Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Những cách tân về kỹ thuật của hội họa sơn mài đương đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.83 MB, 40 trang )

LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cám ơn quý thầy cô trong Hội đồng tốt nghiệp đã tận
tình giúp đỡ và góp ý cho chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện loạt tác
phẩm và khóa luận tốt nghiệp. Đặc biệt tôi xin vô cùng biết ơn sự giúp đỡ
nhiệt tình của thầy Đỗ Kỳ Huy trong thời gian qua, người đã giúp đỡ tôi định
hướng rõ hơn về phương pháp cũng như hướng nghiên cứu và hoàn thiện
những kiến thức của tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Thầy
cũng hướng dẫn tôi rất tận tình trong quá trình thực hiện loạt tác phẩm tốt
nghiệp từ giai đoạn tìm phác thảo đến giai đoạn thực hiện các tác phẩm.
Tôi xin gửi lời tri ân đến quý thầy cô Khoa Hội họa đã dạy dỗ và tạo
điều kiện thuận lợi cho chúng tôi về mọi mặt trong suốt quá trình học tập.
Với kinh nghiệm còn hạn chế trong nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật, việc
thực hiện loạt tác phẩm tốt nghiệp và khóa luận đối với tôi vừa là thử thách vừa
là cơ hội để tôi tìm tòi, học tập, tìm tòi vì vậy chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót.
Tôi kính mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô.
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn.
Sinh viên
Hà Hoàng Ngâu


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giống như chất liệu lụa, chất liệu sơn mài luôn được nhiều họa sỹ quan
tâm, nghiên cứu bởi lẽ chất liệu này được xem là nét đặc trưng của nền mỹ
thuật Việt Nam. Sơn mài cuốn hút người họa sỹ bởi cái hay về kỹ thuật, vẻ
đẹp của hiệu quả thị giác và đôi lúc cũng chính sự gian nan trong quá trình
hình thành tác phẩm với những hiệu quả bất ngờ khiến người họa sỹ luôn
muốn chinh phục chất liệu này.
Chính sự tìm tòi và phát triển kỹ thuật nghề sơn thủ công truyền thống
của Việt Nam đã hình thành nên chất liệu sơn mài độc đáo có một không hai.
Qua thời gian, sơn mài dần khẳng định được vị trí của mình. Song hành với


sự phát triển của nền hội họa thế giới, sơn mài - chất liệu truyền thống của hội
họa Việt Nam – luôn không ngưng cải tiến, cách tân để mang đến cái nhìn
khác biệt, mới lạ trong các tác phẩm nghệ thuật. Sự tìm tòi, làm mới chất liệu,
kỹ thuật hay làm mới trong chính cách nhìn, cách xử lí hình tượng nghệ thuật
là điều thiết yếu để một người họa sỹ có thể nuôi dưỡng niềm đam mê sáng
tạo của mình luôn tươi mới, không trở nên nhàm chán theo thời gian.
Từ một nghề thủ công đến một chất liệu sáng tạo trong nghệ thuật đã là
một bước ngoặt lớn nhưng để đi đến sự phát triển như ngày hôm nay, có lẽ
các thế hệ họa sỹ xưa và nay luôn nghiên cứu, học hỏi kể cả việc kết hợp, thay
thế bằng một số chất liệu hay kỹ thuật của nước ngoài vào sơn mài nhằm mục
đích hạn chế những nhược điểm của chất liệu trong quá trình sáng tạo của
mình. Điều này giúp người họa sỹ có được sự chủ động hơn trong việc xử lí
chất liệu, kỹ thuật, đồng thời rút ngắn thời gian thực hiện tác phẩm. Ngoài sự
cách tân về nội dung, hình tượng đặc trưng sử dụng trong tranh để phù hợp
với sự phát triển của xã hội, cách tân về kỹ thuật sẽ giúp cho các họa sĩ khám
phá được nhiều hơn về khả năng diễn tả của chất liệu cũng như hiệu quả thị
giác trong các biểu chất.
Sơn mài luôn là một điều gì đó thật bí ẩn khiến tôi muốn khám phá và
chinh phục. Càng khám phá chất liệu ấy tôi càng tìm thấy những điều đặc
biệt, những vẻ đẹp ngẫu nhiên đầy thú vị. Những mảng trứng nhỏ li ti được
ghét với nhau một cách hoàn hảo, những gì còn lại dưới lớp màu chồng lấp
lên nhau sau khi mài… là những điều cuốn hút tôi đến với sơn mài. Chính
2


điều này đã thôi thúc tôi lựa chọn chất liệu sơn mài để thể hiện trong loạt tác
phẩm tốt nghiệp.
Thực hiện khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Những cách tân về kỹ thuật
của hội họa sơn mài đương đại Việt Nam” sẽ là cơ hội để tôi có thể nghiên
cứu sâu hơn về những kỹ thuật truyền thống đã được cải tiến hay những kỹ

thuật sơn mài mới được các họa sỹ tìm tòi trong quá trình sáng tạo. Qua đó tôi
có thể phần nào giải đáp được những câu hỏi mà mình đặt ra về vẻ đẹp bí ẩn,
huyền hoặc khi đứng trước một tác phẩm tranh sơn mài và hiểu rõ được
những điều đó sẽ giúp tôi thể hiện tốt hơn những kỹ thuật sơn mài mới trong
loạt tác phẩm tốt nghiệp.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua khóa luận tốt nghiệp, tôi mong muốn tìm hiểu các thay đổi
chính, các mốc sự kiện và các xu hướng cách tân về kỹ thuật của hội họa sơn
mài đương đại Việt Nam, qua đó có thể đánh giá các ưu điểm và nhược điểm,
hướng khắc phục của các kỹ thuật cách tân. Từ sự nghiên cứu và tìm tòi ấy,
tôi sẽ chọn và xác định một số kỹ thuật cách tân phù hợp để áp dụng cụ thể
vào loạt tác phẩm tốt nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận tốt nghiệp này, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu
tổng hợp tư liệu để làm rõ về bối cảnh lịch sử và những sự kiện chính liên
quan đến hội họa sơn mài Việt Nam. Bên cạnh đó, tôi sử dụng phương pháp
phỏng vấn chuyên gia, quan sát và nghiên cứu thực tế để liệt kê, phân tích các
xu hướng cách tân về kỹ thuật trong hội họa sơn mài và đồng thời đưa ra các
nhận định, đánh giá về các kỹ thuật cách tân. Ngoài ra để xác định và lựa
chọn một số kỹ thuật cách tân phù hợp để áp dụng cụ thể vào bài tốt nghiệp,
tôi sử dụng phương pháp phân tích và thực nghiệm trong quá trình nghiên
cứu, sáng tác, đúc rút những kiến thức từ sự tìm hiểu và tiếp xúc với chất liệu
sơn mài.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do các hạn chế về dung lượng khóa luận, tôi giới hạn nghiên cứu những
xu hướng cách tân của hội họa sơn mài Việt Nam thuần túy từ góc độ kỹ thuật
và chất liệu, không đi sâu vào các vấn đề về nguồn gốc hay khảo sát kỹ thuật
sơn mài truyền thống.
3



PHẦN NỘI DUNG
I. Sự cách tân về kỹ thuật của Hội họa sơn mài đương đại Việt Nam
1. Bối cảnh lịch sử
Có thể nói những năm đầu của thế kỉ XX đã thiết lập nên nhiều cột mốc
quan trọng cho nền hội họa Việt Nam. Đáng chú ý nhất trong đó là sự cách
tân chất liệu sơn ta truyền thống thành một chất liệu tạo hình đương đại, đây
thật sự là cuộc cách mạng lớn mang đến những sắc thái, diện mạo mới cho mỹ
thuật đương đại Việt Nam và đưa nền mỹ thuật nước ta lên một tầm cao mới.
Sự ra đời của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khởi đầu cho cuộc
cách tân trong nghệ thuật sơn mài. Thời điểm đó thầy trò của trường bắt đầu
làm quen với chất liệu sơn truyền thống cùng sự cộng tác của các nghệ nhân
nghề sơn như cụ Đinh Văn Thành. Ban đầu những thử nghiệm với chất liệu
sơn ta chỉ nhằm khắc phục những hạn chế về bảng màu sắc chưa được phong
phú với các màu gồm đen, đỏ, vàng kim hoặc bạc phủ hoàn kim. Chính nhờ
quá trình tìm tòi ấy các họa sỹ đã khám phá được những điều thú vị mà họ
không ngờ tới. Họ nắm bắt được kỹ thuật pha chế các loại sơn chín, kỹ thuật
sử dụng các chất liệu sơn, biết cách sử dụng vàng bạc quỳ được rây nhỏ thành
bột, biến tính sơn cánh gián bằng cách pha trộn thêm nhựa thông hoặc dầu
trẩu. Với cách pha chế mới này, người ta có thể vẽ nhiều lớp sơn màu chồng
lên nhau, sau mỗi lớp sơn lại mài nhiều lần trong nước sạch, tạo ra nhiều hiệu
quả màu sắc. Ngoài ra, với kỹ thuật sử dụng tài tình chất liệu dân dã như vỏ
trứng, vỏ trai... các họa sỹ đã tạo được nhiều hòa sắc trắng với dạng một nền
men rạn hấp dẫn, hoặc ánh sắc muôn màu của xà cừ rất phong phú. Sơn mài
thực sự bước chân vào lĩnh vực hội họa tạo hình và ngày càng chiếm một vị
trí quan trọng trên thị trường tranh quốc tế. Đi tiên phong trong việc áp dụng
kỹ thuật sơn cổ truyền với các sắc đen, đỏ, vàng, bạc... để tạo nên các tác
phẩm hội họa hiện đại là các họa sỹ Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn
Tường Lân, Trần Quang Trân, Nguyễn Khang... Họa sỹ Nguyễn Khang đã
từng ghi lại việc nghiên cứu, thể nghiệm, học tập, tiếp thu chất liệu sơn ta cổ

truyền để áp dụng vào hội họa sơn mài hiện đại: “Năm 1932, khi còn đang
học năm thứ hai trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tôi đã là người có
công sức tìm tòi và đã thành công trong việc mở hướng vào một lĩnh vực mới,
diễn tả được tình cảm, có nội dung, có chủ đề, đưa được ánh sáng vào, diễn tả
4


