có khoảng 7.329.200 ha,
đến năm 2007 giảm xuống còn 7.207.400 ha và tăng trở lại vào năm 2008 với

diện tích 7.400.200 ha do sức ép của sự gia tăng dân số và quá trình đô thị hoá
đã làm cho diện tích đất sản xuất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói
riêng bị thu hẹp nhưng đến năm 2008 diện tích trồng lúa đã tăng trở lại với diện
tích 7.400.200 ha và đến năm 2013 diện tích trồng lúa của nước ta là 7.902.808
ha. Năng suất bình quân tăng lên rõ rệt từ 48,9 tạ/ha năm 2005 đã tăng lên 56,3
tạ/ha vào năm 2012. Đến năm 2013 năng suất lúa của Việt Nam giảm nhẹ xuống
ở mức 55,7 tạ/ha.
Từ năm 2005 đến nay, sản lượng lúa gạo Việt Nam liên tục tăng trưởng nhờ
biện pháp kỹ thuật canh tác tốt, năng suất tăng và một phần nhờ mở rộng diện
tích canh tác hàng năm. Sản lượng lúa ở nước ta năm 2005 đạt 35.832.900 tấn
và đến năm 2013 đã đạt được sản lượng 44.039.291 tấn (bảng 2.6 ).

12


Bảng 2.6. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt Nam qua các năm
2005 - 2013
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

Diện tích (ha)
7.329.200,0

7.324.800,0
7.207.400,0
7.400.200,0
7.437.200,0
7.489.400,0
7.655.440,0
7.753.163,0
7.902.808,0

Năng suất (tạ/ha)
48,9
48,9
49,9
52,3
52,4
53,4
55,4
56,3
55,7

Sản lượng (tấn)
35.832.900,0
35.849.500,0
35.942.700,0
38.729.800,0
38.950.200,0
40.005.600,0
42.398.345,7
43.661.569,6
44.039.291,3


(Nguồn: FAOSTAT, 2015)
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, hàng
năm đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho ngân sách nhà nước. Trong năm 2014,
xuất khẩu gạo Việt Nam đứng thứ 3 sau Thái Lan, Ấn Độ với 6,35 triệu tấn, trị
giá 2,96 tỷ USD, giá gạo xuất khẩu trung bình của Việt Nam ở mức 436,92 đô la
Mỹ/tấn (giá FOB) tăng 2% so với năm 2013. Gạo được xuất khẩu sang 135 quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, bao gồm cả những thị trường khó tính như
Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Xinggapo... Trong đó, thị trường
Châu Á chiếm gần 77%, tăng trưởng gần 24%, thị trường Châu Mỹ chiếm trên
7,6%, tăng trưởng trên 4,6%, thị trường Châu Úc chiếm 0,88%, tăng trưởng trên
12%, thị trường Trung Đông chiếm trên 1,2%, tăng trưởng gần 33% về lượng so
với cùng kỳ năm 2013. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm truyền thống của
Việt Nam cơ bản được giữ vững và có tăng trưởng đáng kể. Theo thống kê của
Hiệp hội Lương thực Việt Nam, thị trường Philippin tăng trưởng trên 285%, thị
trường Inđônêxia tăng trưởng gần 128%, thị trường Trung Đông tăng trưởng gần
33% về lượng so với cùng kỳ năm 2013. Cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu tiếp
tục chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, gạo cấp thấp đã giảm trên 28% về
lượng, thay vào đó là tăng trưởng mạnh xuất khẩu gạo thơm đạt trên 1,52 triệu
tấn, tăng gần 35% về lượng so với cùng kỳ năm 2013 [52], [53], [57].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận nêu trên, sản xuất, xuất
khẩu gạo của Việt Nam hiện nay vẫn đang tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn,
thách thức. Nhu cầu thị trường nhập khẩu một số thị trường truyền thống không
ổn định, cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng. Một số thị trường bị sụt
13


giảm như châu Phi. Một số thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo gặp khó khăn
về tài chính, vốn cho sản xuất, kinh doanh và xây dựng vùng nguyên liệu. Bên
cạnh đó, một số vấn đề cấp thiết đặt ra cần tiếp tục quan tâm giải quyết như công

