Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Nghiên cứu kĩ thuật gieo ươm các xuất xứ thanh hóa và phú yên của loài sâm bố chính (abelmoschus sagittifolius (kurz) merr ) tại thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.76 MB, 80 trang )

PHẦN TÓM TẮT
Sâm bố chính (SBC) là loài cây dược liệu quý, mọc hoang dại, điều kiện sinh
thái thích hợp của loài này thường là nơi nhiều ánh sáng, cây thích nghi với nhiều
loại đất như mùn, đất pha cát, đất phù sa ven sông... sinh trưởng và phát triển mạnh
trọng mùa mưa ẩm. Cây thường được người dân khai thác sử dụng như một loài
Nhân Sâm Việt Nam và ít được chú ý phát triển gây trồng. Sâm bố chính có nhiều
xuất xứ khác nhau tương ứng với các đặc điểm hình thái khác nhau.
Đề tài “Nghiên cứu kĩ thuật gieo ươm các xuất xứ Thanh Hóa và Phú
Yên của loài Sâm bố chính (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr.) tại
Thừa Thiên Huế” nhằm đưa ra các thông số kĩ thuật trong nhân giống bằng hạt
của 2 xuất xứ của loài SBC & thử nghiệm gây trồng trong điều kiện gieo ươm
làm cơ sở đề xuất giải pháp nhân giống & gây trồng loài cây này phục vụ cho
hoạt động phát triển mô hình trồng cây dược liệu có giá trị kinh tế cao.
Đề tài sử dụng phương pháp bố trí thí nghiệm: (1) Thí nghiệm đánh giá
ảnh hưởng nhiệt độ & thời gian đến tỷ lệ nảy mầm trong quá trình xử lý hạt
giống SBC cả hai xuất xứ: Bố trí 6 công thức, mỗi công thức sử dụng 100 hạt,
ngâm ở các mức thời gian là 12h, 24h với các mức nhiệt độ: nhiệt độ phòng, 2
sôi 3 lạnh và 3 sôi 2 lạnh. (2) Thí nghiệm ảnh hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu
đến quá trình sinh trưởng & phát triển của cây SBC xuất xứ Thanh Hóa: Sử
dụng Hỗn hợp [3 ĐPS – 0 Cát – 1 Trấu], Hỗn hợp [3 ĐPS – 1 Cát – 0 Trấu],
Hỗn hợp [2 ĐPS – 1 Cát – 1 Trấu] và Hỗn hợp [1 ĐPS – 2 Cát - 1 Trấu]. (3)
Thí nghiệm ảnh hưởng độ che bóng đến quá trình sinh trưởng & phát triển của
cây SBC xuất xứ Thanh Hóa: Sử dụng các mức ĐCB: 0%, 25%, 50%. (4) Thí
nghiệm ảnh hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu đến quá trình sinh trưởng & phát
triển của cây SBC xuất xứ Phú Yên: Sử dụng Hỗn hợp [60% ĐPS, 20% Xơ dừa,
0% Cát, 10% PC, 9% PVS, 1% Lân], Hỗn hợp [40% ĐPS, 20% Xơ dừa, 20%
Cát, 10% PC,9% PVS, 1% Lân], Hỗn hợp [20% ĐPS, 40% Xơ dừa, 20% Cát,
10% PC, 9% PVS, 1% Lân] và Hỗn hợp [60% ĐPS, 20% Cát, 10% PC, 9%
PVS, 1% Lân]. (5) Thí nghiệm ảnh hưởng độ che bóng đến quá trình sinh
trưởng & phát triển của cây SBC xuất xứ Phú Yên: Sử dụng các mức ĐCB: 0%,
25%, 50%.


Các thí nghiệm (2), (3), (4), (5) là các thí nghiệm một nhân tố được bố trí
theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, sử dụng 3 lần lặp cho mỗi công thức thí
nghiệm, 35-40 cây cho mỗi lần lặp. Thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm
Excel và SPSS.
1


Kết luận: (1) SBC ở các xuất xứ khác nhau có đặc điểm hình thái khác
nhau. (2) Tỷ lệ nảy mầm của hạt giống SBC cao nhất khi ngâm hạt trong 24
tiếng đồng hồ với tỷ lệ 3 sôi 2 lạnh. (3) Ảnh hưởng của độ che bóng đến tỉ lệ
sống của SBC Phú Yên cao hơn rất nhiều so với SBC Thanh Hóa. (4) SBC
Thanh Hóa được trồng trong hỗn hợp [3 Đất phù sa : 0 Cát : 1 Trấu] cho kết quả
về tăng trưởng chiều cao và số lá tốt nhất. (5) SBC Phú Yên được trồng trong
hỗn hợp [40% ĐPS, 20% Xơ dừa, 20% Cát, 10% PC,9% PVS, 1% Lân] cho kết
quả về tăng trưởng chiều cao và số lá tốt nhất. (6) SBC Thanh Hóa được trồng ở
mức che bóng 25% cho độ tăng trưởng chiều cao và số lá lớn nhất. (7) SBC Phú
Yên được trồng ở mức che bóng 50% cho độ tăng trưởng chiều cao tốt nhất và
che bóng 0% cho độ tăng trưởng về số lá tốt nhất. (8) SBC Thanh Hóa được
trồng trong hỗn hợp [3 ĐPS – 1 Cát – 0 Trấu] là loại giá thể cho sinh khối tươi
và khô dưới mặt đất cao hơn hẳn so với các loại giá thể thí nghiệm khác và độ
che bóng 50% cho sinh khối tươi và khô dưới mặt đất cao hơn so với độ che
bóng 0% và 25%.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu các phương pháp xử lý hạt
giống khác để tăng tỷ lệ nảy mầm của hạt. Tiếp tục sưu tập thêm các xuất xứ
Sâm bố chính khác, định danh phân loại, lưu giữ các xuất xứ Sâm bố chính.
Định hướng cho các nghiên cứu trên quy mô đồng ruộng, khảo sát tính thích
nghi của cây Sâm bố chính tại Thừa Thiên Huế và phát triển thị trường trong
tương lai.

2



PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Với điều kiện thiên nhiên nhiều ưu đãi, Việt Nam có một hệ sinh thái
phong phú và đa dạng, có tiềm năng to lớn về tài nguyên cây thuốc. Đây cũng là
điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn dược liệu, cung cấp nguyên liệu cho sản
xuất thuốc trong và ngoài nước. Tổng sản lượng dược liệu trồng ở Việt Nam ước
tính đạt khoảng 100.000 tấn/năm.Với sự đa dạng về khí hậu và thổ nhưỡng - đất
đai, ngay từ cuối những năm của thập kỷ 60-80 ở Việt Nam đã hình thành những
vùng trồng, sản xuất cây dược liệu có tính chuyên canh. Tuy nhiên, cho đến nay,
theo Bộ Y Tế, nguồn dược liệu nước ta vẫn phải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn
nguyên liệu nhập khẩu mà chưa phát huy được hết những tiềm năng thảo dược
tự nhiên, việc phát triển nguồn dược liệu trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ
nhiều hạn chế.
Sâm bố chính có tên gọi khác là nhân sâm Phú yên, Sâm báo chính, tên
khoa học Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr., họ bông (Malvaceae), loài này
được miêu tả đầu tiên năm 1924. Theo Võ Văn Chi (2012) và Đỗ Tất Lợi
(1999), toàn bộ phần rễ củ Sâm Báo được phơi hoặc sấy khô và có giá trị làm
thuốc. Sâm Báo có vị ngọt nhạt, có chất nhầy, tính bình, có tác dụng bổ mát,
nhuận phế, dưỡng tâm, sinh tân dịch, sao với gạo thì tính ấm bổ tỳ vị, giúp tiêu
hóa, tăng thêm sức dẻo dai. Ở Trung Quốc, người ta xem rễ, lá như có tác dụng
trừ âm thanh nhiệt. Sâm bố chính phối hợp với các vị thuốc khác để chữa các
chứng ho, sốt nóng, trong người khô, táo, khát nước, gầy còm. Tác dụng dược lý
của cây Sâm bố chính là tăng cường thể lực, hạ đường huyết và bảo vệ dạ dày.
Tuy nhiên hiện nay, loại sâm này đang bị thu hái quá mức và chất lượng
không đảm bảo. Để góp thêm những hiểu biết khoa học loài thực vật quý hiếm,
đặc hữu này thì việc nghiên cứu về kĩ thuật gieo ươm của cây Bố chính sâm là
rất cần thiết. Điều kiện sinh thái thích hợp của loài này thường là nơi nhiều ánh
sáng, cây thích nghi với nhiều loại đất như mùn, đất pha cát, đất phù sa ven

sông… sinh trưởng và phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm (Viện Dược liệu,
2013) [26]. Vấn đề đặt ra là liệu các xuất xứ khác nhau của loài Bố chính sâm
có thể sinh trưởng, phát triển tốt và cho sản phẩm rễ củ có năng suất và chất
lượng tốt trên các địa bàn có điều kiện sinh thái tương tự tại một số địa phương
ở Thừa Thiên Huế được hay không.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên, chúng tôi thực hiện đề tài:
1