được phong cảnh cho sơn mài đi đến những thành công hiện nay. Cụ thể là
mày mò, nghiên cứu, thể nghiệm bằng cách rây nhỏ vàng, bạc thành bụi đem
rắc vào sơn màu, phủ kín rồi lại mài, tạo nên được độ đậm nhạt, sáng tối, lộng
lẫy và sâu thẳm, cũng từ đó mở đường cho các sự tiếp tục tìm tòi đến những
kết quả ngày nay”. Tuy nhiên phải đợi đến họa sỹ Nguyễn Gia Trí, nghệ thuật
tranh sơn mài mới đạt tới tầm cao mới. Ông có thể không phải người đầu tiên
biến chất liệu sơn ta thành chất liệu tạo hình đương đại nhưng chính ông là
người đi đầu trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành
những tuyệt phẩm nghệ thuật, tạo ra một khuynh hướng mới cho mỹ thuật
Việt Nam. Với những đường nét vẽ thanh lịch, những tư tưởng mới về nghệ
thuật sơn mài, ông đã được mệnh danh là bậc thầy, là "người cha đẻ những
bức tranh sơn mài tân thời của Việt Nam". Ông đưa hội họa đích thực vào sơn
mài, tìm sắc độ, tìm hình vẽ trên ước lệ màu sắc, sử dụng điêu luyện sự hòa
hợp vỏ trứng giát với các hình vẽ sắc độ. Với chất son, sơn then, vàng, bạc, vỏ
trứng, sơn cánh gián, Nguyễn Gia Trí đã mang đến cho tranh sơn mài vẻ đẹp
lộng lẫy và chiều sâu bí ẩn. Chính điều này đã đưa kĩ thuật sơn mài lên đỉnh
cao, khẳng định tầm quan trọng của chất liệu hội hoạ này trong nền mỹ thuật
Việt Nam.
Trong dòng chảy nghệ thuật tạo hình đương đại Việt Nam, sơn mài là
một trong những chất liệu đặc thù đã được khẳng định và được nhiều thế hệ
các họa sỹ say mê nghiên cứu bằng các nhãn quan nghệ thuật tạo hình đa
dạng với mục đích thể hiện dấu ấn cá nhân và thể nghiệm những quan niệm
mới của mình về nghệ thuật. Các tác phẩm sơn mài của các họa sỹ đương

đại Việt Nam đã và đang tạo ra những thủ pháp, phương thức sáng tạo vừa
thể hiện bản sắc dân tộc vừa mang âm hưởng của nghệ thuật tạo hình
đương đại.
Bất cứ chất liệu nào cũng mang trong mình một thứ ngôn ngữ riêng và
sơn mài cũng không phải là ngoại lệ. Để có thể nhận biết được sự cải tiến hay
cách tân chất liệu sơn mài theo thời gian phải xác định được một số tính chất
đặc thù và hàn lâm của chất liệu này trong những giai đoạn đầu của hội họa
sơn mài1, mà tôi tạm gọi là “sơn mài cổ điển”. Theo quan điểm hàn lâm, việc
1

Để tránh nhầm lẫn với “nghệ thuật trang trí sơn ta cổ truyền” tôi tránh dùng thuật ngữ “sơn mài truyền
thống”và thay bằng “sơn mài cổ điển” để chỉ giai đoạn đầu của nghệ thuật tạo hình sơn mài với một số tính
chất, đặc điểm, và quy phạm kỹ thuật mang tính chất mẫu mực, hàn lâm, kinh viện.

5


vẽ sơn lên nền vóc, mài mặt vẽ bằng đá mài, than củi hoặc giấy giáp nước để
tạo mặt phẳng, sau đó làm bóng tranh là đặc thù riêng tạo nên chất liệu này.
Sơn mài cổ điển sử dụng chất liệu nhựa sơn trong tự nhiên có những điểm
"ngược đời": muốn lớp sơn vừa vẽ khô, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có
độ ẩm cao; muốn nhìn thấy tranh lại phải mài mòn đi mới thấy hình. Việc sử
dụng vỏ trứng, quỳ bạc, vàng hay vẽ màu lên nền vóc và phủ một lớp cánh
gián rồi mài nhiều lần tùy theo ý định của người họa sỹ sẽ tạo ra nhiều hiệu
ứng cho chất liệu. Sự chồng lấp các lớp và hiệu quả ngẫu nhiên sau khi mài
góp phần tạo nên vẻ đẹp của một tác phẩm sơn mài. Kỹ thuật vẽ sơn mài khó
và có tính ngẫu nhiên nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất
ngờ trước một hiệu quả đạt được sau khi mài tranh.
Có thể thấy, nghệ thuật sơn mài kể từ thời gian đầu xuất hiện cho đến
nay vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới

mang đậm dấu ấn và tính sáng tạo của từng cá nhân nghệ sĩ. Các thế hệ họa sỹ
nối tiếp nhau luôn trăn trở, nghiên cứu, tìm cách khai thác các thế mạnh của
loại chất liệu, nội dung cho đến cách biểu hiện để cải tiến những cái xưa cũ và
tìm tòi những cái mới. Không ít họa sĩ trẻ đã tạo cho mình một sự phá cách.
Trên nền vóc cổ điển, họ đưa vào hàng loạt những chất liệu mới với mong
muốn tạo nên hiệu quả thẩm mĩ mới lạ. Ngày nay, nhờ sự phong phú về màu
sắc và vật liệu mới, các họa sỹ đã dễ dàng hơn trong việc thể hiện ý tưởng của
mình và điều đó giúp chất liệu sơn mài ngày một phát triển, khẳng định vị thế
của mình trong nền hội họa. Tất nhiên, không phải lúc nào những thể nghiệm
ấy cũng có thể thành công mà thậm chí, đôi khi sự lệch hướng, quá đà cũng
phần nào phá đi vẻ đẹp nền nã, cao sang của sơn mài cổ điển.
2. Sự cách tân về kĩ thuật
Trong suốt quá trình phát triển, nghệ thuật sơn mài Việt Nam luôn vận
động, thay đổi và cách tân về cả nội dung lẫn kỹ thuật, tuy nhiên trong khóa
luận tốt nghiệp này, tôi chỉ muốn nghiên cứu, tìm hiểu sâu những cải tiến,
cách tân về kỹ thuật của hội họa sơn mài Việt Nam thông qua những thay đổi
về nhận thức trong vấn đề vật liệu và trong quá trình làm việc, sáng tạo của
người họa sỹ hay thay đổi về cái nhìn và cảm nhận thẩm mỹ của người họa sỹ
lẫn người xem về sự truyền thống trong nghệ thuật sơn mài.

6


2.1. Sự cách tân về vật liệu
a. Chất kết dính
Như chúng ta đã biết, việc sử dụng sơn cánh gián và kỹ thuật mài sơn đã
mở ra một bước ngoặt vô cùng lớn, một cuộc cách tân hoàn toàn trong nền hội
hoạ Việt Nam. “Sơn ta trở thành một phương tiện độc lập diễn tả tâm hồn
nghệ sĩ..., diễn đạt đời sống bên trong con người nghệ sĩ”. Đây là câu nói của
họa sỹ Tô Ngọc Vân nhằm khẳng định tầm quan trọng của chất liệu sơn ta cổ

điển đối với nghệ thuật hội họa Việt Nam.
Sơn ta là loại nhựa lấy từ mủ cây sơn, tên khoa học là Rhus Succdanea,
trồng nhiều ở khu vực miền Bắc nước ta, chế biến thành sơn chín cho độ bóng
cao, trong và sâu. Chính những đặc tính này giúp sơn ta có được những ưu
điểm giúp người họa sĩ thể hiện được những giá trị thẩm mỹ riêng của chất
liệu mà có lẽ chất liệu công nghiệp không thể sánh được. Nhựa sơn khi khô
thì bóng, trở nên cứng, có độ rắn đặc biệt, nhưng lại có sự mềm dẻo, đàn hồi
thực vật, khô theo cách thẩm thấu nên bám rất chắc vào vật được sơn và lớp
sơn có thể chịu đựng tốt ở các môi trường: nước, nước muối, axit, độ ẩm, môi
trường nhiệt độ thay đổi nóng lạnh. Những điều này giúp cho tranh có thể tồn
tại với thời gian, độ xuống màu thấp nên màu sắc của tranh sẽ giữ được. Việc
chỉ kết hợp được với những màu son có trong tự nhiên với những sắc màu
trầm ấm đã phần nào tạo độ sâu về cả giá trị lẫn cái nhìn cho một tác phẩm
tranh sơn mài. Tuy nhiên chính một số ưu điểm về đặc tính của chất liệu sơn
mài lại gây ra những khó khăn cho các họa sỹ trong công cuộc chính phục nó.
Sơn ta có đặc điểm lâu khô nên cần phải qua quá trình ủ ẩm, điều này gây cản
trở cho các họa sỹ trong quá trình sáng tác vì phải chờ đợi một thời gian để
sơn khô mới có thể vẽ tiếp những lớp màu khác. Đôi khi vì điều kiện thời tiết
mà phải mất một khoảng thời gian khá lâu bề mặt sơn mới khô, điều này có
thể làm mất đi cảm xúc sáng tạo của người họa sỹ. Bên cạnh kỹ thuật làm
tranh và qui trình chế tác sơn chín phức tạp, nguyên vật liệu vừa khó kiếm
vừa đắt đỏ (vì phải chịu được sự oxy hóa mạnh của nhựa sơn) nên rất tốn
kém. Điều này đã thúc đẩy nhiều họa sỹ tìm kiếm, thay thế chất liệu kết dính
có thể khắc phục những hạn chế trên mà vẫn phần nào giữ được giá trị nghệ
thuật và ngôn ngữ của một tác phẩm sơn mài.