tác quy hoạch vùng sản xuất, tổ chức sản xuất lúa theo hướng sản xuất hàng hóa
lớn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình sản xuất, chế biến lúa gạo,
giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng, xây dựng thương hiệu gạo, công tác
xúc tiến thương mại, xây dựng chiến lược phát triển thị trường gạo,…[52].
Trong năm 2015, Bộ Công Thương chỉ đạo tiếp tục tăng cường theo dõi sát
diễn biến thị trường, xây dựng chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo;
tập trung củng cố các thị trường truyền thống trọng điểm; tích cực mở rộng, phát
triển các thị trường mới, thị trường tiềm năng. Tiếp tục tăng cường, đổi mới,
nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm gạo. Các
Bộ, ngành, địa phương liên quan, các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo nỗ
lực tập trung thực hiện các giải pháp thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp và
sản xuất lúa gạo, tăng cường liên kết sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu gạo để ổn định
nguồn hàng, nâng cao chất lượng, từng bước xây dựng thương hiệu gạo Việt
Nam. Bộ, ngành chức năng, địa phương cần rà soát việc thực hiện các cơ chế,
chính sách liên quan để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nhất là những
khó khăn về vốn, tín dụng, tài chính để tạo điều kiện hỗ trợ hoạt động kinh
doanh của thương nhân, thúc đẩy xuất khẩu gạo.
2.4. Tình hình sản xuất lúa tại tỉnh Thừa Thiên Huế và Hợp Tác Xã Phú
Đa, huyện Phú Vang
2.4.1. Tình hình sản xuất lúa tại tỉnh Thừa Thiên Huế
Tỉnh Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ nằm ở vị trí
địa lý: 107o31‘45‘‘ - 107o38' kinh Ðông và 16o30'‘45‘‘ - 16o24' vĩ Bắc, có diện
tích 503.320,52 ha và dân số 1.090.879 người (theo niên giám thống kê năm
2013), tuy là một cực của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung nhưng ngành
nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế. Trong đó diện tích trồng
lúa là lớn nhất.

14



Bảng 2.7. Tình hình sản xuất lúa của Thừa Thiên Huế qua các năm
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Năm
(1000 ha)
(tạ/ha)
(1000 tấn)
2000
51,341
38,300
196,606
2001
51,644
39,700
204,846
2002
51,827
40,700
210,829
2003
51,684
45,600
235,736
2004
51,316
48,000
246,490
2005
50,457

46,600
235,029
2006
50,241
50,300
252,604
2007
50,491
51,500
259,684
2008
50,846
54,000
274,813
2009
53,038
53,300
282,582
2010
53,900
55,600
299,600
2011
53,500
55,900
299,100
2012
53,700
55,700
299,000

2013
53,900
59,010
310,700
2014*
53,700
59,000
317,000
( Nguồn: Niên giám thống kê của tỉnh Thừa Thiên Huế, 2014)
Qua bảng 2.7 cho thấy: Diện tích lúa từ năm 2000 đến năm 2008 có giảm
nhưng năng suất và sản lượng vẫn tăng dần. Đó là kết quả qua 5 năm triển khai
đã giảm diện tích lúa từ 51,316 nghìn ha năm 2004 xuống còn 50,846 nghìn ha
năm 2008. Giảm diện tích canh tác lúa kém hiệu quả là một chủ trương lớn của
tỉnh, tuy nhiên sản lượng vẫn tăng, tăng từ 246,490 nghìn tấn năm 2004 lên
299,600 nghìn tấn năm 2010.
Vì trong thời gian từ năm 2000 đến năm 2010, trung tâm giống cây trồng
của tỉnh đã tích cực đưa các giống lúa mới, lúa lai vào sản xuất để thay thế các
giống lúa cũ đã thoái hoá, đồng thời chuyển giao các tiến bộ khoa học áp dụng
vào sản xuất, do đó năng suất tăng dần qua các năm, tăng từ 38,3 tạ/ha năm
2000 lên 55,600 tạ/ha năm 2010.Vào năm 2010 đến năm 2012 có sự biến động
về mặt diện tích là diện tích trồng lúa đã giảm do việc sử dụng đất nông nghiệp
vào mục đích khác và dẫn tới việc giảm sản lượng vào năm 2010 sản lượng là
299,600 nghìn tấn mà đến năm 2012 sản lượng chỉ đạt khoảng 299,000 nghìn
tấn. Tuy nhiên, năm 2014, sản lượng lúa lại tăng vọt do áp dụng được các tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất.

15


Các vùng trọng điểm sản xuất lúa của Thừa Thiên Huế như thị xã Hương

Thủy, huyện Quảng Điền, Phú Vang, cơ cấu giống lúa xoay quanh trục giống
Khang Dân và các giống TH5, NN4B, 13/2, Xi23, X21... có năng suất và sản
lượng khá cao.
Năm 2014, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã thành công trong việc đưa giống lúa
DT39, có thời gian sinh trưởng khoảng 120 ngày, vào sản xuất tại nhiều địa
phương, năng suất cá biệt có địa phương đạt 64 - 68 tạ/ha trong vụ Đông Xuân,
và đạt trên 58 tạ/ha trong vụ Hè Thu [50], nhiều giống lúa mới đưa vào sản xuất
thử cũng đạt năng suất, chất lượng khá cao trong đó một số giống nổi trội như:
XT27, HN6, DT39, HC4...
Năm 2015, tỉnh Thừa Thiên - Huế tập trung đẩy mạnh thực hiện đề án, kế
hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững, trên cơ sở
tăng giá trị sản lượng trên đơn vị diện tích. Tỉnh phấn đấu sản lượng lúa chất
lượng cao đạt 7 - 8 vạn tấn, vừa tăng hiệu quả sản xuất đồng thời tăng thu nhập
cho nông dân. Trước mắt, tỉnh tập trung cho vụ sản xuất Đông Xuân 2014 2015 đúng khung lịch thời vụ. Tỉnh phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng nông
nghiệp đạt ít nhất 2%/năm, phấn đấu chiếm tỷ trọng 5 - 6% GDP toàn tỉnh; ổn
định diện tích gieo trồng lúa trên 50.000 ha; tỷ lệ cơ giới hoá khâu làm đất, khâu
vận chuyển đạt trên 90%, khâu thu hoạch lúa đạt trên 80% [50].
2.4.2. Tình hình sản xuất lúa tại Hợp Tác Xã Vinh Thái, huyện Phú Vang
Tại Hợp Tác Xã Vinh Thái có diện tích, năng suất, sản lượng lúa của HTX
qua các năm được thể hiện ở bảng 2.8.
Từ năm 2010 đến 2015 diện tích lúa tăng giảm thường xuyên qua các năm
do luân canh cây trồng. Cùng với chiến lược sản xuất nông nghiệp đưa giống
mới và áp dụng khoa học kỹ thuật và canh tác năng suất tăng từ 53,96 tạ/ha năm
2010 đến 59,5 tạ/ha năm 2015.
Bảng 2.8. Tình hình sản xuất lúa ở Hợp Tác Xã Vinh Thái qua các năm
Diện tích
Sản lượng
Năng suất
Năm
(1000 ha)