“Nghiên cứu kĩ thuật gieo ươm các xuất xứ Thanh Hóa và Phú Yên của loài
Sâm bố chính (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr.) tại Thừa Thiên
Huế” nhằm đưa ra được những thông số kĩ thuật về gieo ươm và chăm sóc cây
con hai phân loài của cây.

2


PHẦN II
TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình nghiên cứu về cây Nhân sâm Phú Yên ở trên thế giới và Việt Nam
2.1.1. Những nghiên cứu về phân loại và phân bố trên thế giới
Theo “The plant list” (2010), cho thấy chi Vông vang (Abelmoschus)
thuộc họ Bông (Malvaceae) có khoảng 87 loài khác nhau. Trong đó, có 10 loài
được định danh tên khoa học là các loài Vông nem
(Abelmoschus angulosus Wall. ex Wight & Arn.), Abelmoschus crinitus Wall.),
(Abelmoschus ficulneus (L.) Wight & Arn.), (Abelmoschus hostilis (Wall. ex
Mast.) M.S.Khan & M.S.Hussain), (Abelmoschus magnificus Wall.),
(Abelmoschus manihot (L.)
Medik.),
(Abelmoschus moschatus Medik.),

(Abelmoschus muliensis K.M.Feng), Đậu bắp (Abelmoschus esculentus (L.)
Moench), Sâm bố chính (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr.) [31].
Dựa vào các đặc điểm khác nhau về hình thái lá, màu sắc, kích thước, cách
sắp xếp cánh hoa để phân loại thành các loài. Bên cạnh đó, cũng có khoảng 18
thứ thuộc chi Abelmoschus hoặc tên đồng nghĩa với 10 loài nói trên. Trong đó,
loài Sâm bố chính (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) được biết đến là loài đặc
hữu của Việt Nam, có giá trị cao về dược liệu và đặc điểm phân bố, sinh thái.
Theo “The Catalogue of Life” (2014) xác định 8 loài thuộc hai chi Vông vang
và Râm bụt đều có tên đồng nghĩa với loài Sâm bố chính (Abelmoschus
sagittifolius (Kurz) Merr.). Các loài Vông vang (Abelmoschus coccineus S.Y.
Hu,
Abelmoschus
coccineus var. acerifolius S.Y.
Hu,
Abelmoschus
esquirolii (H. Lév.) S.Y. Hu, Abelmoschus moschatus subsp. tuberosus (Span.)
Borss. Waalk.), các loài Râm bụt (Hibiscus bellicosus H. Lév., Hibiscus
bodinieri var. brevicalyculata H. Lév., Hibiscus esquirolii H. Lév., Hibiscus
longifolius var. tuberosus Span.,
Hibiscus
sagittifolius Kurz,
Hibiscus
sagittifolius var. septentrionalis Gagnep.) [30].
Các loài trong chi Abelmoschus phân bố hầu hết các nước trên thế giới.
Trong đó, có loài Bố chính sâm (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr.) thấy
phân bố ở khu vực châu Á và Đông Nam Á phân bố ở Trung Quốc (Guangdong,
Guangxi, Guizhou, Hainan, Yunnan), Campuchia, Ấn độ, Lào, Malaysia,
Myanmar [Burma], Thái Lan và Việt Nam [30].

3



2.1.2. Những nghiên cứu về cây Nhân sâm Phú Yên (Sâm bố chính) ở Việt Nam
2.1.2.1. Tên gọi và phân loại ở Việt Nam
Hiện tại cây Sâm bố chính có nhiều tên gọi khác nhau về tiếng phổ thông
và cả danh pháp khoa học. Tên gọi Sâm bố chính thường được sử dụng cho xuất
xứ ở Quảng Bình, từ “bố chính” có nguồn gốc từ địa danh Bố Chính ( 布 政 ),
trước là một châu của Chiêm Thành, năm 1069 sau trận chiến với Đại Việt, vua
Chăm là Chế Củ bị Lý Thánh Tông bắt đem về Thăng Long. Để được tha về
nước, vua Chế Củ đã dâng 3 châu phía bắc Chăm Pa cho Đại Việt mà Bố Chính
là một trong 3 châu đó. Bố Chính bao gồm các huyện Quảng Trạch, Tuyên
Hóa, Bố Trạch, Minh Hóa thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay [34]. Ngoài ra, cây
còn có nhiều tên gọi khác là: “Bụp sâm” một loại bụp tốt như sâm, “Sâm thổ
hào” cây thấy mọc ở núi Thổ Hào, Nghệ An, “Sâm báo” mọc ở núi Báo Thanh
Hóa hay “Sâm Phú Yên” mọc ở Phú Yên. Các tên gọi này đều có ý nghĩa chỉ
loài hoặc giống có giá trị dược liệu dùng làm sâm đặc trưng cho từng vùng địa
lý phân bố. Các nhà khoa học cũng có những cách phân loại danh pháp khoa học
khác nhau về các loài trong chi Ablemochus này ở Việt Nam [23].
Theo Phạm Hoàng Hộ (1999), cho thấy chi Abelmoschus có 5 loài, đó là
Bụp tóc (Abelmoschus crinitus Wall.), Đậu bắp (Abelmoschus esculentus
Moench.), Bụp vang (Abelmoschus moschatus), Bụp mì (Abelmoschus manihot
Medik.) và Sâm phú yên/Bố chính sâm/Bụp nhân sâm (Abelmochus moschatus
ssp. tuberosus Borss) [17].
Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam, Tập 2 Võ Văn Chi (2012), cho rằng còn
có loài Sâm bố chính năm thùy hay bụp năm thùy, Nhân sâm phú yên
(Abelmochus moschatus (L.) Medic. ssp quinquelobus (Gagnep.) Ban [Hibiscus
sagittifolius Kurz var. quinquelobus Gagnep.] phân bố ở Hà Nội (Hà Đông),
Khánh Hòa, Ninh Thuận cũng được sử dụng như Sâm bố chính [23].
Đối với loài cây gọi là Sâm báo, loài này mọc nhiều và chỉ có ở núi Báo,
Thanh Hoá và được xem là một đặc sản của Thanh Hoá, trước kia cây mọc

hoang thành bụi. Khi mô tả về hình thái cho thấy củ của nó trông không khác gì
củ nhân sâm. Lá của nó hình mũi tên (tiếng Latinh là sagittifolius), dài 4cm,
rộng 2cm. Có khi lá có đường kính 5cm. Nhưng lá không chia làm 5 thuỳ như lá
cây Sâm bố chính, như vậy cây này không thuộc về thứ qinquelobus của cây
Sâm bố chính như mô tả được dẫn theo từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn
4