7


Theo ý kiến của họa sỹ Trần Khánh Chương “nguyên liệu của tranh sơn

mài là dùng nhựa cây sơn ta và nên đưa ra nhiều quan niệm mới hơn khi vẽ
tranh ngoài các kỹ thuật đã có. Truyền thống cần được gìn giữ và phát huy
nhưng nếu giữ gìn truyền thống một cách bảo thủ thì nghệ thuật sơn không
thể phát triển được. Sơn Nhật cũng là một chất liệu sơn và nên gọi tên nó là
sơn Nhật. Dùng chất liệu sơn ta thì nên gọi tên là tranh sơn ta”. Ý kiến của
họa sĩ Nguyễn Đỗ Bảo cho rằng: “sơn ta từ nghệ thuật trang trí đến nghệ thuật
tạo hình rồi lại trở về nghệ thuật trang trí nhưng ở tầng cao hơn và phải đẩy
nghệ thuật trang trí lên tới đỉnh cao là nhiệm vụ của người họa sỹ sơn mài. Có
lẽ nên gọi là tranh sơn ta để phân biệt giữa chất sơn của mình với chất sơn các
nước bạn”. Những ý kiến của hai họa sỹ cho thấy họ không hoàn toàn phản
đối chuyện sử dụng chất kết dính mới là sơn Nhật, chỉ là nên phân biệt rõ hai
loại sơn này. Từ cuộc hợp tác của các chuyên gia sơn mài Nhật Bản với
xưởng mỹ nghệ quốc gia của ta vào năm 1965 – 1972, sơn Nhật được du nhập
vào nước ta và bắt đầu phổ biến làm thay đổi quan điểm và cái nhìn truyền
thống của sơn ta.
Sơn Nhật còn gọi là Polycite, gồm hai loại sơn cánh gián và sơn đen.
Bằng những đặc tính của mình, sơn Nhật có thể khắc phục được một số nhược
điểm mà sơn ta gặp phải. Sơn Nhật khô tự nhiên dưới ánh mặt trời, không phụ
thuộc vào thời tiết, không đòi hỏi công đoạn ủ ẩm nên rút ngắn được thời gian
làm tranh, dễ sử dụng, trộn được với tất cả các loại màu, có độ bóng tốt ánh
trong. Bên cạnh đó giá thành của nguyên liệu rẻ hơn nhiều so với sơn ta, vừa
tiện trong cách xử lí, không phải qua khâu phủ sơn cồng kềnh rất mất thời
gian của kỹ thuật sơn ta truyền thống, kỹ thuật cũng có thể mài nùn, đánh
bóng như sơn ta. Tuy khắc phục được những nhược điểm vừa nêu của sơn ta
nhưng độ dai, khả năng chịu nhiệt, độ bám chắc co dãn, độ sâu của màu sơn
Nhật lại kém hơn. Độ bóng của sơn Nhật cũng làm tác phẩm mất đi chiều sâu
đằm thắm và duyên dáng của sơn mài cổ điển. Tuy nhiên nhiều họa sỹ sử
dụng sơn Nhật để làm tranh “sơn mài” cũng đã đạt được ý đồ và hiệu quả
thẩm mỹ mong muốn. Họa sỹ Nguyễn Minh Thành là một ví dụ điển hình cho
sự thành công trong việc sử dụng sơn Nhật và một số cải tiến, cách tân trong

kỹ thuật sơn mài. Triển lãm “Áng mây xưa” của anh trưng bày hàng loạt tác
phẩm sơn mài sử dụng sơn Nhật như tác phẩm “Áng mây xưa” (Hình 1) hay
8


“Bài thơ bên hoa xương rồng” (Hình 2)... Màu sắc của các tác phẩm tươi sáng
hơn rất nhiều so với bảng màu khi sử dụng sơn ta. Ta cảm nhận được mặt
tranh với lớp màu mỏng và gần như không phủ sơn hoặc phủ một lớp sơn
mỏng sau đó mài. Thậm chí có những tác phẩm, tác giả sử dụng lối dán giấy
sau đó phủ một lớp cánh gián và mài. Việc sử dụng sơn Nhật đã giúp họa sỹ
thể hiện được ý đồ ý tưởng của mình như tác phẩm “Rất Huế” (Hình 3). Tuy
những tác phẩm sơn mài của anh không chứa đựng chiều sâu của chất liệu
nhưng nó lại đem đến cho người xem cái nhìn khác về tranh sơn mài. Một sự
thể hiện mới, một lối đi, cách nhìn mới đã đưa những tác phẩm của Nguyễn
Minh Thành tới gần hơn với xu thế mỹ thuật của thế giới hiện nay. Đó là một
lối nghệ thuật mới mang trong mình những hình tượng mới, những góc nhìn
mới nhằm xóa bỏ một số định kiến phiến diện với sự cách tân về chất liệu này
so với truyền thống. Đối với họa sỹ Hoàng Ngọc Tú, anh đã đưa nghệ thuật
pop art vào sơn mài. Nếu giữ nguyên sự truyền thống của chất liệu thì khó có
ai có thể nghĩ rằng sơn mài có thể thể nghiệm được với lối vẽ pop art luôn đòi
hỏi màu sắc tươi nguyên. Họa sỹ đã sử dụng sơn Nhật để đáp ứng cho việc
thể hiện ý đồ của mình, đưa pop art vào nghệ thuật sơn mài, màu sắc trong
tranh anh cũng tươi sáng như tranh của Nguyễn Minh Thành. Lối vẽ nhiều
lớp màu mỏng thay vì đắp nhiều lớp màu dày và chỉ phủ một lớp cánh gián
mỏng, rồi mài hết lớp cánh gián để làm phẳng bề mặt đã cho ta thấy một thể
nghiệm, một ví dụ rõ ràng cho sự cách tân hơn rất nhiều so với nghệ thuật sơn
mài truyền thống. Ta có thể thấy những điều đó qua các tác phẩm như “Tôi
mơ 1” (Hình 4), “Tôi mơ 2” (Hình 5)…
Một chất kết dính mới cũng được xuất hiện vào những năm 90 của thế kỉ
XX, đó là sơn điều. Sơn điều có tên khoa học là Polycashew, được tổng hợp

từ dầu vỏ hạt điều, qua tinh chế tạo ra hai loại sơn cánh gián và sơn đen. Cũng
giống như sơn Nhật, sơn điều có những ưu điểm như khô tự nhiên dưới ánh
mặt trời, trộn được với tất cả các loại màu, cho độ bóng cao, giá thành rẻ. Tuy
nhiên nhược điểm của nó là chất lượng kém hơn hẳn sơn ta và sơn Nhật, màu
cánh gián bị đỏ hơn, màu đen của then kém sâu, khi khô rất cứng, giòn, dễ nứt
vỡ. Do mới được sử dụng nên ta cũng chưa đánh giá hết được độ bền của chất
liệu, tuy vậy, một số họa sĩ đã mạnh dạn dùng sơn điều, để lấy chất thô mọng
dễ dùng trong tranh của mình.
9


Qua đây có thể thấy, việc sử dụng sơn ta trong nghệ thuật sơn mài để giữ
gìn sự truyền thống có từ lâu đời và đảm bảo các vẻ đẹp tinh tế, đặc trưng của
chất liệu là một điều quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên cũng không vì thế mà
ta phủ nhận sự xuất hiện của những vật liệu mới đã tạo ra sự cách tân không
hề nhỏ cho hội họa sơn mài Việt Nam. Nó không chỉ là việc lấp đi và khắc
phục những nhược điểm gây khó khăn cho người họa sỹ khi sử dụng sơn ta
trong quá trình sáng tác mà nó còn là công cụ để các họa sỹ có thể thực hiện
những thể nghiệm mới, với những phong cách sáng tạo mới.
b. Màu
So với thời kì trước khi nghề sơn được đưa vào nghệ thuật tạo hình và
trở thành chất liệu sơn mài, bảng màu được các nghệ nhân sử dụng khá ít. Sự
tìm tòi và nghiên cứu của các họa sỹ trường Mỹ thuật Đông Dương đã dần mở
ra cho sơn mài một bảng màu phong phú hơn nhằm làm tăng khả năng mô tả
không gian, ánh sáng và tạo khối nhờ có sự chuyển đổi sắc độ linh hoạt.
Ngoài chất sơn đen nguyên chất rất ưa nhìn, màu đỏ có từ trầm đến tươi của
khoáng chất, màu vàng bạc sử dụng bằng kim loại được dát mỏng dàn từng lá
trên mặt sơn, màu nâu của sơn cánh gián thì việc kết hợp gắn vỏ trứng, vỏ ốc
xà cừ và sử dụng một số màu bột tổng hợp giúp hiệu quả màu sắc trong tranh
sơn mài được nâng lên rõ rệt. Cho đến nay, những loại bột màu khoáng chất