(1000 tấn)
(Tạ/ha)
1,484
8,007
53,96
2010
1,458
8,063
55,3
2011
1,486
8,562
58,23
2002
1,471
8,667
58,9
2013
1,471
8,681
59
2014
1,471
8,755
59,5
2015*
(Nguồn: Bản báo cáo đại hội HTX NN Vinh Thái 2015)
16



2.5. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới và Việt Nam
2.5.1. Tình hình nghiên cứu lúa trên thế giới
Cùng với sự phát triển của loài người, nghề trồng lúa được hình thành và
phát triển. Trình độ thâm canh cây lúa cũng ngày một nâng cao. Các giống lúa
địa phương không ưa thâm canh, khả năng chống chịu sâu bệnh kém, năng suất
thấp dần được thay thế bằng các giống lúa mới chịu thâm canh, chống chịu sâu
bệnh tốt và thích hợp với điều kiện sinh thái tại địa phương. Vào đầu những năm
1960, Viện nghiên cứu lúa gạo Quốc tế International Rice Research Institute
(IRRI) đã được thành lập ở Philippin. Viện này đã tập trung vào lĩnh vực nghiên
cứu lai tạo và đưa ra sản xuất nhiều giống lúa các loại, tiêu biểu như các dòng
IR, Jasmin. Đặc biệt vào thập niên 80 giống IR8 được trồng phổ biến ở Việt
Nam đã đưa năng suất lúa tăng cao đáng kể. Cuộc "cách mạng xanh" từ giữa
thập niên 60 đã có ảnh hưởng tích cực đến sản lượng lúa của châu Á. Nhiều tiến
bộ kỹ thuật đã được tạo ra để nâng cao năng suất và sản lượng lúa gạo.
Các nhà nghiên cứu của viện lúa Quốc tế (IRRI) đã nhận thức rằng các
giống lúa mới thấp cây, lá đứng, tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể giải
quyết vấn đề lương thực trong phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI đang tập
trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt 13
tấn/ha/vụ, đồng thời phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và Jasmin là
giống có phẩm chất gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Trên
cơ sở một số giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu,
chọn tạo các giống lúa có hàm lượng Vitamin và Protein cao, có mùi thơm, cơm
dẻo... vừa để giải quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng được nhu cầu
đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng [41].
Nhiều nước ở châu Á có diện tích trồng lúa lớn, có kỹ thuật thâm canh tiên
tiến và có kinh nghiệm dân gian phong phú. Có đến 85% sản lượng lúa trên thế
giới phụ thuộc vào 8 nước châu Á, đó là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia,
Bangladet, Thái Lan, Việt Nam, Mianma và Nhật Bản [17].
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới (trên 1,3 tỷ người) là một
nước thiếu đói lương thực trầm trọng trong thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, vì

vậy công tác nghiên cứu, lai tạo, chọn lọc và ứng dụng các TBKHKT, nhất là
giống lúa mới vào sản xuất được đặc biệt chú trọng. Trong lịch sử phát triển lúa
lai trên thế giới, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu thế lai của
lúa vào sản xuất. Năm 1960 khi theo dõi thí nghiệm của mình, Viên Long Bình
phát hiện một cây lúa lạ khoẻ, bông to, hạt nhiều. Nhưng ông đã thất vọng vì
17