Chi, 2012) [23]. Hoa của nó cũng có tiểu đài như hoa râm bụt Hibiscus nhưng
màu vàng và nhỏ hơn. Do đó mặc dù có người nói: “Sâm Báo ở Thanh Hoá là
tên khác của Sâm bố chính”, tuy cũng cùng họ Bông Malvaceae như cây Sâm
bố chính nhưng là một thứ khác. Tên khoa học của nó là: Hibiscus sagittifolius
Kurz. var. septentrionalis Gagnep. Vì vậy, ta không nên gán cây này vào cùng
với cây Sâm Bố Chính. Cũng nên chú ý là Phạm Hoàng Hộ trong Cây cỏ Việt
Nam Quyển I Nhà xuất bản Trẻ 1999 trang 529 số 2120 cho tên khoa học mới
của Sâm bố chính là Abelmoschus moschatus ssp. tuberosus (Span.) Borss =
Abelmoschus moschatus var. tuberosus Span = Hibiscus sagittaefolius auct.
Non Kurz. Do đó ta cần nghiên cứu riêng tác dụng dược lý của cây Sâm báo và
phải coi nó như là một thứ khác hẳn với thứ quinquelobus (lá 5 thuỳ) của cây
Sâm bố chính [17].
Theo Phan Văn Đệ (Trung tâm Sâm và Dược liệu Thành phố Hồ Chí Minh),
mặc dù có những khác biệt về hình thái ngoài nhưng các cây Sâm bố chính ở các
địa phương trong nước ta chỉ có một loài (Abelmoschus sagittifolius (Kurz),
Merr.), có thành phần hóa học rễ củ tương đồng và đáp ứng các chỉ tiêu trong
dược điển Việt Nam III. Vì thế, tác giả đề nghị cần phân loại và định danh và mở
rộng đặc điểm phân loại màu sắc của hoa: Hoa đỏ, hoa hồng và vàng [20].
Dựa trên dẫn liệu của nhiều tài liệu nghiên cứu của Phạm Hoàng Hộ
(1999), Từ Điển cây thuốc Việt Nam Võ Văn Chi (2012), Phan Văn Đệ (20012005), chúng tôi tạm sử dụng danh pháp của cây Sâm bố chính như sau:
Giới thực vật – Plantae
Phân lớp – Rosid

Bộ - Malvales
Họ - Malvaceae
Chi – Ablemoschus
Loài – Abelmoschus sagittifolius
Tên phổ thông: Sâm bố chính
Tên khác: Sâm báo, Sâm phú yên, Bụp nhân sâm [18].
Theo điều tra ban đầu của Trung tâm Sâm và Dược liệu thành phố Hồ Chí
Minh (2001) hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 8 loại mang tên Sâm bố chính khác
nhau về hình thái: hoa có màu đỏ, hồng, cam hay vàng với màu sắc đậm nhạt
khác nhau ở cánh hoa, lá trưởng thành xẻ thùy 5, hình mũi mác hoặc nguyên.
5


Nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng nguồn giống từ Viện Dược Liệu có
nguồn gốc từ núi Báo (Thanh Hóa) và Trung tâm nghiên cứu sản xuất dược liệu
miền Trung (Phú Yên) nên đề xuất được sử dụng từ Sâm bố chính xuất xứ
Thanh Hóa và xuất xứ Phú Yên trong các mô tả về kết quả thí nghiệm.
2.1.2.2. Đặc điểm hình thái
Năm 2005 nhóm nghiên cứu do Trần Đình Hợp, Nguyễn Công Đức và
Trần Công Luận đã thực hiện thu thập mẫu cây tươi và tiêu bản khô, rễ củ từ các
tỉnh Bình Phước, Phú Yên và Thanh Hóa so sánh hình thái giải phẩu bằng
phương pháp mô tả, hình thái giải phẩu học so sánh, sử dụng các khóa phân loại
hiện có trong thực vật chí Việt Nam, Trung Quốc về họ Bông [21].
Sâm bố chính là cây thân thảo, sống lâu năm, mọc đứng một cách yếu ớt,
có khi dựa vào những cây xung quanh, cao từ 30 – 50 cm có khi hơn. Thân cành
có thể mọc đứng cũng có khi bò lan toả ra mặt đất, cành hình trụ, không có lông.
Rễ phát triển thành củ hình trụ có màu trắng nhạt hay vàng nhạt, có đường kính
1,5-3cm, nhiều rễ có hình người. Lá đơn, mọc cách, cuống lá dài 2-3cm. Cây
thường có hai dạng lá. Những lá ở phần dưới gốc cây có hình trái xoan, phần
cuối phiến lá hình trái tim hay hình mũi giáo, đầu phiến lá không nhọn. Các lá ở

phần ngọn càng lên phía trên cây thì càng hẹp, phiến lá chia làm 5 thùy với thùy
ở giữa dài, phiến lá chia thùy dạng hình mũi mác. Lá dài 6-7cm, rộng 0,7-3cm.
Mặt lá có lông đơn hay hình sao, có lá kèm hình sợi chỉ, dài 7mm, có ít lông dài.
Hoa có màu hồng hay đỏ, phớt trắng hoặc phớt vàng hoặc hoa màu vàng mọc
đơn độc ở kẽ lá, cuống hoa dài từ 5 - 8 cm, có lông cứng, hơi phồng đầu. Tiểu
đài cấu tạo từ 7-10 bộ phận, dài 12-14mm, có nhiều lông. Đài hoa hình túi, ở
ngọn có hình răng cưa nhỏ, hoa tàn, rụng sớm tách ra khỏi đài. Có 5 cánh tràng,
dài 5-6cm, rộng 3-4cm ở ngọn. Nhị tạo thành bó, có hình trụ. Bầu thường có
lông tơ, có 5 vòi nhụy. Quả hình trứng nhọn, dài gấp 3 lần đài, có khía dọc khi
chín nứt ra theo khía dọc thành 5 mảnh vỏ, mặt ngoài và mặt trong đều có nhiều
lông hình sao, hạt hình thận, màu nâu đen, mặt ngoài thường có những đường
vân sít nhau tạo thành gợn.
2.1.2.3. Đặc điểm sinh thái
Cây có thể lụi vào mùa đông. Đến mùa xuân hoặc đầu mùa mưa, từ gốc
mọc lên 1 - 2 chồi và sinh trưởng rất nhanh. Sâm bố chính mọc rãi rác trong
rừng thưa, ven rừng [29].
Sâm bố chính ra hoa quả hàng năm, mùa hoa quả tập trung từ tháng 6 - 8,
hoa nở từ tháng 3-7 [23]. Có thể trồng Bố chính sâm bằng hạt, sau 2 - 3 năm thu
6


hoạch. Ngoài ra có thể trồng Bố chính sâm bằng đầu củ (sau khi thu hoạch rễ củ,
bỏ thân, cắt lấy phần đầu củ làm giống (Lê Thị Diên & cs) [9].
Nơi sống và sinh thái: Cây Bố chính sâm ưa sáng và ưa ẩm, thích nghi
được với nhiều loại đất như đất mùn dưới chân núi, đất pha cát, đất phù sa ven
sông... sinh trưởng và phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm [29].
2.1.2.4. Đặc điểm phân bố
Loài Sâm bố chính được tìm thấy nhiều nơi ở Đông Á (Trung Quốc,
Campuchia, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam) và phía Bắc nước Úc
trải dài tới Thái Bình Dương. Chúng thường mọc ở độ cao khoảng 450m so với