gần như ít được sử dụng do giá thành khá cao, nhiều họa sỹ chuyển sang sử
dụng loại bột màu tổng hợp với giá thành vừa phải và có chất lượng ổn định
hơn. Điều thuận lợi trong việc sử dụng loại bột màu tổng hợp là sự đa dạng về
màu sắc, có những gam màu chưa từng xuất hiện trong hệ thống bột màu
truyền thống. Bên cạnh việc cải tiến một số gam màu trong bảng màu sơn
mài, các họa sỹ ngày nay cũng không ngừng nghiên cứu để tìm ra những gam
màu mới, ví dụ như việc tìm ra gam màu tro quái lạ được tạo ra từ bột đất
được đem về từ một lò gốm cổ tại làng Phước Tích pha lẫn với màu sơn cánh
gián của họa sỹ Võ Xuân Huy. Với cuộc triển lãm tranh “Mùa biến thể” của
ông, màu sắc được biến hóa, đẩy theo một “trường” rất khác với sơn mài từ
trước đến nay. Những gam màu quen thuộc tưởng chừng không thể thiếu của
sơn mài truyền thống Việt Nam như son, bạc, trứng bỗng dưng thiếu vắng,
chúng gần như bị loại bỏ, chỉ xuất hiện nhấn nhá với tần suất rất kiệm. Và sơn
ta cũng chỉ trở thành chất kết dính cho các chất liệu, vật liệu mới do chính họa
10


sỹ tạo ra. Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Quân từng nhận xét “… Bảng
màu được mở rộng với các gam lạnh, nhẹ cùng sự thoáng qua khó nắm bắt.
Võ Xuân Huy không nương nhờ vẻ đẹp vàng son, trầm ấm hay cái điệu đà,
duyên dáng của sơn mài ‘cổ’…”.
Với thời gian, các họa sỹ sơn mài hiện đại Việt Nam đã “chơi” với sơn
và thăng trầm cùng sơn. Tuy nhiên, thiết nghĩ dù hiện đại đến đâu, các họa sĩ
có biến thể những đặc tính về màu của chất liệu này để phù hợp với nền mỹ
thuật hiện đại ngày nay, nền tảng cho những sự cách tân, theo một cách nào
đó ta vẫn phải giữ được ngôn ngữ độc đáo của sơn mài mà những chất liệu
khác không thể hiện được. Biết cải tiến, cách tân đúng cách và đúng chừng
mực, không lạm dụng hay quá dễ dãi trong việc sử dụng chất liệu sẽ làm nghệ
thuật sơn mài ngày càng phát triển hơn.
2.2. Sự cách tân về quy trình kĩ thuật

a. Quá trình tạo hình
Với nghệ thuật sơn mài truyền thống, quá trình tạo hình theo nguyên tắc
cơ bản là tô sơn vẽ các chi tiết của hình trước, tô mảng màu rồi tiếp đến phủ
phông nền sau cùng. Về cơ bản màu vẽ sơn mài là hỗn hợp màu bột và chất
nhựa sơn thường được thể hiện bằng cọ, tuy nhiên hiện nay nhiều họa sỹ đã
sử dụng phương pháp xịt màu thay vì vẽ màu bằng cọ như phương pháp
truyền thống. Sử dụng phương pháp xịt khắc phục được nhược điểm khô
nhanh mà sơn Nhật gặp phải khi ta vẽ ở diện tích lớn. Phương pháp này cũng
tạo một lớp màu khá mỏng và phẳng, không gặp phải tình trạng gồ ghề do tô
không đều tay như vẽ cọ. Nó phù hợp với phong cách tạo hình với những
mảng khối đơn giản. Tuy nhiên nếu không xử lí tốt quá trình xịt, độ chuyển
màu và các chi tiết sẽ kém tinh tế hơn so với vẽ màu bằng cọ. Họa sỹ Hà Văn
Chước là một ví dụ về việc thể nghiệm phương pháp xịt để tạo độ phẳng lì
cho phần không gian trong tác phẩm “Người đàn ông” (Hình 6).
Một phương pháp tạo hình mới khác cũng cần nhắc đến đó là phương
pháp in. Một số họa sỹ đã sử dụng phương pháp này để in một số hình ảnh lên
tác phẩm tạo nên độ thực về hình ảnh cho đối tượng. So với việc kì công tả
thật giống đối tượng, phương pháp in giúp người họa sỹ thuận tiện hơn trong
việc tạo hình. Tuy nhiên đó chưa hẳn là lí do mà các họa sỹ sử dụng phương
pháp này. Đây còn là cách mà các họa sỹ thể hiện những thể nghiệm mới mẽ
11


trong tác phẩm của mình, nó tạo nên cái nhìn mới lạ trong nghệ thuật sơn mài.
Có khá nhiều phương pháp in được các họa sỹ sử dụng. Có người sử dụng bản
photo đặt lên mặt tranh rồi dùng dầu hỏa thấm lên giấy và chà để hình ảnh in
lên vóc, cũng có họa sĩ sử dụng phương pháp in lưới để in hình ảnh. Tuy
nhiên có một điểm chung là họ đều sử dụng một chất gốc nước ví dụ như
acrylic phủ lên sau đó để bảo vệ và cuối cùng phủ cánh gián như bình thường.
Trong một số tác phẩm của mình, họa sỹ Tô Trần Bích Thúy đã sử dụng

phương pháp in để tạo hiệu ứng. Với việc sử dụng nhiều hình ảnh tờ tiền đô la
Mỹ trong tác phẩm “Bóng danh vọng” (Hình 7), phương pháp in đã giúp tác
giả thuận tiện hơn trong quá trình sáng tác và hiệu quả mang lại cũng tốt hơn
rất nhiều so với việc tả từng hình ảnh tờ tiền. Phương pháp in còn giúp tạo độ
phẳng cho các chi tiết tránh tình trạng gồ ghề trong quá trình vẽ dẫn đến sự
mất hình khi mài. Hay việc in những chi tiết trên báo lên hình tượng những
chiếc máy bay giấy trong tác phẩm “Tôi mơ 1” (Hình 4) của Hoàng Ngọc Tú
cũng cho ta thấy được sự lạ mắt. Với việc đưa pop art vào tranh sơn mài, họa
sỹ đã phần nào thành công khi đưa phương pháp in vào quá trình sáng tác, nó
góp phần thể hiện đặc trưng của thể loại pop art. Bên cạnh đó, cũng có
phương pháp in lá lên màu để tạo hình ảnh gân lá một cách chân thực nhất
bằng cách dán lá ngay lên lớp màu đang còn ướt để tạo độ nổi hoặc ấn lá chìm
xuống trên lớp màu dày đặc đang còn ướt. Một số tác phẩm sơn mài của họa
sỹ Phan Hải Bằng đã áp dụng phương pháp in lá để tạo hiệu quả thị giác mới
lạ. Việc lặp lại hình ảnh những chiếc lạ tạo nên lớp không gian cho tác phẩm
đã được tác giả thực hiện bằng phương pháp này. (Hình 8)
Ngoài ra, một số họa sỹ còn tạo hình ngay chính trong quá trình tạo vóc.
Đây cũng là một thể nghiệm mới lạ cho nghệ thuật sơn mài. Giờ đây tấm vóc
không còn đơn thuần là vật liệu cơ bản để các họa sỹ vẽ mà nó trở thành một
phương pháp tạo hình. Không còn sự phẳng đầy như trạng thái vốn có của nó,
thay vào đó là vô số hình tượng được tạo nên bằng chính sự cắt gọt. Tuy
nhiên, phương pháp này đòi hỏi sự tính toán kĩ lưỡng của người họa sỹ ngay
bước đầu làm vóc. Một lần nữa ta phải nhắc đến họa sỹ Tô Trần Bích Thúy
với việc sử dụng thành công phương pháp này trong các tác phẩm của mình.
Cũng trong tác phẩm “Bóng danh vọng” (Hình 7) không còn tồn tại sự phẳng
đầy trên một tấm vóc hoàn chỉnh của sơn mài truyền thống mà thay vào đó là
sự khuyết đi tạo những khoảng trống không gian cho tác phẩm.
12



Bên cạnh những phương pháp tạo hình mới này, còn khá nhiều thể
nghiệm khác được các họa sỹ áp dụng để tạo dấu ấn riêng cho các tác phẩm
của mình. Nhưng dù họ có sử dụng phương pháp nào đi nữa, sự truyền thống
bằng cách vẽ màu vẫn tồn tại đâu đó trong tác phẩm của họ bởi đây vẫn là
phương pháp tạo hình chủ yếu tạo nên một tác phẩm sơn mài.
b. Quá trình phủ
Từ truyền thống cho đến hiện tại, giai đoạn phủ luôn đóng một vai trò
quan trọng giúp cho tác phẩm không bị xước xát, bay màu. Ngoài ra phủ cánh
gián cũng là một khâu vẽ màu cho tác phẩm qua lối vẽ màu gián tiếp, nó tạo
độ thẫm mỹ cho tranh khi tạo thêm thâm độ hoặc chuyển màu khác. Theo
cách vẽ cổ điển, lớp phủ sơn cánh gián là bắt buộc. Tuy nhiên, ngày nay,nhiều
họa sỹ đã bỏ qua khâu phủ hoặc chỉ phủ cục bộ để tạo một số hiệu quả đặc
biệt cho tác phẩm và giúp tác giả thực hiện ý đồ của mình.
c. Quá trình mài
Sau những công đoạn tạo hình, phủ cánh gián, để khô sơn là khâu mài.
Đây là công đoạn quan trọng góp phần tạo nên một tác phẩm sơn mài với
ngôn ngữ độc đáo. Do vẽ nhiều lớp màu chìm bên dưới, khi mài mới lộ ra nên
người họa sỹ có được những tình tiết tình cờ, ngẫu nhiên quý báu. Có thể thấy
khâu mài không chỉ để lấy phẳng mặt tranh mà mài tranh chính là tham gia
vào quá trình hoàn thiện các cảm xúc nghệ thuật và ý tưởng sáng tạo. Họa sỹ
Nguyễn Gia Trí từng nói “mài cũng là vẽ”. Tuy nhiên gần đây đã có nhiều sự
thay đổi trong kỹ thuật mài. Cách mài tranh không nhất thiết phải mài nhẵn
hoàn toàn mà tùy thuộc vào hiệu quả nghệ thuật mà người họa sỹ mong muốn
thể hiện trong tác phẩm của mình. Tác phẩm của họ không hoàn toàn mài hết
mà có chỗ mài có chỗ để nguyên các vệt bút đôi khi đắp nổi.
Theo họa sỹ Lê Huy Tiếp - Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật Hội Mỹ thuật
Việt Nam: “Sơn mài thế giới gọi chung là lacquer (vẽ bằng chất liệu sơn) tức là có mài hay không cũng không quá quan trọng, còn ở Việt Nam, sơn mài
có nghĩa là sơn và mài”. Song cũng theo ông, ông không phản đối về việc
dùng các chất liệu sơn khác nhau trong dòng tranh sơn mài kể cả việc không
mài trong tranh mà điều quan trọng là bức tranh đó phải đẹp thể hiện nhiều