chưa tìm ra phương pháp sử dụng ưu thế lai. Sau đó ông bắt đầu tìm dòng bất
dục đực. Con đường tạo giống ưu thế lai theo phương pháp "3 dòng" được hé
mở từ đây. Năm 1964, Viên Long Bình phát hiện cây có tính bất dục đực nhưng
không giữ được tính bất dục đó bởi không có dòng duy trì mẹ. Tháng 11/1970
Lý Tất Hồ cộng tác với Viên Long Bình thu được cây bất dục đực trong loài lúa
dại ở đảo Hải Nam. Đây là thành công có tính quyết định đến việc tạo ra các tổ
hợp lai 3 dòng và 2 dòng sau này.
Vào năm 1974, Các nhà khoa học Trung Quốc đã cho ra đời những tổ hợp
lai có ưu thế lai cao, đồng thời quy trình kỹ thuật sản xuất hạt lai hệ "3 dòng"
được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975, đánh dấu bước ngoặt to lớn trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc nói riêng và trên toàn thế giới nói
chung (Giáo trình cây lương thực, 2003) [15]. Những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế
kỷ 21 Trung Quốc tập trung vào việc lai tạo các giống lúa lai 2 dòng và đang
hướng tới tạo ra các giống lúa lai 1 dòng siêu cao sản (siêu lúa) có thể đạt năng
suất 18 tấn/ha/vụ. Về chiến lược phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ 21
là phát triển lúa lai hai dòng và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai một dòng, lúa lai siêu
cao sản nhằm nâng cao năng suất, sản lượng lúa gạo của đất nước.
Lúa lai ra đời đã giúp nền sản xuất lúa Trung Quốc phá được hiện tượng
"đội trần" của năng suất lúa lúc bấy giờ và lúa lai được coi là thành tựu sinh học
của loài người, được xem là "chàng hiệp sỹ khổng lồ đứng lên tiêu diệt giặc đói
đang đe dọa hành tinh chúng ta" [17]. Có thể nói rằng Trung Quốc là nước đi
tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng lúa lai đưa lúa lai vào sản xuất

đại trà. Nhờ đó đã làm tăng năng suất và sản lượng lúa gạo của Trung Quốc, góp
phần đảm bảo an ninh lương thực cho một nước đông dân nhất thế giới (1,3 tỷ
dân). Các giống lúa lai của Trung Quốc được tạo ra trong thời gian gần đây đều
có tính ưu việt hơn hẳn về năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu sâu,
bệnh. Các giống lúa lai như: Bồi Tạp Sơn Thanh, Nhị ưu 838, San Ưu Quế, Bắc
Thơm, CV1, D.Ưu 527... Ngày nay, Trung Quốc đã hình thành hệ thống nghiên
cứu lúa lai đến tận các tỉnh, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu và kỹ thuật viên
đông, xây dựng hệ thống sản xuất, kiểm tra, kiểm nghiệm, khảo nghiệm và chỉ
đạo thâm canh lúa lai thương phẩm.
Ấn Độ là một nước có diện tích trồng lúa đứng đầu thế giới đồng thời Ấn
Độ cũng là nước đi đầu trong cuộc "cách mạng xanh" về đưa các thiết bị khoa
học kỹ thuật nhất là giống mới vào sản xuất, làm nâng cao năng suất và sản
lượng lúa gạo của Ấn Độ. Viện nghiên cứu giống lúa trung ương của Ấn Độ
được thành lập vào năm 1946 tại Cuttuck bang Orisa là nơi tập trung nghiên
18


cứu, lai tạo các giống lúa mới phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó Ấn Độ cũng là
nước có giống lúa chất lượng cao nổi tiếng trên thế giới như giống lúa: Basmati,
Brimphun có giá trị rất cao trên thị trường tiêu thụ. Ấn Độ cũng là nước nghiên
cứu lúa lai khá sớm và đã đạt được một số thành công nhất định, một số tổ hợp
lai được sử dụng rộng rãi như: IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46,
PMS8A/IR46, ORI 161, ORI 136, 2RI 158, 3RI 160, 3RI 086, PA- 103... [21].
Nhật Bản và Hàn Quốc là nơi có diện tích trồng lúa ít nhưng năng suất bình
quân cao. Tuy có diện tích không lớn song sản lượng năm 2005 đạt trên 11,4
triệu tấn. Có được kết quả đó là do người Nhật chỉ trồng lúa 1 vụ/năm, cây lúa
được gieo trồng trong điều kiện thời tiết thuận lợi nhất, công tác giống lúa của
Nhật cũng được đặc biệt chú trọng về giống chất lượng cao vì người Nhật giàu
có, nên nhu cầu đòi hỏi lúa gạo chất lượng cao.
Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, Nhật Bản đã tập trung vào công tác

nghiên cứu giống lúa ở các Viện. Các nhà khoa học Nhật Bản đã lai tạo và đưa vào
sản xuất các giống lúa vừa có năng suất cao, chất lượng tốt như Koshihikari,
Sasanisiki, Koenshu... đặc biệt ở Nhật đã lai tạo được 2 giống lúa có mùi thơm đặc
biệt, chất lượng gạo ngon và năng suất cao như giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho
đến giờ các giống này vẫn giữ được vị trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là
hàm lượng Protein cao tới 13%, hàm lượng Lysin cũng rất cao [11].
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới. Với những ưu đãi của
thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù năng suất và
sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng đến việc chọn tạo
giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa của Thái Lan được
thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này có nhiệm vụ tiến hành
chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho nhu cầu sản xuất của người
dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật
của các giống lúa mà các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt
gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát, có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn
là năng suất, điều này cho chúng ta thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan
bao giờ cũng cao hơn của Việt Nam [8]. Một số giống lúa chất lượng cao nổi
tiếng thế giới của Thái Lan là: Khaodomali, Jasmin (Hương nhài). Sản xuất nông
nghiệp của Thái Lan trong mấy thập kỷ qua phát triển tương đối ổn định và Thái
Lan cũng như nhiều nước Đông Nam Á khác trong buổi đầu phát triển kinh tế Tư
Bản chủ nghĩa, đều xuất phát từ thế mạnh nông nghiệp.
Indonesia là nước có diện tích trồng lúa khá lớn trong tốp 10 nước đứng