mực nước biển. Môi trường sống đồi núi, bìa rừng, đồn điền, ruộng lúa, dọc
những con đường mòn (Kurz, 2010) [27].
Đặc điểm loài có nhiều tên gọi khác nhau, thường tên gọi được đặt theo nơi
phân bố của loài. Ở Việt Nam, xuất xứ Sâm báo Thanh Hóa được phát hiện mọc
hoang nhiều ở vùng núi thấp, vùng đồi núi trung du ở các xã Cẩm Bình huyện
Cẩm Thủy, trên núi Báo xã Vĩnh Hùng huyện Vĩnh Lộc hay ở vườn quốc gia
Bến En huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Sâm báo chỉ thấy có ở một vài điểm
thuộc tỉnh Thanh Hóa. Sâm bố chính được người dân sử dụng lần đầu tiên ở một
số địa phương tỉnh Quảng Bình. Sâm phú yên được người dân tìm thấy ở Phú
Yên. Ngoài ra, cây phân bố ở Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tỉnh, Quảng Trị,
Kontum, Gia lai, Bình Phước, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai và một số tỉnh
ở vùng núi thấp phía Bắc, Quảng Ninh, Hải Phòng [29].
2.1.2.5. Những nghiên cứu về tác dụng dược lý và công dụng
Trong Dược điển Việt Nam IV có nêu một số tiêu chí về củ nhân sâm Phú
Yên như sau: độ ẩm < 13%, tro toàn phần < 12%, tro không tan trong acid
hydroclorid < 7%, tạp chất <1% và dược liệu phải chứa không ít hơn 25% chất
chiết được bằng ethanol 25% (TT) tính theo dược liệu khô kiệt [25].
Từ lâu người dân Việt Nam nói chung và người dân Phú Yên nói riêng đã
được sử dụng củ nhân sâm Phú Yên phối hợp với các vị thuốc khác để chữa các
chứng ho, sốt nóng, cơ thể suy nhược…[5] [10].
Trước đây, Hải Thượng Lãn Ông dùng rễ Sâm bố chính phối hợp với các vị
thuốc khác để chữa ho, sốt nóng, gầy mòn [24].Trong cuốn sách “Từ điển cây
thuốc Việt Nam”, tác giả Võ Văn Chi đã cho rằng Bố chính sâm mới thấy dùng
trong phạm vi đông y. Theo đó, đông y coi Bố chính sâm có thể dùng thay thế
7


nhân sâm trong các bệnh bổ mát, nhuận phế, dưỡng tâm, sinh tân dịch, sao với
gạo thì tính ấm bổ tỳ vị, giúp tiêu hoá, tăng thêm sức dẻo dai. Ngày nay, nhiều
người dùng Bố chính sâm làm thuốc bổ, thông tiểu tiện, điều kinh, chữa được

bệnh sốt, bệnh phổi và bạch đới. Những bệnh ngoài da thì lấy lá và hoa xát chữa
ghẽ ngứa. Người ta còn gọi Bố chính sâm là nhân sâm của người nghèo vì có
mọi công dụng của nhân sâm lại rẻ tiền hơn [23].
Phan Văn Đệ và cộng sự (2006) đã khảo sát thành phần hóa học các mẫu
Sâm bố chính mọc hoang ở các tỉnh Bình Phước, Thanh Hóa, Phú Yên, Bình
Thuận và cây trồng ở Hồ Chí Minh cho thấy: Rễ củ của các mẫu nghiên cứu đều
có chứa Saponin triterpen, coumarin, chất nhầy, acid béo, đường khử,
polyphenol và các nguyên tố đa vi lượng... Sự hiện diện của các Saponin
triterpen, được xem là nhóm hợp chất có tác dụng quyết định những tác dụng
dược lý điển hình của các cây họ Nhân sâm (Araliaceae), trong đó có tác dụng
tăng lực, chống yếu sức [20].
Theo từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi) bộ phận sử dụng của cây
Bố chính sâm chủ yếu là toàn bộ phần rễ củ. Rễ củ thu hoạch sơ chế, phơi hoặc
sấy khô kết hợp với ý dĩ sao, hoài sơn, dương quy kết hợp mật ong hay mật nha
dùng bổ khí huyết. Ngoài ra, Bố chính sâm nấu thành cao, hòa với sữa người
hay cao ban long dùng tốt cho người suy nhược gầy yếu, khô khát, táo bón, đái
són. Rễ Bố chính sâm giả nhỏ và nấu với gạo nếp ăn chữa bệnh bạch đới [23].
Theo Đỗ Tất Lợi (1999), rễ sâm Bố chính chứa chất nhầy 35 - 40%, tinh
bột [6]. Cũng theo Trần Công Luận & cs (2001), rễ cây sâm Bố Chính trồng ở
Bạc Liêu chứa phytosterol, coumarin, acid béo, acid hữu cơ, đường khử và hợp
chất uronic. Hàm lượng lipid là 3,96%, lipid gồm acid myrisric, acid palmitic,
acid stearic, acid oleic, acid linoleic, acid linolenic. Hàm lượng protein toàn
phần là 0,23g %, hàm lượng protid là 1,26g %. Các acid amin gồm 11 chất,
trong đó có histidin, arginin, threonin, alanin, prolin, tyrosin, valin, phenylalanin
và leucin. Hàm lượng tinh bột là 15,14% và chất nhầy là 18,92%. Chất nhầy là
D-glucose và L-rhamnose. Ngoài ra, còn có 13 nguyên tố: Na, Ca, Mg, Al, So
Fe, V, Mn, Ti, Mo, Cu, Zr và P. Theo quy định của Dược điển Việt Nam II, rễ
sâm Bố Chính phải chứa 30 - 40% chất nhầy (tính theo dược liệu khô kiệt) [21].
Theo Nguyễn Thị Thu Hương và cs. (2005) nghiên cứu dược lý của Sâm
bố chính và thẩm tử Harmand thu thái ở Lộc Ninh, Bình Phước, phân tích kết

quả cho thấy sự hiện diện của hợp chất saponin triterpen là một trong những
8


công bố mới về hợp chất có trong củ của cây Sâm bố chính. Đây là nhóm hợp
chất có tác dụng quyết định những tác dụng dược lý điển hình thuộc họ nhân
sâm (Araliaceae), trong đó có tác dụng tặng lực [12].
Theo Đào Thị Vui và cs (2007), nghiên cứu phân lập và xác định cấu trúc
một số hợp chất từ rễ củ cây Sâm báo Thanh Hóa cho thấy rằng từ phân đoạn
cloroform của dịch chiết methanol của rễ Sâm báo phân lập được 5 chất và bằng
các phương pháp phân trên trên phổ có so sánh đối chiếu với tài liệu tham khảo
và lần đầu tiên ghi nhận 5 chất trong rễ cũ cây Sâm báo, đó là: ventricosin A
(4(15), 7(11) –eudesmadien – 8 – on), 4 (15) – eudesmen -11 – ol, tagitinin A, βsitosterol (stigmast – 5 – en - 3β – ol) và β – sitosterol - 3 – O – glucopyranosid.
Đồng thời những nghiên cứu của tác giả Đào Thị Vui (2007) về tác dụng ức chế
loét và hồi phục loét dạ dày của dịch chiết nước rễ cây Sâm báo cho thấy dịch
chiết nước Sâm báo liều 10g/kg dùng trước khi loét dạ dày bằng uống
indomethacin 30mg/kg thể trọng, làm giảm 73,6% chỉ số so với đối chứng. Ở
thời điểm 24 giờ sau khi điều trị, dịch chiết nước Sâm báo 10g/kg làm giảm chỉ
số loét giảm 26,9 so với lô chứng cùng thời điểm, giảm 43,9% so với trước khi
dùng thuốc điều trị. 48 giờ sau khi điều trị, chỉ số loét tương ứng giảm 74,3% và
85,7% và làm hồi phục hoàn toàn các vết loét sau 72 giờ dùng thuốc [1] [2] [3].
Theo Nguyễn Đình Thi và Trương Hùng Mỹ (2014) đã tiến hành giâm hom
cây nhân sâm Phú Yên. Các thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện nhà ươm
có mái che tại Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao công nghệ, Sở Khoa học và
Công nghệ tỉnh Phú Yên. Kết quả cho thấy: 1) Xử lý α-NAA 400 ppm trong
thời gian 1,5-2 phút, cành giâm dài 7 cm và trên cành để lại 4 lá, phun bổ sung
dinh dưỡng bằng phân bón lá Supermes giúp cành giâm ra rễ nhiều, khả năng
sinh trưởng của rễ và chồi cành tốt hơn đối chứng và các công thức thí nghiệm
khác; 2) Giá thể vô bầu cành giâm có thành phần 69% đất phù sa + 1% super lân
+ 20% trấu hun + 10% phân chuồng hoai giúp cây giống sinh trưởng phát triển

khỏe; 3) Từ kết quả các thí nghiệm, tác giả đã xây dựng quy trình nhân giống
sâm Phú Yên cải tiến, kết quả thử nghiệm quy trình cải tiến cho thấy cây giống
sau giâm 36 ngày có các chỉ tiêu sinh trưởng về chồi và rễ hơn quy trình cũ ở
mức sai khác có ý nghĩa thống kê, cụ thể chiều dài chồi tăng 5%, số chồi tăng
21%, khối lượng chồi tăng 14%, số rễ/cành giâm tăng 25%, chiều dài rễ tăng
15% và khối lượng rễ tăng 12% [11].
2.1.3. Các nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống, gây trồng & chăm sóc loài Bố
chính sâm (A. sagitifolius)
9