cách nhìn, cách vẽ sáng tạo làm cho người xem có được cái nhìn rộng hơn,
phong phú hơn. Hay theo họa sỹ Nguyễn Tường Linh – chủ nhiệm “Nhóm
13


họa sĩ sơn ta” - cho rằng “Chúng tôi tôn trọng phong cách sáng tác của mỗi
tác giả. Hiện tại cũng chưa đặt ra chuyện phải mài hay dùng màu truyền
thống, nhưng về cơ bản các tác phẩm phải được sáng tác bằng sơn ta và vóc
truyền thống”.
Nói đến khái niệm “mài” và “phẳng”, không thể không nhắc đến họa sỹ
Võ Xuân Huy. Đây là người họa sỹ đã đưa đến cho nghệ thuật sơn mài những
cái nhìn mới táo bạo, đôi lúc người ta còn gọi nó là “phi sơn mài”. Ông đã tìm
tòi, thể nghiệm và mang đến cho người xem những dạng biến thể của sơn
mài. Ngắm nhìn tranh của Võ Xuân Huy, ta cảm nhận được những bề mặt gồ
ghề, co cụm hay rạn nứt nổi lên trên bề mặt vóc. Họa sỹ quan niệm “sơn mài
có thể không mài” và như nhận xét của nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn
Quân trong bài viết “Hiện đại hóa truyền thống”: “Tôi thấy họa sỹ đã không
xuất phát từ bề mặt đã hoàn thành của sơn mài để dùng nó như một ngôn ngữ
có sẵn cho sự biểu hiện mà từ chính bên trong quá trình phôi thai của chất
liệu. Những đặc điểm chất liệu và kỹ thuật từ rạn vỡ, nhăn co tới mài bóc, đắp
phủ… được “thuần hóa” và sử dụng rất chủ động để cảm hứng sáng tác được
hiện hình trực tiếp, trực diện, tức thời…”. Xem “Mùa biến thể”, cũng vóc,
sơn, rồi các bước thực hiện y như sơn mài truyền thống nhưng về bề mặt, họa
sỹ đã thêm rất nhiều thứ mà không bao giờ nhìn thấy trong chất liệu truyền
thống, và đặc biệt là sự “không mài”. Một câu hỏi khác được đặt ra là liệu sơn
mài có bắt buộc phải phẳng không mà theo họa sỹ Võ Xuân Huy tùy ý đồ,tư
tưởng mà tranh cần có độ phẳng hay không, nhiều hay ít. Gọi là cách tân khi
kỹ thuật phải gắn với ý tưởng, nếu không có ý đồ,tư tưởng thì đắp nổi, lồi
lõm...chỉ là hình thức sáo rỗng.
2.3. Sự cách tân về hiệu quả tả chất

Ngoài những cải tiến, cách tân về chất liệu hay quy trình kỹ thuật, việc
các họa sỹ tìm kiếm cho mình những phương pháp tả chất mới lạ, độc đáo đã
tạo nên sự đa dạng, phong phú hơn về kỹ thuật của hội họa sơn mài Việt
Nam.
a. Đắp nổi
Vào thời kỳ trước khi nghề sơn trở thành chất liệu hội họa, các nghệ
nhân nghề sơn đã áp dụng phương pháp đắp nổi để tạo nên một số hình nổi
cho các sản phẩm mỹ nghệ. Thời đó, người ta sử dụng loại đất sét tinh lọc kĩ
14


hoặc tro mo cau nhào kỹ với nhựa sơn và giấy bản để tạo hình đắp nổi. Sau
hai, ba lớp sơn thí các nghệ nhân lên màu như thường. Gần đây, các thế hệ
các họa sỹ trẻ đã tìm tòi những phương pháp đắp nổi khác để phù hợp với
chất liệu sơn mài trong quá trình tạo nên một tác phẩm.
Trong nhiều tác phẩm, tác giả sử dụng sơn ta như một chất keo để gắn
những chất liệu khác vào tác phẩm của mình như sỏi, mùn cưa, tượng nhỏ...
Trong triển lãm lần thứ nhất của 38 tác giả thuộc “Nhóm họa sĩ sơn ta” vào
năm 2013, có nhiều họa sỹ đã sử dụng phương pháp đắp hoặc dán vật liệu để
bức tranh dày lên và qua đó truyền tải đến người xem những thông điệp khá
hay.
Không có một nguyên tắc cụ thể nào cho kỹ thuật đắp nổi. Một lần nữa
tôi muốn nhắc đến họa sỹ Võ Xuân Huy bởi ông đã tạo ra một thứ ngôn ngữ
mới cho sơn mài ngay cả về kỹ thuật đắp nổi. Họa sĩ đã “cho cả” đất bùn, vỏ
lon, sành sứ, nĩa và nhiều thứ khác vào tranh. Những tác phẩm như “Hóa
thạch đương đại” (Hình 9)… thể hiện khá rõ sự tổng hợp các chất liệu này.
Trước khi làm sơn ta, ông dùng sơn Nhật để gắn các vật có sẵn vào mặt tranh,
sau đó dùng đất trộn sơn để tạo hình,cuối cùng mài lấy độ phẳng tương đối rồi
dùng sơn ta để tạo màu. Tuy nhiên, ở đây, mặt phẳng trong nghệ thuật tranh
sơn mài truyền thống Việt Nam đã không còn cố hữu. Mặt phẳng ấy còn có

thể chủ động cho mòn khuyết đi, nứt nẻ hoặc được vun cao lên một cách đa
dạng bất thường. Võ Xuân Huy đã gặt hái thành công với những cách tân mới
lạ của mình trong các phương pháp tạo chất cho tác phẩm.
Một kỹ thuật khác là dùng keo axit và bột đá hòa trộn với sơn cánh gián
tạo nên hỗn hợp có thể sử dụng để đắp nổi các chi tiết trong tranh. Họa sỹ Hà
Văn Chước đã sử dụng phương pháp đắp nổi này để thể hiện các hình tượng
trong tác phẩm “Hồn đất và người” (Hình 10). Ngoài phần không gian, tác giả
gần như đắp nổi tạo khối cho toàn bộ các chi tiết chính như hình tượng người
hay những chiếc chum đèn. Với phương pháp này, họa sỹ đã quyết định mài
hoặc không mài một số chi tiết nhằm thể hiện ý đồ của mình. Ví dụ như ở
phần hình tượng người, ông đã không mài hoặc mài rất ít để tạo sự gồ ghề,
nhăn nhúm cho hình tượng (Hình 11,12,13). Tuy nhiên ở hình tượng chum
đèn, sau khi vẽ màu lên chi tiết, tác giả đã mài đi một phần để lộ một số hiệu
quả màu và tạo độ bóng tương đối cho chi tiết. (Hình 14)
15


Qua một số dẫn chứng, ta có thể thấy phần lớn một tác phẩm sơn mài sử
dụng kĩ thuật đắp nổi sẽ không đạt được tiêu chí phẳng như sơn mài truyền
thống. Bên cạnh đó, đa phần các họa sỹ đều không mài hoặc mài rất ít để thể
hiện ý đồ của mình.
b. Bột kim loại
Hai vợ chồng nghệ sỹ người Đức Christiane Campioni và Tobias
Kuester-Campioni là hai họa sỹ đã mất nhiều năm để nghiên cứu và tìm ra
phương pháp sử dụng các nguyên liệu trong sáng tác sơn mài của Việt Nam
để làm nên các tác phẩm có sự hòa trộn giữa phương Đông và phương Tây
thông qua việc sử dụng kim loại - với ý nghĩa biểu tượng về nguồn gốc châu
Âu của người nghệ sỹ kết hợp với chất liệu sơn mài, vốn có nguồn gốc từ
châu Á, sáng tạo nên những nét vừa mới lạ, vừa hòa hợp. Họa sỹ Christiane
đã khám phá ra chất liệu mới là bột kim loại nhằm giúp bà có thể làm sơn mài