19


đầu thế giới. Đây cũng là nước có nhiều giống lúa chất lượng cao cơm dẻo, có
mùi thơm, hầu hết các giống ở Indonesia có nguồn gốc bản địa hoặc được lai tạo
ở các cơ sở nghiên cứu. Trong thời gian gần đây Indonesia nhận định có khả
năng đối mặt với khủng hoảng lương thực trong mười năm tới nên đã khởi động

chương trình "hồi sinh ngành nông nghiệp".
Ở khu vực Đông Á còn có một số nước cũng có diện tích trồng lúa đáng kể
đó là: Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên, Đài Loan. Các nước này chủ yếu sử dụng
giống lúa thuộc loại hình Japonica, hạt gạo tròn, cơm dẻo phù hợp với thị hiếu
tiêu dùng của người dân khu vực này. Các giống lúa nổi tiếng của khu vực này
là Ton gil (Hàn Quốc), Tai chung 1, Tai chung 2, Gang chan gi, Đee-Geo-WôGen (Đài Loan)… đặc biệt giống Đee-Geo-Wô-Gen là một vật liệu khởi đầu để
tạo ra giống lúa IR8 nổi tiếng một thời.
Công tác cải tiến giống lúa trên thế giới bắt đầu phát triển từ đầu thế kỷ 20,
chủ yếu dựa trên việc chọn lọc dòng thuần và chọn lọc hỗn hợp từ các giống lúa
đang được trồng phổ biến. Các nhà chọn giống Indonesia, điển hình là H.
Siregar, có lẽ là những người đầu tiên đã thực hiện việc chọn lọc từ các vật liệu
lai phổ biến ở trạm thí nghiệm trung tâm tại Bogor và dần dần thay thế cơ cấu
giống lúa thích nghi với các điều kiện đất đai, khí hậu trên toàn đảo Java. Ở Ấn
Độ, công cuộc cải tiến giống lúa bắt đầu từ năm 1911 ở Đông Bengal (bây giờ là
Bangladesh). Năm 1929, Hội đồng Hoàng gia về nghiên cứu nông nghiệp
(Imperial Council of Agricultural Research = ICAR) đã hỗ trợ cho các chương
trình chọn tạo giống lúa nhiều tiểu bang. Kết quả là xác định được nhiều giống
lúa làm nền tảng cho việc lai tạo, cải thiện và phát triển các giống lúa năng suất
cao và ổn định, kháng được một số sâu bệnh chính. Điển hình như các giống lúa
được sử dụng hết sức rộng rải trong chương trình lai tạo giống lúa quốc gia và
quốc tế như:
− Năng suất cao: Latisail, T141, T90, GEB24.
− Kháng sâu bệnh: TKM6, Ptb18, Ptb21, Ptb33, Eswarkora.
− Chịu hạn: N22, Dular.
− Chịu mặn và kiềm: Pokkli, SR26B.
− Chịu ngập: FR13A, FR 43B.
Tại Miến Điện, một quốc gia xuất khẩu gạo có truyền thống, 19 giống lúa
đã được phóng thích vào đầu thế kỷ 20 ở vùng Nam và 8 giống lúa ở vùng Bắc
Miến Điện, với mục tiêu năng suất và chất lượng cao.
20