Theo Phạm Đình Toàn (2012), đã đưa ra quy trình nhân giống invitro cây
Sâm bố chính với môi trường nuôi cấy là MS+2mg/1MA trong đó BA kết hợp
với α-NAA và kích thích IAA. Phương pháp khử mẫu tốt nhất đối với chồi ngọn
là Javen 1/3 khử trùng kép, lần đầu 4 phút và lần sau 2 phút. Môi trường tốt nhất
cho giai đoạn tạo cây hoàn chỉnh đối với cây Sâm bố chính là: MS + 0,3mg/1
IBA + 1g/l than hoạt tính [16].
Theo kết quả nghiên cứu về kỹ thuật thích hợp trồng cây Sâm Báo (A.
sagitifolius var. septentrionalis) để cho năng xuất cao tại vùng núi Báo Thanh
Hóa, tác giả Lê Hữu Cần (2012) khẳng định rằng đối với cây Sâm Báo, sản
phẩm chủ yếu là phần rễ củ, vì vậy chiều cao luống trồng có ảnh hưởng trực tiếp
đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất củ: chiều dài củ, đường kính củ,
khối lượng củ tươi, tỷ lệ củ khô/củ tươi… Cụ thể, chiều cao luống trồng Sâm
báo từ 30cm đến ≤ 40cm là phù hợp, trồng cây sâm báo với khoảng cách 20cm x
25cm, tương ứng mật độ 20 vạn cây/ha là phù hợp. Lượng phân bón cho 1 ha
thích hợp nhất là 20 tấn phân chuồng + 200 kg N + 100 kg P 205 + 75 kg K20 cho
năng suất lý thuyết, năng suất thực thu và hệ số kinh tế cao. Ngoài ra, cây sâm
báo là cây mọc hoang dã, nảy mầm vào mùa xuân (tháng 1 đến tháng 3 hàng
năm), do đó trồng ở các thời vụ khác nhau sẽ cho cây sinh trưởng và năng suất
khác nhau. Nghiên cứu chỉ ra rằng, thời vụ trồng cây Sâm báo ở vùng núi Báo

Thanh Hóa thích hợp nhất là từ trung tuần tháng 02 đến trung tuần tháng 03
hàng năm. Năng suất thực thu, hệ số kinh tế đều đạt cao hơn so với cây Sâm báo
trồng vào trung tuần tháng 1 [8].
Theo Phan Duy Hiệp & cs (2014). Kết quả sau 45 ngày nuôi cấy, tỷ lệ nảy
mầm của hạt đạt cao nhất (55,6%) khi hạt được ngâm trong dung dịch 30 mg/l
GA3 trong thời gian 120 phút, tiếp theo khử trùng hạt bằng dung dịch HgCl2
0,5%, cuối cùng cấy hạt vào môi trường MS có bổ sung 10 mg/l GA3. Sau 30
ngày nuôi cấy, hệ số nhân chồi các giống hoa màu vàng, đỏ và hồng hình thành
đạt cao nhất (4,5 chồi/mẫu) khi cấy mẫu trên môi trường MS bổ sung 1 mg/l
BA, nước dừa 10%, 0,2 mg/l GA3. Sau 30 ngày nuôi cấy chồi in vitro tạo rễ bất
định và tăng trưởng tốt nhất (6,6 rễ/chồi và chiều cao 10,5 cm/chồi) khi được
nuôi trên môi trường MS bổ sung 0,5 mg/l IBA và 0,5 mg/l NAA. Như vậy,
phương pháp nuôi cấy mô có thể sản xuất được số lượng lớn sâm bố chính trong
thời gian ngắn [18].
2.2. Các nghiên cứu về ảnh hưởng giá thể, phân bón và độ che sáng đến sinh
trưởng phát triển của thực vật
Trước đây giá thể chủ yếu sử dụng là đất hoặc cát. Ngày nay giá thể đã
10


được thay đổi rất nhiều. Như ta đã biết, cây cần cả oxi và dinh dưỡng tiếp xúc
với rễ cây. Giá thể lí tưởng là loại có khả năng giữ nước tương đương với độ
thoáng khí. Khả năng giữ nước và độ thoáng khí của giá thể được quyết định bởi
những khoảng trống (khe, kẽ) trong nó. Trong cát mịn có những khoảng trống
rất nhỏ, không chứa được nhiều nước và oxi. Ngược lại, sỏi thô tạo ra những
khoảng trống quá lớn, nhiều không khí nhưng mất nước nhanh. Giá thể lí tưởng
phải có những đặc điểm:
-

Có khả năng giữ ẩm cũng tốt như độ thoáng khí.

Có pH trung tính và có khả năng ổn định pH.
Thấm nước dễ dàng.
Bền, có khả năng tái sử dụng hoặc phân huỷ an toàn cho môi trường.
Nhẹ, rẻ và thông dụng.

Giá thể có nhiều loại như xơ dừa, trấu hun, mùn cưa, cát, sỏi vụn (cỡ hạt
đậu), đất nung xốp, đá trân châu, đá bọt núi lửa, rockwool (loại vật liệu có nhiều
thớ, sợi, rất được các trang trại lớn ở nước ngoài ưa chuộng),... Có thể dùng đơn
lẻ hoặc trộn lại để tận dụng ưu điểm từng loại [28].
Thành phần ruột bầu trong thí nghiệm không ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ
sống của cây con, nhưng lại có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng đường kính cổ
rễ và chiều cao của cây con trong giai đoạn vườn ươm. Công thức ruột bầu với
95% đất mặt và 5% vi sinh là công thức tốt nhất. Theo nghiên cứu về ảnh hưởng
của thành phần ruột bầu và ánh sáng đến sinh trưởng của cây con ở giai đoạn
vườn ươm cho thấy cây con trong giai đoạn này ảnh hưởng bởi tỷ lệ phân bón.
Thành phần ruột bầu có 10% lượng phân chuồng hoai với 2% supe lân và 88%
đất cho kết quả tốt đối với cây con sinh trưởng tốt về đường kính cổ rễ và chiều
cao cây cân đối và độ che sáng 25% tốt nhất ở giai đoạn từ khi cấy cây có 2 đôi
lá đến khi cây 4 tháng tuổi [14].
Một vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu là thành phần hỗn
hợp ruột bầu. Theo Nguyễn Văn Sở (2004), sự phát triển của cây con phụ thuộc
không chỉ vào tính chất di truyền của cây, mà còn vào môi trường sinh trưởng
của nó (tính chất lý hóa tính của ruột bầu). Tuy nhiên không phải tất cả các loài
cây đều cần một loại hỗn hợp như nhau, mà chúng thay đổi tùy thuộc vào đặc
tính sinh thái học của mỗi loài cây [13] [15].
Theo Đỗ Anh Tuấn (2013), nghiên cứu ảnh hưởng của che sáng và thành
phần ruột bầu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cây con giổi ăn hạt trong giai
đoạn vườn ươm với nhân tố che sáng ở 5 mức: đối chứng, che sáng 25%, che
sáng 50%, che sáng 75% và che sáng 100% và 5 công thức thành phần ruột bầu
11



khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc che bóng có ảnh hưởng rõ rệt đến
tỷ lệ sống và sinh trưởng của cây con trong giai đoạn vườn ươm và mức độ che
sáng phù hợp với biến động theo giai đoạn tuổi của cây con. Giai đoạn 4 tháng
tuổi mức che sáng 75% là tốt nhất, sang giai đoạn 6 đến 8 tháng tuổi thì mức độ
che sáng 50% là phù hợp [4].
2.3. Vai trò của than hoạt tính và xơ dừa trong sản xuất nông nghiệp
2.3.1. Vai trò của than hoạt tính trong sản xuất nông nghiệp
Theo Phan Liêu (1985), đất cát là loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, dễ
khô hạn do tổng thể tích khe hở lớn, nghèo mùn, khả năng hấp thụ thấp, giữ
nước và giữ phân kém do chứa ít keo. Theo phương pháp truyền thống cải tạo
đất cát là bón phân bổ sung phân hữu cơ hoặc giá thể thực vật như rơm rạ, trấu,
tàn dư thực vật, cây phân xanh. Tuy nhiên, trấu tươi có khả năng giữ nước và
dinh dưỡng kém và để tăng khả năng này, trấu được đốt trong điều kiện yếm khí
để tạo thành than sinh học (Biochar). Biochar là sản phẩm của quá trình hủy
nhiệt chất hữu cơ ở nhiệt độ cao trong điều kiện yếm khí [19].
Bổ sung biochar vào đất có thể làm thay đổi đặc tính vật lý hóa đất, tăng
lượng dinh dưỡng trong đất và tăng khả năng phát triển nấm cộng sinh rễ cây, là
nơi trú ngụ, bảo vệ cho nấm và vi sinh vật trong đất [28]. Việc sử dụng biochar
để bón phân vào đất canh tác đã và đang ngày càng được chú ý đến như là một
cách để làm tăng nguồn chứa cacbon, giảm hiệu ứng nóng lên toàn cầu, cải thiện
khả năng giữ nước cũng kiểm soát sự di động của nhiều chất gây ô nhiễm môi
trường. Hơn nữa, việc bón biochar vào đất còn làm tăng hiệu quả sử dụng nước,
tăng độ phì nhiêu của đất và sản lượng cây trồng do làm giảm sự rửa trôi các
chất dinh dưỡng và thậm chí cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây [28].
2.3.2. Vai trò của xơ dừa trong sản xuất nông nghiệp
Xơ dừa được chế biến từ vỏ của trái dừa bao gồm cả phần bụi xơ dừa và sợi
xơ dừa . Xơ dừa có nhiều tác dụng: Phủ bề mặt chống nóng, chống xói mòn,
trộn với đất tăng độ ẩm, tạo điều kiện cho đất xốp, kích thích rể ra nhiều , nhưng

chú ý kỹ phải chọn lọai đã được để lâu vì chất chát trong xơ dừa dễ làm suy cây.
Môi trường sẽ không bị tổn hại khi sử dụng xơ dừa để trồng trọt [32].
Mụn xơ dừa là xơ dừa đã được sàng lọc lấy thành phần bụi. Những thành
phần này hoàn toàn tự nhiên được dùng để trộn cùng đất và trấu tạo thành giá
thể ươm hạt rất tốt , giàu dinh dưỡng. Đây là sản phẩm hữu cơ thân thiện môi
trường [32].
12


Với phương pháp vi sinh để xử lý chất chát trong mụn dừa thành dạng
muối vi lượng, có tác dụng như một loại phân bón. Đất sinh học trộn với đất
nông nghiệp giúp tăng độ phì nhiêu cho đất, cải thiện đất bạc màu. Đây là
"thuốc bổ" của đất, thích hợp cải thiện đất pha cát, pha sét. Nó còn có tác dụng
giảm số lần tưới nước, ngừa sâu bệnh [32].
Ưu điểm của xơ dừa:
-

Cải tạo tình trạng hoang hóa - xơ chai của đất.
Duy trì độ ẩm và tăng dinh dưỡng cho đất.
Tăng cường sự thông khí của đất.
Thúc đẩy sự phát triển bộ rễ và giúp tăng trưởng cây.
Chứa các chất hữu cơ tự nhiên tốt cho đất và cây trồng.
Không tác hại đến môi trường [32].

13


PHẦN 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:
+ Hạt giống cây Sâm bố chính được mua từ Trung tâm Nghiên cứu và sản
xuất dược liệu Miền trung (Xuất xứ Sâm bố chính Phú Yên hay còn gọi là nhân
sâm Phú Yên).
+ Hạt giống cây Sâm bố chính được mua từ Trung tâm Nghiên cứu Dược
liệu Bắc Trung Bộ - Viện Dược Liệu (Xuất xứ Sâm bố chính Thanh Hóa hay
còn gọi là Sâm báo).
- Địa điểm nghiên cứu: Hợp tác xã Nông nghiệp An Đông – Phường An
Đông – Thành phố Huế và Vườn nhân giống và cơ sở giao dịch cây xanh
Hương Lộc – Lô 189 Đường Tố Hữu – Thành phố Huế.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2014 – 5/2015, bao gồm quá trình
làm đất, xử lí hạt giống, gieo ươm hạt, theo dõi và đo đếm các chỉ tiêu sinh
trưởng cây con ở giai đoạn vườn ươm và các chỉ tiêu sinh khối tươi/khô của
thân, cành, lá và củ.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
3.2.1. Mục tiêu chung
Xác định kỹ nhân giống từ hạt của 2 xuất xứ của loài Bố chính sâm
(Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr.) & thử nghiệm gây trồng trong điều kiện
gieo ươm làm cơ sở đề xuất giải pháp nhân giống & gây trồng loài cây này phục vụ
cho hoạt động phát triển mô hình trồng cây dược liệu có giá trị kinh tế cao.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
-

Xác định được các chỉ tiêu hạt giống cây Sâm bố chính.

-

Xác định được kỹ thuật xử lí và gieo ươm hạt giống cây Sâm bố chính.

- Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố giá thể và độ che bóng đến khả

năng sinh trưởng của cây con ở giai đoạn vườm ươm.

14


3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Xác định các thông số về hạt giống
Xác định được trọng lượng và độ thuần của hạt giống.
3.3.2. Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật xử lí nảy mầm hạt giống
-

Xác định được tỷ lệ nảy mầm hạt sau thời gian bảo quản.
Xác định được phương pháp xử lí hạt giống gieo ươm.

+ Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tỷ lệ nảy mầm của hạt giống. Nhiệt độ
nước ngâm hạt ở các mức nhiệt độ 2 sôi 3 lạnh, 3 sôi 2 lạnh và nhiệt độ thường.
+ Ảnh hưởng của thời gian ngâm hạt giống đến tỷ lệ nảy mầm của hạt
giống. Các mức thời gian ngâm hạt là 12h, 24h.
3.3.3. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cây con
ở giai đoạn vườn ươm
- Xác định ảnh hưởng của độ che bóng đến khả năng sinh trưởng của cây
con ở giai đoạn vườn ươm. Đối với chế độ che bóng tiến hành thí nghiệm ở các
mức che bóng là 0%, 25%, 50%.
- Xác định ảnh hưởng của giá thể đến khả năng sinh trưởng của cây con
ở giai đoạn vườn ươm.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Thừa kế số liệu thứ cấp
- Kế thừa những tài liệu liên quan đến phân bố, đặc điểm sinh học, sinh
thái học, giá trị, kỹ thuật gây trồng, quản lý, bảo tồn… cây Sâm bố chính trong
nước và trên thế giới.