trong điều kiện khí hậu ôn đới. Sự kết hợp giữa chất liệu mới với những mảng
vỏ trai gắn theo kiểu truyền thống Việt Nam giúp tạo ra được sự tương phản
về chất giữa trơn và xốp, giữa động và tĩnh mang lại những ấn tượng, những
hiệu quả rất tốt, rất cao. Bà đã xử lý tài tình chất bột kim loại như kẽm, đồng,
sắt, thép cán… cùng kỹ thuật sơn mài truyền thống Việt Nam tạo nên những
gam màu đa dạng và phong phú. So với những chất liệu kim loại truyền thống
của Việt Nam ở dạng dát mỏng như vàng lá, bạc lá… chất bột kim loại của
Christiane thuận lợi hơn về khả năng phủ kín bề mặt. Bên cạnh đó, với việc
ăn mòn và bị gỉ, đổi màu theo thời gian của một số kim loại đã tạo cho tác
phẩm của cô có vẻ cổ kính như hiệu ứng mà bà mong đợi. Họa sỹ cũng sử
dụng kỹ thuật ghép, lồng, cẩn các chất liệu ốc, trai, vỏ trứng, tre nứa, gỗ... để
tạo sức hấp dẫn của bề mặt tác phẩm. Những tác phẩm trong triển lãm “ Trăng
mùa gặt” của Christiane Campioni và Tobias Kuester - Campioni hầu hết
được tạo nên từ các mảnh xà cừ, cũng có khi là đồng trên nền đặc trưng kim
loại tạo hiệu ứng như thể không gian phủ đầy ánh trăng. Trông bức tranh như
thể được thực hiện trên tấm vóc bằng kim loại nhưng thực chất họ sử dụng
bột kim loại kết hợp với một chất keo lỏng phủ lên bề mặt vóc sau đó dùng
máy để mài, chứ không dùng tay như sơn mài truyền thống. Hai vợ chồng họa
sỹ người Đức này vẫn sẽ tiếp tục nghiên cứu để kết hợp sơn mài với nhiều
kim loại khác mà trước hết họ đang thử nghiệm với bạch kim.
16


Có thể thấy việc giao lưu văn hóa – nghệ thuật với nước ngoài đã phần
nào tạo điều kiện để phát triển nền hội họa sơn mài. Việc nghiên cứu, tìm tòi
những cách tân trong chất liệu sơn mài không chỉ diễn ra đối với các họa sỹ
trong nước, các họa sỹ nước ngoài với niềm đam mê sơn mài Việt Nam, họ
cũng không ngừng tìm tòi những chất liệu, phương pháp vẽ sơn mài mới để
phù hợp với những điều kiện chủ quan và khách quan ở chính đất nước của
họ. Sơn mài sẽ ngày càng gần hơn với hội họa thế giới khi mà bất cứ nơi nào

nó vẫn có thể tồn tại dù ở dưới dạng biến thể nào.
c. Bề mặt nứt nẻ, nhăn nhúm và nhẵn mòn
Nứt nẻ, nhăn nhúm và nhẵn mòn là ba trạng thái biến thể luôn tồn tại
trong tranh của họa sỹ Võ Xuân Huy. Ông là một người họa sỹ luôn muốn
dùng kỹ thuật cách tân để bảo vệ các giá trị chân chính của truyền thống. Ông
mang đến cho sơn mài những khái niệm khá mới mẽ, cái nhìn biến thể các
trạng thái thực thể trên bề mặt tưởng chừng như chỉ có sự cố hữu của mặt
phẳng nhẵn bóng bằng chính chất liệu sơn ta truyền thống. Họa sỹ đã tạo nên
hiệu quả nứt nẻ từ quá trình bốc hơi của chất liệu. Để tạo hiệu quả nhăn, tác
giả sử dụng phương pháp sơn cháy khi đắp dày sơn để lâu mà tạo ra. Bên
cạnh đó, trước khi dùng sơn ta, ông còn dùng sơn công nghiệp, đất để tạo hình
bên dưới tạo nên độ nổi khối. Sự nhẵn mòn được tạo ra thông qua giai đoạn
mài một số mảng màu theo ý đồ của tác giả. Với tác phẩm “Hóa thạch đương
đại” (Hình 9), ta thấy được sự kết hợp giữa yếu tố nứt nẻ như một sự khô cằn
của môi trường đôi chỗ nhăm nhúm tạo nên sự biến đổi của bề mặt. Bên cạnh
đó là hình thức đắp nổi, gắn những vật liệu như vỏ lon, nĩa… tạo nên một sự
khác biệt mà có lẽ chưa từng có trong nghệ thuật sơn mài trước đó. Ở tác
phẩm “ Mùa xanh” (Hình 15) là một bề mặt nhăn, gợn sóng kết hợp với gam
màu xanh dương dường như đã thoát khỏi thứ gọi là bảng màu truyền thống.
d. Khắc lazer và máy CNC
Máy CNC là loại máy khắc, cưa lộng hoặc chạm nổi được điều khiển
bằng máy tính được sử dụng rộng rãi trong sản xuất đồ mỹ nghệ. Ngày này
một số họa sỹ đã thử nghiệm loại máy này trong sáng tác. Thay vì in, nó cho
phép người họa sỹ khắc hình ảnh ngay từ máy tính bằng đầu mũi dao kim loại
lên vóc hoặc các mảng cẩn trứng và giúp người họa sỹ có được những đường
nét tạo hình chi tiết hơn, tinh vi hơn.
17


Bên cạnh đó, một dạng khắc khác cũng được sử dụng, đó là khắc lazer.

Khác với việc khắc bằng đầu mũi dao kim loại, phương pháp này sử dụng tia
lazer để khắc các đường nét hình tượng lên mặt vóc. Nghệ sỹ Bic Tieu là
người đã sử dụng dạng khắc lazer để áp dụng vào việc tạo hình cho các sản
phẩm trang sức bằng sơn mài của mình.
3. Nhận xét
Với những cải tiến, cách tân về kỹ thuật của chất liệu sơn mài, một điều
có thể nhận thấy rằng sơn mài đang dần phát triển theo xu hướng tất yếu của
nền mỹ thuật thế giới. Sự truyền thống hay cách tân đều có những điểm mạnh
và điểm yếu của nó. Nếu ta cứng nhắc áp dụng những khái niệm xưa cũ chỉ
phù hợp với thời đại lúc bấy giờ thì sơn mài sẽ dần mất đi chỗ đứng của mình,
nhưng nếu quá lạm dụng vào những thứ mới mà quên đi truyền thống, sơn
mài cũng sẽ dần biến dạng thành một thứ gì đó khác xa với nguyên căn bản
chất của nó. Sử dụng sơn công nghiệp thay cho sơn ta, những loại màu rẻ tiền
thay cho những màu son khan hiếm, mài hay không mài, những phương pháp
tạo hình khác xa với lối vẽ cũ… liệu là sự lựa chọn đúng hay không đúng của
thế hệ họa sỹ trẻ ngày nay, chưa một ai có thể trả lời khẳng định cho câu hỏi
này bởi lẽ nó tùy thuộc vào việc người họa sỹ đó có sự nhìn nhận như thế nào
về truyền thống và cải tiến, cách tân.
Trong bài viết này tôi chưa đề cập đến vấn đề tốt xấu, đúng sai đối với
những cải tiến hay cách tân mà các họa sỹ sử dụng, tôi chỉ đưa ra một số so
sánh về ưu điểm và nhược điểm mà cả những vật liệu, quy trình kỹ thuật của
sơn mài truyền thống và sơn mài được cải tiến, cách tân gặp phải để có một
sự nhìn nhận bao quát hơn về sự phát triển của hội họa sơn mài Việt Nam.
Nhưng ta thấy rõ ràng một điều rằng những sự thay đổi đó là điều thiết yếu
khi các họa sỹ luôn muốn tìm đến sự thuận tiện trong quá trình sáng tạo mà
vẫn giữ được tính thẩm mỹ cho tác phẩm và thể hiện được đúng ý đồ của tác
giả. Bởi lẽ, giá trị của tác phẩm nghệ thuật không chỉ được khẳng định ở việc
sử dụng nguyên liệu và biện pháp kỹ thuật mà còn được khẳng định ở các giải
pháp tạo hình, đặc biệt là sự tổng hòa các quan hệ giữa bố cục, hình tượng,
màu sắc và những dạng chất trên bề mặt tranh.

II. Liên hệ bản thân
1. Cảm xúc thực tế
Thiên nhiên và con người luôn là hai yếu tố tạo nên vẻ đẹp muôn màu
của sự sống. Hai yếu tố này tồn tại độc lập nhưng tác động lẫn nhau. Sự giao
hòa giữa thiên nhiên và con người là điều cần thiết để tạo nên cân bằng cho
18


cuộc sống, đây chính là nền tảng tạo nên cái đẹp. Khoảnh khắc mà hai yếu tố
này hòa chung nhịp thở là lúc ta cảm nhận cuộc sống thật tươi đẹp và an lành.
Tôi tìm kiếm sự hòa quyện giữa thiên nhiên với con người trong thực tại, đưa
nó vào tác phẩm của mình để rồi gửi đến người xem cái cảm giác an yên của
cuộc sống.
Với loạt tác phẩm tốt nghiệp, tôi muốn thông qua hình tượng người
thiếu nữ và thiên nhiên để thể hiện sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người.
2. Hình tượng nghệ thuật
Xuyên suốt bốn tác phẩm là hình tượng người thiếu nữ đang hòa quyện
trong thiên nhiên đầy màu sắc. Tôi đi tìm vẻ đẹp thiên nhiên tồn tại trong
những cánh bướm hay hoa lá. Tác phẩm của tôi có khi chỉ đơn giản là hình
tượng khuôn mặt đang hòa quyện vào những cánh bướm trong tác phẩm
“Giao hòa” (Hình 19) hay hình ảnh bán thân của người thiếu nữ đang ẩn hiện
sau bụi hoa quỳnh ngát hương trong tác phẩm “Hương đêm” (Hình 20). Cũng
có thể là sự phức tạp giữa sự chồng lấp các mảng khối đan xen hình tượng
người thiếu nữ với thiên nhiên hoa lá trong hai tác phẩm tốt nghiệp “Bên hoa”
(Hình 21) và “Những cô gái và hoa thiên điểu” (Hình 22).
3. Phong cách tạo hình
Với sự lựa chọn chất liệu sơn mài để thể hiện loạt tranh tốt nghiệp,
những hình tượng tôi xây dựng theo hướng phù hợp với chất liệu nhưng vẫn
thể hiện được chủ đề tư tưởng ban đầu. Tôi muốn thể hiện một thứ gì đó mới,
muốn thiên nhiên và con người có thể hòa quyện ngay chính trong sự đối lập.

