Tải bản đầy đủ (.pptx) (88 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT về GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH từ hợp ĐỒNG tín DỤNG BẰNG CON ĐưỜNG tòa án ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.11 KB, 88 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước
đã góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải tiến
nước nhà, mở ra nhiều cơ hội mới và cũng đặt ra những thách thức vô cùng
to lớn cho mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp trong đó không thể không nói đến
ngân hàng, một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở các nước đi lên từ nền kinh tế
bao cấp. Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển
của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh
toán…, phục vụ cho việc phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ
chức kinh tế, cá nhân. Trong hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động
truyền thống mang lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng nhưng cũng là
hoạt động tiềm ẩn những rủi ro vô cùng lớn. Biểu hiện của rủi ro tín dụng khi
khách hàng không hoàn trả gốc và lãi đúng hạn hoặc phát sinh ra những tranh
chấp trong hợp đồng tín dụng…
Trong những năm qua, pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp

luật

về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói riêng đã
được Nhà nước ta quan tâm và không ngừng hoàn thiện như: Bộ luật Dân sự
năm 2005, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, sửa đổi bổ sung 2011, Luật Ngân
hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn thi
hành…những văn bản trên tạo ra khung pháp lý quan trọng, tạo đà cho hoạt
động cho vay của các Ngân hàng phát triển, thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt được thì pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói riêng còn nhiều bất cập. Bằng
đề tài: “Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam”, với mong muốn nghiên cứu
những quy định



1


cơ bản của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng bằng con đường tòa án, đánh giá thực trạng áp dụng và các vấn
đề
phát sinh từ việc áp dụng các quy phạm pháp luật đó, từ đó đề ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài
Các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng
nói chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói
riêng

như: “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời hiệu khởi

kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng”, Th.s Nguyễn Quỳnh
Chi; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam
hiện nay” PGS.TS Nguyễn Như Phát, TS. Lê Thị Thu Thủy; “Tranh chấp
hợp đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của TS. Phan
Chí Hiếu; Sách chuyên khảo “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
của các tổ chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nhà Xuất
bản Tư pháp 2006, Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân
hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Ngô
Quốc Kỳ, Nhà Xuất bản Tư pháp, năm 2005. Các công trình nghiên cứu này
đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về
giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nói chung và hợp đồng tín dụng
nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài pháp luật về hợp đồng tín dụng
vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn còn

nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn.
Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản
về hợp đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong
thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Từ
đó, đề

2


xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam
hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật Việt
Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường
tòa án. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các quy định đó
trong thực
tiễn, chỉ ra những vấn đề phát sinh và bất cập, từ đó đề ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt
Nam. Qua đó, đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp
luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường
tòa án ở
Việt Nam hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp như : phương pháp thống
kê, khảo sát; phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật
Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con
đường tòa án.
9. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu với 2 chương như sau:

3


Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng tín dụng và giải
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam và một số kiến nghị.

4


CHưƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT SINH
TỪ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG BẰNG CON ĐưỜNG TÒA ÁN
1.
1.

Khái niệm, đặc điểm hợp đồng tín dụng
Khái niệm hợp đồng tín dụng


Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã
được quy định trong BLDS 2005. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường
hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân
hàng. Theo quy định tại điều 471 BLDS 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự
thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi
đến hạn
trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo
đúng số
lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật
có quy định”. Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng cho vay, theo đó
ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên
tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo
lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín
dụng.
Hợp đồng tín dụng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực
hiện hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng diễn
ra ngày một nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay
vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm
chính thức về hợp đồng tín dụng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của
5

hợp đồng tín dụng. Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải
được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về


điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay,
lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương

thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận [6, Điều 17]. Như
vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho vay
phải xác lập bằng hợp đồng tín dụng.
Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy
định về những nội dung cơ bản HĐTD phải có mà không đưa ra định nghĩa cụ
thể về HĐTD. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên
HĐTD cũng là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Từ khái niệm hợp đồng
dân sự được quy định theo điều 388 BLDS 2005: “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”, có thể hiểu“HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa
TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật định
(bên vay),
theo đó TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào mục
đích và trong một thời hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả
gốc và lãi
được xác định theo lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”.
Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận
trực tiếp của tổ chức tín dụng và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ
cho vay, xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong
việc vay và hoàn trả vốn vay.
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng tín dụng
HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có những
nét khác biệt cụ thể như sau:
- Hợp đồng tín dụng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức
văn bản. Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả
thuận cho vay và vay của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản.
6

Với HĐTD bằng văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm
bảo an



toàn pháp lý và khi có tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để
các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD là hợp đồng
theo mẫu, chủ thể cho vay là TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật
và phù hợp với quy chế cho vay của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận
những điều khoản trong hợp đồng mà không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa
đổi điều khoản theo hướng có lợi hơn cho mình. Sự tự do ý chí được thể hiện
thông qua việc khách hàng chấp nhận những điều khoản trong đó thì đồng ý
giao kết hợp đồng, ngược lại thì không giao kết. Thực tế cho thấy việc thỏa
thuận sửa một số điều khoản trong HĐTD theo mẫu ít xảy ra và chỉ xảy ra với
những tổ chức, cá nhân có uy tín, khoản vay lớn và TCTD có thể thu được lợi
nhuận lớn từ hợp đồng này.
Theo khoản 2, khoản 3 điều 407 BLDS 2005: “Trong trường hợp hợp
đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo
mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó. Trong trường hợp hợp
đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng
theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia
thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ khách hàng trong trường hợp
hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp
đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó hoặc điều
khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực khi
không có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình
thức pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng
thông điệp dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 124 BLDS 2005, “Giao dịch
dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp
dữ liệu được