- Thu thập số liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu
vực nghiên cứu dựa trên số liệu tổng hợp của Ủy ban Nhân dân các Xã và các
Ban ngành địa phương.
- Các bài báo, báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu đã
được công bố và sách tra cứu chuyên ngành và các nguồn thông tin khác.
3.4.2. Thu thập số liệu sơ cấp
3.4.2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
a) Thí nghiệm 1: Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng nhiệt độ & thời gian đến
tỷ lệ nảy mầm trong quá trình xử lý hạt giống Sâm bố chính xuất xứ Thanh Hóa
15


& Phú Yên tại phòng thí nghiệm
Trong thí nghiệm 1, bố trí 6 công thức, mỗi công thức sử dụng 100 hạt.
Công thức 1: Ngâm hạt trong 12h ở nước nhiệt độ phòng
Công thức 2: Ngâm hạt trong 24h ở nước nhiệt độ phòng
Công thức 3: Ngâm hạt trong 12h trong nước 3 sôi - 2 lạnh
Công thức 4: Ngâm hạt trong 24h trong nước 3 sôi - 2 lạnh
Công thức 5: Ngâm hạt trong 124h trong nước 2 sôi - 3 lạnh
Công thức 6: Ngâm hạt trong 24h trong nước 2 sôi - 3 lạnh
b) Thí nghiệm 2: Thí nghiệm ảnh hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu đến quá
trình sinh trưởng & phát triển của cây Sâm bố chính xuất xứ Thanh Hóa
Các công thức là các hỗn hợp giá thể đất phù sa (ĐPS), cát, trấu (50% trấu
hun + 50% trấu tươi) có tỷ lệ trộn theo thứ tự:
+ Nghiệm thức 1: Hỗn hợp 3:0:1 (3 ĐPS – 0 Cát – 1 Trấu)
+ Nghiệm thức 2: Hỗn hợp 3:1:0 (3 ĐPS – 1 Cát – 0 Trấu)
+ Nghiệm thức 3: Hỗn hợp 2:1:1 (2 ĐPS – 1 Cát – 1 Trấu)
+ Nghiệm thức 4: Hỗn hợp 1:2:1 (1 ĐPS – 2 Cát - 1 Trấu)
Thí nghiệm này được bố trí tại vị trí không được che bóng.
c) Thí nghiệm 3: Thí nghiệm ảnh hưởng độ che bóng đến quá trình sinh

trưởng & phát triển của cây Sâm bố chính xuất xứ Thanh Hóa
- Các mức thí nghiệm: 0%,25%, 50%
+ Nghiệm thức 5 GT: 2:1:1 – ĐCB: 0%
+ Nghiệm thức 6 GT: 2:1:1 – ĐCB: 25%
+ Nghiệm thức 7 GT: 2:1:1 – ĐCB: 50%
- Thiết kế thí nghiệm: Các thí nghiệm 2 và 3 là các thí nghiệm một nhân
tố được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, sử dụng 3 lần lăp cho mỗi công
thức thí nghiệm, mỗi lần lặp sử dụng 40 bầu (cây).

Hình 3.1. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng Hình 3.2. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng
16


hỗn hợp giá thể ruột bầu đến quá trình
sinh trưởng & phát triển của cây Sâm
bố chính xuất xứ Thanh Hóa trong
điều kiện gieo ươm tại HTX Nông
nghiệp An Đông – Tp. Huế

độ che bóng đến quá trình sinh trưởng
& phát triển của cây Sâm bố chính
xuất xứ Thanh Hóa trong điều kiện
gieo ươm tại HTX Nông nghiệp An
Đông – Tp. Huế

d) Thí nghiệm 4: Thí nghiệm ảnh hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu đến quá
trình sinh trưởng & phát triển của cây Sâm bố chính xuất xứ Phú Yên
Theo khuyến cáo của Trung tâm sản xuất Dược liệu miền Trung, chúng tôi
sử dụng các công thức là các hỗn hợp giá thể đất phù sa (ĐPS), xơ dừa, phân
chuồng hoai (PC), phân vi sinh, phân lân có tỷ lệ trộn theo thứ tự:

+ Nghiệm thức 1: Hỗn hợp 60% ĐPS, 20% Xơ dừa, 0% Cát, 10% PC,
9% PVS, 1% Lân = [Hỗn hợp A].
+ Nghiệm thức 2: Hỗn hợp 40% ĐPS, 20% Xơ dừa, 20% Cát, 10%
PC,9% PVS, 1% Lân = [Hỗn hợp B].
+ Nghiệm thức 3: Hỗn hợp 20% ĐPS, 40% Xơ dừa, 20% Cát, 10% PC,
9% PVS, 1% Lân = [Hỗn hợp C].
+ Nghiệm thức 4: Hỗn hợp 60% ĐPS, 20% Cát, 10% PC, 9% PVS, 1%
Lân = [Hỗn hợp D].
Thí nghiệm này được bố trí tại vị trí không được che bóng.
e) Thí nghiệm 5: Ảnh hưởng độ che bóng đến quá trình sinh trưởng & phát
triển của cây Sâm bố chính xuất xứ Phú Yên
-

Các mức thí nghiệm: 0%,25%, 50%

+ Nghiệm thức 5: [Hỗn hợp B] – ĐCB: 0%
+ Nghiệm thức 6 : [Hỗn hợp B] – ĐCB: 25%
+ Nghiệm thức 7: [Hỗn hợp B] – ĐCB: 50%
- Thiết kế thí nghiệm: Các thí nghiệm 4 và 5 là các thí nghiệm một nhân
tố được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn, sử dụng 3 lần lăp cho mỗi công

17


thức thí nghiệm, mỗi lần lặp sử dụng 35 bầu (cây).

Hình 3.3. Bố trí thí nghiệm ảnh
hưởng hỗn hợp giá thể ruột bầu đến
quá trình sinh trưởng & phát triển
của cây Sâm bố chính xuất xứ Phú

Yên trong điều kiện gieo ươm tại
Vườn nhân giống và cơ sở giao dịch
cây xanh Hương Lộc – Lô 189
Đường Tố Hữu – Thành phố Huế

Hình 3.4. Bố trí thí nghiệm ảnh
hưởng độ che bóng đến quá trình sinh
trưởng & phát triển của cây Sâm bố
chính xuất xứ Phú Yên trong điều
kiện gieo ươm tại Vườn nhân giống
và cơ sở giao dịch cây xanh Hương
Lộc – Lô 189 Đường Tố Hữu – Thành
phố Huế

3.4.2.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
 Đo đếm các chỉ tiêu hạt giống: Sử dụng thước kẹp panme để đo đếm
các chỉ tiêu hạt giống
 Đo đếm tỷ lệ nảy mầm: Ghi chép ảnh hưởng của nhiệt độ đến:
-

Tỷ lệ nảy mầm của hạt sau 12 giờ
Tỷ lệ nảy mầm của hạt 24 giờ/48 giờ /72 giờ và 96 giờ

 Đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng của cây con ở giai đoạn vườn ươm:
Trong thí nghiệm 2, 3, 4 và 5 đo đếm các chỉ tiêu theo định kỳ 15 ngày/1 lần
- Tỷ lệ sống: Đếm tổng số cây sống cho từng lần lặp.
- Độ tăng trưởng chiều cao : đo bằng thước kẻ 30 (cm)
Được tính theo công thức:
Tăng trưởng chiều cao: ∆H = Hn+1 - Hn
Hn : Chiều cao cây đo lần thứ n

Hn+1 : Chiều cao cây đo lần thứ n+1
- Số lá: Số lá được đếm bằng số lá mọc trực tiếp từ thân chính của cây.
18


Được tính theo công thức:
Tăng trưởng số lá: ∆SL = SLn+1 - SLn
SLn: Số lá cây đếm lần thứ n
SLn+1: Số lá cây đếm lần thứ n+1
 Cân đo sinh khối
- Sinh khối: Trong thí nghiệm 2 và 3 đo đếm chỉ tiêu sinh khối sau 8 tháng
thí nghiệm. Sau khi lấy mẫu, tiến hành cân tươi phần trên mặt đất (thân, lá,
cành) và phần dưới mặt đất để có sinh khối tươi của cây Sâm bố chính xuất xứ
Thanh Hóa, tiến hành sấy ở nhiệt độ từ 60 0-1200 khoảng 3 giờ đến khi khối
lượng không đổi. Sau khi sấy tiến hành cân sinh khối khô của cây.
Ghi nhận sự xuất hiện của các loài sâu hại trong quá trình tiến hành thí
nghiệm, làm cơ sở cho các biện pháp phòng trừ sinh học sau này.
Nhập số liệu và lập bảng biểu bằng phần mềm Excel, phân tích phương sai
và phân tích hậu phương sai dùng kiểm định LSD (Giới hạn sai khác nhỏ nhất –
Least Significant Difference) bằng phần mềm SPSS.