Ở Sri Lanka, tổ hợp lai đầu tiên giữa Murungakayan 302 và Mas (từ
Indonesia), đã cho ra 2 giống H-4 (gạo đỏ) và H-5 (gạo trắng). Trong đó, H-5 là
giống lúa chịu phân bón cao và kháng bệnh cháy lá.
Ở Indonesia, các giống lúa cổ truyền được chọn lọc và trồng phổ biến thuộc
2 nhóm: Tjereh (Indica) và bulu (javanica).
Tại Thái Lan, việc chọn lọc các giống lúa có gạo thon dài, ngon cơm đã
được thực hiện từ lâu. Đến cuối thập niên 1950, một chương trình chọn tạo
giống lúa qui mô đã được tiến hành để chọn giống lúa kháng bệnh cháy lá
(Blast), đồng thời 5 giống lúa nổi cần cho miền Bắc, Đông Bắc và đồng bằng
miền Trung đã được phóng thích.
Ở Nhật, năng suất lúa đã tăng từ 3,7 tấn/ha năm 1916, lên đến 5 tấn/ha năm
1966, nhờ các nỗ lực rất lớn trong công tác lai tạo được bắt đầu trên qui mô lớn
từ năm 1927, cho 12 vùng sinh thái khác nhau theo hướng năng suất cao, chịu
phân, kháng sâu bệnh, chịu lạnh, gạo ngon và thích nghi rộng với điều kiện môi
trường.
Tháng 5/1926, tại Hội nghị về sản xuất lúa Nhật Bản được tổ chức ở Đài
Bắc (Đài Loan), các giống lúa Nhật được du nhập vào Đài Loan dưới thời Nhật
chiếm đóng được đặt tên lúa Bồng Lai (ponlai), nghĩa là lúa trời từ chữ Horai
trong tiếng Nhật. Sau đó, người ta thực hiện các chương trình lai tạo với mục
tiêu năng suất và sản lượng cao, thời gian sinh trưởng ngắn. Taichung 65 là
giống lúa Bồng Lai cải tiến, có triển vọng nhất trong thời kỳ trước thế chiến lần
thứ hai. Các giống lúa này đã tạo điều kiện thâm canh tăng vụ ở Đài Loan. Các
giống lúa Bồng lai không cảm ứng nhiệt và quang kỳ, cũng đã cho năng suất kỷ
lục ở Tây Phi và Ấn Độ.
Tại Mỹ, các nghiên cứu hợp tác về chọn tạo giống lúa đã bắt đầu năm 1909
với việc hình thành Trạm nghiên cứu Crowley ở Tiểu bang Louisiana. Nỗ lực tập
trung chọn lọc các giống lúa có thời gian sinh trưởng và dạng hạt khác nhau từ tròn,
trung bình đến dài. Một số giống đã được phát triển từ chương trình như: Colusa

(năm 1917, hạt tròn), Zenith (1936, hạt trung bình) và Rexoro (1928, hạt dài).
Riêng khái niệm về một chương trình lai tạo giữa indica x japonica đã được
bắt đầu ở Mỹ từ cuối thập niên 1930 và đầu những năm 1940, coi như là một
bước chuyển tiếp giữa chương trình cải tiến giống cổ điển và hiện đại. Năm
1951, theo đề nghị của Tiểu ban nghiên cứu lúa quốc tế và sự hỗ trợ của Tổ chức
Lương Nông thế giới (FAO), một chương trình lai giống indica x japonica đa
quốc gia đầu tiên được thực hiện. Tất cả các quốc gia Á Châu tham gia chương
21


trình bằng cách gởi hạt giống indica tốt nhất đến Viện nghiên cứu lúa Trung tâm
(CRRI) ở Cuttack, Ấn Độ, để lai với các giống japonica. Hạt giống F2 của các tổ
hợp lai được gởi trở lại cho các quốc gia thành viên để chọn lọc.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng thật sự trong ngành trồng lúa trên khắp Châu
Á, là sự phát triển các giống lúa thấp cây năng suất cao. Một trong những sự
kiện có ý nghĩa trong lịch sử cải tiến giống lúa là sự ra đời của giống lúa indica
thấp cây Taichung Native 1 (TN1). Giống này được chọn từ tổ hợp lai giữa Deegeo-woo-gen và Tsai-yuan-chung được thực hiện năm 1949 tại Trạm Cải tiến
Nông Nghiệp huyện Taichung, Đài Loan. Năm 1962, trong số 38 tổ hợp lai được
thực hiện ở IRRI (Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc tế ở Philippines), tổ hợp thành
công nhất là tổ hợp thứ 8 với dòng lai triển vọng được xác định ngay ở thế hệ
F4: IR8-288-3. Đây là con lai của giống Peta, một giống lúa indica kháng bệnh,
cao cây, nở bụi mạnh của Indonesia, và giống Dee-geo-woo-gen, một giống lúa
thấp cây trồng ở Đài Loan trước năm 1951. Nó cho năng suất vượt cả giống
TN1, một số giống lúa indica được xem là có năng suất cao nhất thời bấy giờ.
Dựa trên khả năng cho năng suất cao và tính thích nghi rộng rãi của nó ở các
vùng có tưới, IRRI đã đặt tên cho IR8-288-3 là IR8 vào tháng 11 năm 1966 và
phóng thích cho sản xuất đại trà. Có thể nói IR8 đã tô đậm nét cuộc cách mạng
xanh trên thế giới trên lĩnh vực sản xuất lương thực bên cạnh các thành công của
việc chọn tạo và phát triển thành công các giống lúa mì năng suất cao [48].
Ngoài châu Á, thì ở Mỹ, trong thời gian gần đây các nhà khoa học không

chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai tạo và đưa ra những giống lúa có năng suất
cao, ưa thâm canh và ổn định, mà còn nghiên cứu tỷ lệ protein trong gạo, phù
hợp với thị trường hiện nay.
Ngoài ra, trên thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu
các giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao, phẩm
chất tốt, có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh.
2.5.2. Tình hình nghiên cứu lúa ở Việt Nam và Thừa Thiên Huế.
2.5.2.1. Tình hình nghiên cứu lúa ở Việt Nam
Người dân Việt Nam vốn cần cù chịu khó ham học hỏi. Chính vì thế trong
quá trình sản xuất cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiêm, trong việc sử dụng
thuần hóa nâng cao năng suất chất lượng của các giống địa phương. Ngoài ra các
nhà khoa học cũng không ngừng học hỏi nâng cao tay nghề trong công tác chọn
tạo giống, đồng thời kết hợp với các tổ chức quốc tế nghiên cứu nhiều loại giống.
Trước năm 1954, người dân Việt Nam đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm
22


trong sản xuất và đã sử dụng các giống lúa địa phương, tuy năng suất không cao
song chất lượng tốt, thích ứng với điều kiện đất đai khí hậu của Việt Nam đồng thời
có khả năng chống chịu tốt với sâu, bệnh. Nhiều giống lúa được lưu truyền trong
sản xuất từ đời này sang đời khác như giống: Chiêm Tép, Chiêm Sài Đường,
Chiêm cút... các giống gieo cấy vụ Mùa như: Lúa Di, lúa Tám Soan, lúa Dự... [14].
Từ sau ngày hoà bình lập lại (1954), miền Bắc nước ta bước vào công cuộc
xây dựng và tái thiết đất nước. Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng tới
việc phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng, với mục
đích nhanh chóng đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh trở thành một đất nước có nền công nghiệp phát triển. Tuy
nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau kinh tế của đất nước ta vẫn rơi vào tình
trạng khủng hoảng. Đất nước vẫn không thể chuyển mình và nông nghiệp vẫn
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Trước thực trạng đó Đảng và nhà nước ta

đã có những nhìn nhận đúng đắn, thẳng thắn về đường lối chính sách và vai trò
của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Đảng và nhà nước ta quan
tâm đó là tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp.
Các nhà nông học đã nhập nội, thử nghiệm sản xuất nhiều giống lúa ngắn
ngày của Trung Quốc, làm tiền đề cho sự ra đời của vụ lúa Xuân gieo cấy bằng
các giống Chân Trâu Lùn, Trà Trung Tử... [7].
Khi Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta được thống nhất, cả
nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975), chúng ta đã tập trung nhiều vào
nghiên cứu cây lúa, trong đó công tác chọn tạo và lai tạo các giống lúa được đặc
biệt chú trọng. Nhờ các thành tựu trong nghiên cứu và áp dụng các TBKHKT,
năng suất lúa của Việt Nam không ngừng tăng. Chúng ta cũng đã nhập nội một
số giống lúa từ Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và của một số nước khác
làm phong phú bộ giống lúa của Việt Nam.
Nhận rõ tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
lúa gạo nói riêng, cho nên từ đại hội Đảng lần thứ VI và các kỳ đại hội tiếp theo,
ngành nông nghiệp đã được Đảng, nhà nước quan tâm thúc đẩy đúng mức.
Trong một thời gian không lâu đất nước đang từ một quốc gia nhập khẩu lương
thực, người nông dân làm ra sản phẩm lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp
khác song quanh năm vẫn chịu cảnh thiếu đói lương thực, nay đã trở thành một
quốc gia xuất khẩu lúa gạo đứng thứ 2 trên thế giới, song một vấn đề đặt ra đó là
số lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá bán không cao do chất lượng gạo của Việt
Nam còn kém so với các nước khác như Thái Lan chẳng hạn. Vì thế chiến lược

23


sản xuất lúa gạo của Việt Nam trong những năm tới và các thập niên tiếp theo là:
Phấn đấu đạt và duy trì sản lượng lúa hằng năm ở mức gần 40 triệu tấn/năm như
hiện nay, đồng thời đưa vào gieo cấy khoảng 1 triệu ha lúa chất lượng cao để
phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất lượng

cao nhằm đem lại hiệu quả kinh tế.
Với điều kiện thời tiết, khí hậu địa lý thuận lợi cho việc trồng lúa, Việt
Nam được coi như là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Phát huy những lợi thế
đó trong những năm qua thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, từ nghị quyết
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đến nay nền nông nghiệp nước ta được Đảng
và nhà nước đặc biệt quan tâm, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và đã được
đầu tư đúng mức nên năng suất và sản lượng lúa gạo Việt Nam không ngừng
được nâng cao.
Để có được một ngành nông nghiệp như ngày nay, đã có nhiều thế hệ nhà
khoa học đóng góp công sức, trí tuệ để nghiên cứu ra các công trình khoa học
nông nghiệp có giá trị, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước từ những năm trước
giải phóng cho tới nay, sau thành công về sản lượng lúa chúng ta cần có một
cách nhìn toàn diện hơn về sản xuất lúa gạo của Việt Nam trong đó vấn đề chất
lượng của lúa gạo cần đặc biệt quan tâm.
Việt Nam có hàng nghìn giống lúa được gieo trồng trong cả nước, có nhiều
bộ giống tốt phù hợp với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Một số giống lúa chất
lượng cao như giống Tám thơm, lúa Dự, Nàng thơm, Nếp Cái Hoa Vàng, Nếp
Cẩm, Nếp Tú lệ, các giống Nếp Nương, Tẻ Nương... đã được đưa vào cơ cấu
gieo cấy ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Chúng ta đã nhập và thuần hoá nhiều
giống lúa tốt từ nước ngoài mà nay đã trở thành các giống lúa đặc sản của Việt
Nam có thương hiệu như: IR64 Điện Biên, Bao Thai Định Hoá, Khaodômaly
Tiền Giang.
2.5.2.2. Tình hình nghiên cứu lúa ở Thừa Thiên Huế.
Để đạt được năng suất ngày càng cao hơn nữa, ngoài các biện pháp kỹ
thuật thâm canh cho cây lúa, việc sử dụng các giống lúa mới có năng suất cao,
chất lượng tốt, thích nghi tốt với điều kiện ngoại cảnh bất lợi nhằm thay thế các
giống cũ đã bị thoái hóa, nhiễm sâu bệnh là con đường tất yếu. Để đạt được điều
đó, công tác nghiên cứu, khảo nghiệm các tập đoàn giống mới đã được các nhà
khoa học, cơ quan nghiên cứu, chuyển giao trên địa bàn tỉnh được thực hiện
hàng năm.