Tuy phong cách tạo hình của hai tác phẩm tiền tốt nghiệp hướng đến sự đơn
giản về cả hình tượng chính và không gian có đôi chút khác biệt với hai tác
phẩm tốt nghiệp có xu hướng phức tạp hơn với sự đan xen các mảng khối
nhưng chúng vẫn mang trong mình một ý nghĩa nội hàm không thay đổi, đó là
sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người.
4. Phương pháp tạo hình
Với hai tác phẩm tiền tốt nghiệp, tôi chọn cho mình cách tạo hình mảng
khối đơn giản với phần hình tượng chính và không gian mang tính ước lệ khá
cao. Với hai tác phẩm tốt nghiệp, tôi xây dựng hình tượng khác so với hai tác
phẩm trước với sự đan xen, chồng lấp các lớp đối tượng. Xuyên suốt loạt tác
phẩm, để tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên với con người, tôi đã xây dựng
19


hình tượng người thiếu nữ theo phương pháp đơn giản hóa với sự tối giản về
mảng khối bên cạnh sự tạo hình đa dạng và phức tạp của yếu tố thiên
nhiên.Và sự ẩn hiện, chồng lấp giữa các hình tượng chính là yếu tố tạo nên sự
giao hòa giữa hai yếu tố thiên nhiên và con người trong tác phẩm của tôi.
Với đề tài này, tôi chọn một số gam màu tươi để thể hiện sức sống tràn
đầy của thiên nhiên. Tuy nhiên, tùy thuộc vào ý đồ của từng tác phẩm mà tôi
xử lý bằng những hòa sắc khác nhau. Ở tác phẩm “Hương đêm”, phần không
gian được thể hiện bằng hòa sắc tím với thâm độ tối nhằm tạo cho người xem
cảm giác của màn đêm tĩnh lặng. Tác phẩm “Giao hòa” lại được thể hiện theo
một cách khác khi tôi sử dụng cặp màu tương phản đỏ - lục cho toàn tác phẩm
để thể hiện sự giao hòa bởi đây chính là cặp màu tương phản đã đem lại cảm
giác trắng cho thị giác, điều này tạo cho tác phẩm của tôi có sự hài hòa ngay
chính trong sự đối lập. Tác phẩm “Một người” tôi cũng xử lý bằng hai gam
màu tương phản đỏ ở hình tượng người và lục cho thiên nhiên để tạo sự hài
hòa trong đối lập. Đây là cách mà tôi muốn đánh lừa thị giác người xem,
tưởng chừng như các yếu tố ấy đối lập nhau nhưng nó lại chính là sự hòa

quyện. Và với tác phẩm “Bên hoa thiên điểu” tôi lại chọn cách giải quyết sự
đối lập bằng nhiều gam màu rực rỡ của thiên nhiên bên cạnh sự tối giản về
màu của hình tượng người để rồi lồng ghép các yếu tố ấy vào nhau để tạo nên
sự hòa hợp.
Tôi chọn hình thức không gian ước lệ và hình thể của đối tượng có sự
cường điệu hóa về đường nét lẫn màu sắc. Những đường nét uốn lượn của hoa
lá hay những cánh bướm cùng với đường cong hình thể của người thiếu nữ
tạo nên sự mềm mại cho hình tượng và tính nhịp điệu cho tác phẩm.
5. Kỹ thuật chất liệu
Bằng những gì đã học được qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi những tư
liệu, thông tin liên quan đến sơn mài và những sự thay đổi của chất liệu này
theo thời gian nhằm phục vụ cho đề tài khóa luận, tôi đã áp dụng được một số
kĩ thuật mới vào loạt tác phẩm tốt nghiệp của mình. Những áp dụng đó có thể
thành công hoặc không nhưng tôi tin rằng những kĩ thuật đó sẽ giúp tôi đạt
được ý đồ ban đầu mà mình đặt ra và phần nào truyền tải được nội hàm ý
nghĩa mà tôi muốn truyền tải đến người xem qua từng tác phẩm. Xuyên suốt
loạt tác phẩm tốt nghiệp, tôi quyết định sử dụng sơn Nhật làm chất kết dính
20


chính trong quá trình tạo nên tác phẩm. Với chủ đề về thiên nhiên và con
người, ngay từ giai đoạn hình thành ý tưởng và tìm phác thảo tôi đã sử dụng
những gam màu khá tươi tắn để thể hiện sự sống của thiên nhiên. Chính điều
này đã hướng tôi đến việc sử dụng sơn Nhật thay thế sơn ta. Với những đặc
tính, ưu điểm sơn Nhật có được mà tôi đã phân tích và nêu ra ở những phần
trên, nó giúp tôi thể hiện được ý đồ ban đầu của mình, nó giúp tôi thoát ra
khỏi sự u tối bởi những bảng màu truyền thống, tạo nên sức sống cho thế giới
thiên nhiên mà tôi tạo ra bằng những gam màu tươi sáng. Bên cạnh đó là việc
sử dụng một số kỹ thuật mới để tạo nên những hiệu quả thị giác cho các tác
phẩm.

Với tác phẩm “Giao hòa”, việc sử dụng sơn Nhật đã giúp tôi tạo nên sự
đối lập khá rõ giữa hai gam màu tương phản đỏ - lục ở phần không gian với
thâm độ rực nhất có thể. Việc áp dụng cách cẩn trứng không đục nền vóc của
sơn mài truyền thống nhưng thay vì trải qua nhiều đợt mài và vẽ màu để có
được một nền vóc phẳng đều nền vỏ trứng, tôi lại chọn cách để những mảng
trứng tương đối nổi trên bề mặt vóc với mục đích tạo độ nổi khối cho những
cánh bướm tách biệt với phần không gian nền. Bên cạnh đó, ở mảng dán bạc
lá trên khuôn mặt, sau khi phủ cánh gián, thay vì mài nhẹ phần cánh gián trên
bạc và tạo độ bóng, tôi đã sử dụng loại sơn xịt trong công nghiệp phủ lên lớp
bạc, những phần đọng nhiều cánh dán sẽ có độ bóng nhất định, còn phần ít
được bảo về với cánh dán, khi loại sơn ấy tiếp xúc với bạc sẽ không tạo độ
bóng mà tạo ra một hiệu quả mới.
Với tác phẩm “Hương đêm”, tôi cũng chọn cách làm nổi những chi tiết
hoa quỳnh được cẩn trứng trên bề mặt vóc. Ở phần dưới của lớp không gian
nền, sau khi phủ một lớp cánh gián mỏng, tôi chỉ mài nhẹ bằng giấy mài
2000, so với việc mài những mảng màu khác thì ở đây có thể nói gần như
mài mà không mài nhằm ẩn hiện lớp màu khá sáng dưới lớp cánh gián
mỏng. Bên cạnh đó, ở hình tượng người thiếu nữ, để thể hiện sự len lỏi của
ánh sáng lên cơ thể cô gái, tôi đã sử dụng phương pháp thổi nhũ bạc sống
lên lớp nhũ bạc đã được pha với cánh gián. Với mục đích bảo vệ lớp nhũ bạc
sống, tôi không mài và làm bóng bằng cách thông thường. Một lần nữa tôi
sử dụng phương pháp xịt bóng bằng sơn xịt trong công nghiệp để tạo độ
bóng và bảo về lớp nhũ.
21


Ở tác phẩm “Bên hoa”, ngoài việc sử dụng sơn Nhật để tạo độ tươi cho
màu (Hình 16), tôi còn sử dụng phương pháp xịt màu lên phần trứng ở mảng
không gian. Với việc rây trứng toàn bộ phần không gian, sử dụng phương
pháp xịt màu thay cho phương pháp vẽ màu bằng cọ sẽ giúp tôi hạn chế được