19


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN
Sau một thời gian tiến hành thực hiện đề tài, đến nay chúng tôi đã ghi nhận
một số kết quả bước đầu liên quan đến đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của
các xuất xứ Sâm bố chính và các đặc điểm về sinh trưởng và phát triển của cây
con trong giai đoạn vườn ươm dưới điều kiện thí nghiệm.

4.1. Phân biệt đặc điểm hình thái trên mặt đất các xuất xứ khác nhau của
cây Sâm bố chính (Abelmoschus sagittifolius (Kurz) Merr.)
Dựa vào đặc điểm hình thái phía trên mặt đất, Sâm bố chính được chia làm
2 nhóm: Sâm bố chính hoa đỏ và Sâm bố chính hoa vàng.
 Nhóm Sâm bố chính hoa đỏ

Hình 4.1. Sâm bố chính hoa đỏ Thanh Hóa
- Sâm báo hoa đỏ: Được trồng làm thuốc ở vùng núi Báo Thanh Hóa. Tuy
được trồng qua nhiều thế hệ nhưng loại này vẫn chưa phát tán rộng qua các vùng
khác. Hoa đỏ son, lá mũi mác phiến rộng.
- Nhân sâm Phú Yên: Có nguồn gốc hoang dại, cây thân thảo, cao hoặc
bò trườn dài 50-60cm, lá mọc so le có cuống dài, mép khía răng cưa, lá ở gốc
không xẻ, lá ở giữa thân và ngọn xẻ 5 thùy sâu. Hoa to màu đỏ, màu cam mọc
riêng lẻ ở nách lá, ra hoa quanh năm. Quả nang hình trứng nhọn, khi chín có
màu nâu, nứt thành 5 mảnh. Hạt nhiều, màu nâu, dài 5-6mm, rộng 3mm. Toàn
cây có lông. Cây mọc hoang ở miền núi, được để làm cảnh. Sự phân bố, sinh
thái cây nhân sâm Phú Yên ở tỉnh Phú Yên rộng khắp các xã An Hiệp, An Xuân,
An Lĩnh, An Thọ huyện Tuy An, xã An Phú thành phố Tuy Hòa, xã Sơn Hà,
20


Sơn Xuân huyện Sơn Hòa (Lê Văn Thức. 2012). Hiện nay nhân sâm Phú Yên
được trồng nhiều ở Trung tâm nghiên cứu và sản xuất dược liệu miền Trung và
Trạm thực nghiệm sinh học Hòa Quang.

Hình 4.2. Sâm bố chính Phú Yên
- Sâm bố chính Tây Ninh: được trồng làm kiểng trong địa bàn thành
phố, nguồn gốc nhập hạt giống từ Thái Lan. Hoa đỏ son, gốc cánh hoa phớt
vàng, lá xẻ thùy 5 sâu, trên mép lá có răng cưa, củ rễ nhỏ 0,5-1cm.
- Sâm bố chính Quảng Bình: Được phát hiện nhiều ở một số huyện

thuộc tỉnh Quảng Bình. Hoa đỏ nhạt, lá xẻ 5 thùy sâu, trên mép lá có răng cưa.

Hình 4.3. Sâm bố chính Quảng Bình

21


 Nhóm Sâm bố chính hoa vàng
- Sâm báo hoa vàng: loài này
rất quý hiếm, trồng lâu đời làm thuốc ở
Thanh Hóa. Hoa vàng, gốc cánh hoa
ửng hồng, đầu nhụy chẻ có màu vàng.
- Sâm bố chính Hàm TânBình Thuận: Có nguồn gốc hoang dại.
Hoa vàng, gốc cánh hoa đỏ, đầu nhụy
đỏ, lá mũi mác, phiến rộng.
- Sâm bố chính Lộc Ninh Bình Phước: Thường gặp trong các
rừng khộp (rừng dầu) tái sinh chưa bị
khai hoang, ở các trảng thưa cây bụi
trên vùng đất nghèo, cát pha sét, đất đỏ
hay vùng đất phù sa cổ ngòi suối.
Thường gặp trên.

Hình 4.4. Sâm bố chính hoa vàng
Thanh Hóa

Hình 4.5. Sâm bố chính Lộc Ninh –
Bình Phước
- vùng đất ẩm, đôi khi ngập nước, có nguồn gốc hoang dại. Sâm Bố
Chính Lộc Ninh có dạng cây thảo, mọc trườn, lá hình mủi mác hẹp dài. Hoa
vàng, gốc cánh hoa màu đỏ, đầu nhụy đỏ, lá mũi mác dài và nhọn cũng có gặp ở

vùng rừng thưa rụng lá huyện Chư Prông tỉnh Gia Lai và giống với mẫu thu thập
của F.Evrard ở Lộc Ninh (ngày 23-04-1922) còn lưu mẫu ở Bảo tàng thực vật
thành phố Hồ Chí Minh [22].
4.2. Các chỉ tiêu hạt giống và kết quả thí nghiệm xử lý hạt giống
4.2.1. Các chỉ tiêu hạt giống
Kết quả cân đo trọng lượng 1000 hạt (bằng cân tiểu ly) và đường kính
trung bình (bằng thước kẹp panme) cho kết quả như sau:
4.2.1.1. Hạt giống có xuất xứ Thanh Hóa
Trọng lượng 1000 hạt = 8,9192 g
Đường kính trung bình: 1.99 ± 0.02 mm

22


4.2.1.2. Hạt giống có xuất xứ Phú Yên
Trọng lượng 1000 hạt = 12,2604 g
Đường kính trung bình: 2.01 ± 0.02 mm
Như vậy, kết quả cho thấy Sâm bố chính xuất xứ Phú Yên có đường kính
trung bình và trọng lượng 1000 hạt cao hơn Sâm bố chính xuất xứ Thanh Hóa.
4.2.2. Ảnh hưởng nhiệt độ và thời gian đến tỷ lệ nảy mầm trong quá trình xử
lý hạt giống Sâm bố chính tại phòng thí nghiệm
4.2.2.1. Hạt giống có xuất xứ Thanh Hóa
Bảng 4.1. Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng nhiệt độ và thời gian đến tỷ lệ nảy
mầm trong quá trình xử lý hạt giống Sâm bố chính xuất xứ Thanh Hóa tại
phòng thí nghiệm
Công thức

Tỷ lệ nảy
mầm %


Số hạt nảy mầm

sau 48h
Sau
24h

Sau Sau Sau
48h 72h 96h

1. Ngâm 24h ở nhiệt độ phòng

3

1

0

0

4

2. Ngâm 12h ở nhiệt độ phòng

3

1

0

0


4

3. Ngâm 24h trong 3 sôi - 2 lạnh

59

2

0

0

61

3. Ngâm 12h trong 3 sôi - 2 lạnh

48

2

0

1

50

4. Ngâm 24h trong 2 sôi - 3 lạnh

53


4

0

1

57

5. Ngâm 12h trong 2 sôi - 3 lạnh

44

1

0

0

45

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả xử lý số liệu, 2015)
Từ bảng số liệu trên, ta thấy rằng hạt giống Sâm bố chính xuất xứ Thanh
Hóa có tỷ lệ nảy mầm không cao trong điều kiện thí nghiệm. Tỷ lệ nảy mầm đạt
giá trị cao nhất ở công thức ngâm hạt giống trong vòng 24h ở nước 3 sôi 2 lạnh.

23



×