24


TS. Trương Thị Bích Phượng – Trường Đại học Khoa học Huế (2004,
2006) đã chọn tạo ra 3 dòng LH1, LH2, LH3 chịu hạn từ giống 212 bằng
phương pháp nuôi cấy callus và đã phân lập gen chống chịu hạn từ 3 dòng lúa
này thích nghi với điều kiện stress nước chọn lọc trong nuôi cấy invitro [16],
[17]. PGS.TS. Trần Thị Lệ - Trường Đại học Nông Lâm Huế (2007) áp dụng
phương pháp đột biến và phương pháp lai để tạo vật liệu khởi đầu, từ đó chọn
lọc ra các giống lúa C73 và C105 có năng suất cao, chống chịu tốt, phẩm chất
tốt [27].
2.6. Yêu cầu nước và dinh dưỡng của cây lúa trong các thời kỳ sinh trưởng
2.6.1. Yêu cầu nước của cây lúa trong các thời kỳ sinh trưởng
Lúa yêu cầu nhiều nước hơn các loại cây trồng khác. Theo Goutchin để tạo
ra một đơn vị thân lá, lúa cần 400 – 450 đơn vị nước, để tạo ra một đơn vị hạt
lúa cần 300 – 350 đơn vị nước. Để tạo ra một gam chất khô cây lúa cần 628 gam
nước trong khi cây ngô chỉ cần 349 gam nước [13].
Thời kỳ mạ: Giai đoạn nảy mầm, rễ phát triển được là nhờ vào chất dinh
dưỡng phân giải từ phôi nhũ, ở giai đoạn này cần giữ đủ ẩm, tránh để ruộng
ngập trong thời gian dài, nhưng cũng không để khô hạn, giúp hạt thóc, mầm, rễ
mạ có đủ nước, đủ oxy để hạt phân giải từ từ, cung cấp chất dinh dưỡng cho
mầm rễ phát triển.
Khi mạ chuyển sang giai đoạn sống nhờ dinh dưỡng hút từ đất thì căn cứ
vào sự sinh trưởng của mạ để có chế độ nước hợp lý. Nếu mạ quá xấu vàng, còi
cọc thì giữ ấm. Nếu mạ quá tốt thì rút cạn nước, phơi khô ruộng.
Thời kỳ cấy – đẻ nhánh: Đây là thời kỳ quyết định số bông trên một đơn vị
diện tích. Mức ngập khác nhau trong thời kỳ này có ảnh hưởng đến quá trình đẻ
nhánh. Kết quả nghiên cứu của trường Đại học Nông nghiệp I cho thấy: Mức
nước tốt nhất trong thời kỳ này cho lúa đẻ nhánh hữu hiệu cao là 5 – 10cm.

Không có lớp nước hoặc nước ngập quá sâu đều làm hạn chế đẻ nhánh và số
nhánh hữu hiệu.
Thời kỳ cuối đẻ nhánh đến phân hóa đòng: Trong những năm gần đây, ở
Trung Quốc, Nhật Bản và nước ta, một số tác giả chú ý đến vấn đề sử dụng nước
để điều khiển sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Các tác giả cho rằng việc rút
nước phơi ruộng giai đoạn cuối đẻ nhánh và trước phân hóa đòng lúa sẽ không
đổ và cho năng suất cao hơn [13].
2.6.2. Yêu cầu dinh dưỡng của cây lúa trong các thời kỳ sinh trưởng
Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa hay nói cách khác là các chất dinh dưỡng
cần thiết, không thể thiếu được đối với sự sinh trưởng và phát triển cây lúa bao
gồm: Đạm (N), lân (P), kali (K), vôi, sắt, kẽm, đồng, magiê, mangan, mô-lípđen, bo, silic, lưu huỳnh vá cacbon, ô-xy, hiđrô. Tất cả các chất trên đây (trừ
25


×