sự tiếp xúc với bề mặt trứng bởi lẽ sự chồng lên nhau và bề mặt tiếp xúc ít
làm khả năng kết dính của trứng rây khá kém so với các phương thức cẩn
trứng khác. Chính vì vậy nếu ta sử dụng cọ hay bay sừng và kéo màu lên bề
mặt trứng rây sẽ dẫn đến việc kéo theo những mảng trứng li ti không kết dính
ra khỏi bề mặt. Việc xịt màu lên trứng rây vừa không lấy những mảng trứng
nhỏ ra mà còn phần nào giúp những mảng trứng đó kết dính vào bề mặt. Hơn
thế, ta có thể xịt nhiều lớp màu mỏng sẽ thuận lợi hơn trong việc hòa trộn các
mảng màu với nhau mà không hề tác động đến phần trứng rây. Từng lớp màu
mỏng sẽ giúp tôi lấp đầy những lỗ hở nhỏ li ti giữa các mảng trứng nhỏ.
Phương pháp này cũng nhanh khô như việc sử dụng sơn Nhật. Tuy nhiên nó
cũng tồn tại một vài khó khăn trong quá trình thực hiện. Phương thức này đòi
hỏi sự chủ động hơn trong cách đi mảng và chuyển màu, bởi nếu dùng cọ hay
bay sừng sẽ dễ dàng chủ động hơn trong việc điều chỉnh sự hòa trộn màu theo
mong muốn. Bên cạnh đó, với điều kiện gió sẽ làm cho lớp sơn trong quá
trình xịt phân tán ra những nơi khác không theo sự chủ động của người họa
sỹ. Vì vậy để tránh tình trạng những mảng không mong muốn bị lan màu, tôi
phải tạo một lớp bảo vệ bằng giấy can khá mất công. (Hình 17)
Ngoài ra còn có một kĩ thuật mà tôi sử dụng trong tác phẩm “Bên hoa”
và tác phẩm “Những cô gái và hoa thiên điểu”, đó là kĩ thuật sơn nhăn bằng
sơn Nhật. Ở kĩ thuật nền vân sóng của sơn nhăn được nhắc đến trong cuốn
“Kỹ thuật sơn mài” của Nguyễn Đức Cường, ông đã nêu rõ phương thức làm
và kết quả đạt được. Thay vì quét một lớp sơn khá dày đặc để tạo những vân
sóng cuộn trên bề mặt, tôi chọn cách quét sơn mỏng để tạo nên một hiệu quả
khác và áp dụng nó ở phần tạo chất cho những mảng lá. Nếu sự dày đặc của
sơn tạo ra hiện tượng lớp ngoài khô ráo nhưng bên trong sơn vẫn bùng nhùng
chưa đông đặc, dưới tác dụng của xăng làm bốc hơi và co lại, nhăn nhúm lớp
sơn bên ngoài tạo những vân sóng thì việc làm mỏng lớp sơn để khi đổ xăng
vào, gần như sơn đã khô ráo lớp trong lẫn ngoài sẽ làm bốc hơi và kéo lớp
cánh gián mỏng co lại hoàn toàn tạo ra một hiệu quả khác so với sự vân sóng
22



nhẹ (Hình 18). Tuy nhiên, do đặc tính của sơn Nhật và chỉ sử dụng một lớp
sơn mỏng, đôi chỗ do sự bốc hơi khá nhiều đã làm phần sơn nhăn tách khỏi
hoặc không bám dính tốt với bề mặt vóc nên xảy ra tình trạng sau các công
đoạn vẽ màu, phủ, lúc mài sẽ lấy những phần sơn không bám ở bề mặt đi.
Chính điều này sẽ tạo nên những mảng đen lớn không mong muốn. Để khắc
phục điều này, trước khi tiến hành làm kĩ thuật sơn nhăn, tôi vẽ lên nền vóc
một lớp màu lót cùng gam với mảng màu tôi mong muốn, sau đó mới làm kĩ
thuật sơn nhăn.
Những kĩ thuật chất liệu trên là những bài học mà tôi có được trong quá
trình nghiên cứu về chất liệu sơn mài. Nó giúp tôi tạo được phần nào đó sự
tươi mới cho tác phẩm ngoài những kỹ thuật cơ bản mà tôi được học những
năm qua và giúp tôi thuận lợi hơn khi áp dụng những kỹ thuật mới so với kỹ
thuật truyền thống để thể hiện chủ đề tư tưởng của chuỗi tác phẩm tốt nghiệp.
6. Giá trị thẩm mỹ của chuỗi tác phẩm
Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố đường nét, mảng khối, bố cục, màu
sắc… sẽ tạo nên vẻ đẹp tổng hòa - một giá trị thẩm mỹ trong các tác phẩm
nghệ thuật. Với một đề tài mang màu sắc thiên nhiên, điều tôi cần thể hiện
được là hơi thở, sức sống tràn đầy của thiên nhiên để tạo nên một cảm giác
nhẹ nhàng, tươi mới khi hòa quyện yếu tố ấy với con người. Việc học hỏi và
sử dụng những kĩ thuật mới của chất liệu sơn mài đã phần nào giúp tôi đạt
được những hiệu quả thị giác mà mình mong muốn. Chính điều này đã giúp
tôi thành công trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng và mang lại giá trị thẩm mỹ
cao cho loạt tác phẩm.
Hình ảnh thiên nhiên và con người luôn tạo cho người họa sỹ một cảm
xúc bất tận. Ở đó, người họa sỹ có thể khai thác nhiều khía cạnh khác nhau,
nó có thể là sự bi thương của một thiên nhiên đang dần bị tàn phá, đó cũng có
thể là sự bình yên khi đứng trước một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, khi
ấy con người và thiên nhiên như hòa làm một. Ngoài giá trị thẩm mỹ từ vẻ

đẹp về phương pháp tạo hình hay kĩ thuật chất liệu, chủ đề này còn mang đến
cho người xem một giá trị về xúc cảm từ chính tâm hồn người họa sỹ.

23


PHẦN KẾT LUẬN
Từ nền tảng giá trị truyền thống được tích lũy qua bao thế hệ nghệ nhân
nghề sơn, các họa sỹ thời kì đầu của trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương
đã thổi một luồng gió mới cho nền hội họa Việt Nam với việc đưa nghề sơn
truyền thống trở thành chất liệu nghệ thuật tạo hình của Việt Nam. Sự kết hợp
giữa chất liệu Á đông với thủ pháp tạo hình hiện đại mang hơi hướng châu Âu
đã tạo nên một vẻ đẹp kì diệu, sự độc đáo và bí ẩn cho chất liệu sơn mài. Sơn
mài được khẳng định vị thế ngay từ những ngày đầu xuất hiện và dần trở
thành chất liệu tạo hình truyền thống của nền hội họa Việt Nam sánh vai với
nền mỹ thuật thế giới. Sơn mài mang trong mình những đặc tính riêng quý giá
và đậm bản sắc dân tộc. Với bốn đặc tính không thể thiếu của sơn mài cổ điển
Việt Nam: Phẳng - bóng - trong - sâu, nhiều tác phẩm của các họa sỹ Việt
Nam đã đạt được những thành công đáng ghi nhận trong nước và quốc tế.
Nếu các họa sỹ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trước đây luôn mang
nét đặc sắc, cái hồn của phương Đông trong cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ
của mình đối với chất liệu của dân tộc thì ngày nay, cũng với chất liệu ấy, các
họa sĩ trẻ đang khoác cho nó một chiếc áo mới với đủ mọi màu sắc, xu hướng
của thời đại bằng những thể nghiệm, tìm tòi với không ít những yếu tố bản
lĩnh và dũng cảm. Họ luôn không ngừng cách tân, mở mang từ phương thức
biểu hiện sáng tạo đến những nội dung mới mang nhiều phong cách. Cho đến
nay, sơn mài Việt Nam đã thoát xa ra khỏi những chuẩn mực gần như cố hữu
của nghệ thuật sơn mài cổ điển. Tuy có người thoáng trong cách nghĩ thì ủng
hộ, có người quá tâm huyết với sơn mài truyền thống thì phản đối, nhưng
công bằng mà nói không ít các tác phẩm của các họa sỹ sử dụng những kỹ

thuật sơn mài cách tân đã đạt đến những thành công nhất định, được mọi
người công nhận. Các họa sỹ trẻ ngày này luôn muốn tìm tòi, thể nghiệm
những điều mới lạ trên nền tảng chất liệu truyền thống để khai thác, khám
phá, sáng tạo... góp phần thúc đẩy sự phát triển nền nghệ thuật tạo hình của
đất nước bằng chính tài năng và nhiệt huyết của mình. Có thể nói các họa sĩ
đã biết kế thừa, phát huy sáng tạo từ chính chất liệu xưa cũ và đưa nghệ thuật
sơn mài Việt Nam thành một loại hình nghệ thuật độc đáo vừa đậm chất
truyền thống nhưng lại mang hơi thở hiện đại. Tuy nhiên, nếu không thật sự
hiểu và sử dụng đúng mục đích sáng tác, chính sự lạm dụng những kỹ thuật
24


mới cách tân mà mất đi hoàn toàn nền tảng từ sơn mài truyền thống sẽ là hồi
chuông báo động về những khuynh hướng lệch lạc của một số họa sỹ chạy
theo “kinh tế thị trường” đánh mất tính truyền thống của chất liệu dân tộc.
Trải qua những năm đầu được tiếp xúc với chất liệu sơn mài, học tập
những kỹ thuật cơ bản và tìm tòi những kiến thức về chất liệu kì lạ này, tôi
dần nuôi trong mình tình yêu với nó. Việc quyết định chọn sơn mài là chất
liệu thể hiện các tác phẩm tốt nghiệp là cách mà tôi khẳng định niềm đam mê
đó lần cuối cùng khi còn ngồi trên ghế nhà trường trước lúc khi vững bước
trên con đường theo đuổi nghệ thuật của mình. Qua quá trình nghiên cứu, tìm
tòi về chất liệu này, tôi càng biết hơn những gì mà các thế hệ họa sỹ đã làm
được, hiểu hơn về nền hội họa sơn mài truyền thống và những cải tiến, cách
tân của các họa sỹ ngày nay đã thể nghiệm. Điều này giúp tôi có một sự hiểu
biết nhất định để có thể áp dụng vào những tác phẩm nghệ thuật của mình. Đó
là những bài học quý giá sẽ giúp tôi tiến gần hơn đến nghệ thuật sơn mài và
khám phá ra những điều kì thú đằng sau chất liệu ấy. Với những bài học nền
tảng này, có lẽ sau này chính tôi sẽ tìm tòi và thể nghiệm những kỹ thuật mới,
mang lại một phong cách mới cho riêng mình trong sự nghiệp theo đuổi niềm
đam mê ấy, đồng thời đóng góp một phần nhỏ nào đó trong việc đem lại sắc

màu mới cho nền hội họa sơn mài Việt Nam để thứ chất liệu kì lạ và bí ẩn này
sẽ mãi cố hữu tồn tại song hành với nền hội họa Việt Nam và giữ được vị trí
độc tôn trên trường hội họa thế giới.

25


×