7


coi là giao dịch bằng văn bản”; và điều 11, 12, 13, 14 Luật Giao dịch điện tử
năm 2005 thì dù hợp đồng tín dụng ngân hàng ký kết dưới hình thức nào
trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong quá trình
giao dịch. Trên thực tế thì hợp đồng tín dụng được ký kết dưới hình thức văn
bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra.
- HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình thức
tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời
gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi [6,
khoản 1 điều 3]. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động sinh
lời chủ yếu
của các TCTD và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền
kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là
một số tiền
xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.
-Một bên chủ thể của HĐTD bắt buộc là TCTD được thành lập và hoạt
động cho vay theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và các văn bản liên
quan; có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm ngân
hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD
(trường hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định.
-HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc, năng lực
chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay,
giới hạn vốn vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp
giải quyết tranh chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu
cầu bị cấm theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng không được cho
vay các nhu cầu vốn sau đây: để mua sắm các tài sản và các chi phí hình

thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để
8

thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm;

để


đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà pháp luật cấm” [6, Khoản 1
Điều 9]. Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các
trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng;
Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm
định, quyết định cho vay; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó
giám đốc)” [6, Khoản 1 Điều 19]. Đối với người vay là bố, mẹ, vợ, chồng,
con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do tổ chức
tín dụng xem xét quyết định” [6, khoản 3 Điều 19].
Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan
hệ tín dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý
đến nội dung của hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng
buộc các bên thực hiện đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần
giảm bớt các tranh chấp phát sinh và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động
kinh doanh của cả TCTD và khách hàng.
2.

Khái niệm, phân loại, nguyên nhân tranh chấp hợp đồng tín

dụng
1.


Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng

Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD là những tranh chấp
trong HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền
và nghĩa vụ hoặc lợi ích trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các
bên tham gia. Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự
xung đột, bất đồng về quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài
thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Theo TS. Bùi Ngọc
Cường, tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về quyền,
nghĩa vụ và lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể khi tham gia kinh doanh [21].
9


Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp
đồng là hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được
cam kết trong hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không
thống nhất của các bên về hành vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu
quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được thể hiện ra bên ngoài. Cho nên,
không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi khi
sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn
ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm hợp đồng
tín dụng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên
ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi
phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.
Như vậy, tranh chấp HĐTD là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay (ngân hàng) và
bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc
giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp…
1.2.2. Phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng

Khách hàng vay vốn có thể là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
hoặc không đăng ký kinh doanh và mục đích vay vốn để kinh doanh, sản xuất
hoặc tiêu dùng, sinh hoạt. Vậy, tranh chấp hợp đồng tín dụng có thể là tranh
chấp về hợp đồng dân sự và cũng có thể là tranh chấp kinh doanh,
thương
mại. Vậy khi nào tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp
đồng dân sự và khi nào là tranh chấp kinh doanh, thương mại? Để trả lời câu
hỏi này, ta cần nhận định rằng bản chất hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tài
sản. Vì vậy, HĐTD ngân hàng là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự xuất
phát từ hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay
mà bên vay là cá nhân, tổ chức và mục đích vay nhằm đáp ứng nhu cầu về
sinh hoạt và tiêu dùng thì hợp đồng tín dụng ngân hàng mang tính chất là một
hợp đồng

10


dân sự theo đúng nghĩa. Nếu ngân hàng thực hiện cho vay mà bên vay là các
cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh và mục đích nhằm đáp ứng cho nhu
cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thương mại thì hợp đồng tín dụng ngân
hàng mang tính chất là hợp đồng kinh doanh, thương mại. Do đó, tuỳ theo đối
tượng và mục đích trong hoạt động cho vay của ngân hàng mà chúng ta nhìn
nhận hợp đồng tín dụng ngân hàng ở gốc độ thích hợp.
Từ phân tích trên tác giả cho rằng tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng có hai loại :
-Thứ nhất, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp về hợp đồng dân
sự khi bên vay vốn là hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức không có đăng ký
kinh doanh và không có mục đích lợi nhuận.
-Thứ hai, tranh chấp hợp đồng tín dụng là tranh chấp kinh doanh thương mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều
có mục đích lợi nhuận.

* Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng :
- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay (ngân hàng) khi HĐTD có
hiệu lực, vì một lý do nào đó bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng xấu tới quyền và
lợi ích hợp pháp của bên vay.
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả gốc và lãi của bên vay. Rõ ràng khi cần
tiền để thực hiện kế hoạch, mục tiêu của mình thì khách hàng mới đi vay.
Cũng vì lý do này nên ban đầu thông thường thì khách hàng chấp nhận với lãi
suất của ngân hàng đưa ra nhưng sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía
khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao quá nên không đồng ý. Đồng thời, quá
trình sử dụng vốn vay không hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán
11


nợ gốc và lãi. Đây là dạng tranh chấp xảy ra nhiều nhất trong các tranh chấp
HĐTD.
- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng. Tranh chấp này
trên thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có
yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết
tranh chấp. Trong quá trình ký kết hợp đồng tín dụng, việc xem xét tư cách
chủ thể của bên vay vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu lực của HĐTD. Trên thực tế, nếu tổ chức tín dụng xem nhẹ vấn đề này,
không xác định đúng tư cách chủ thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay
là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến việc ký hợp đồng tín dụng với chủ thể
không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại nặng
nề cho các tổ chức tín dụng.
- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD
có bảo đảm bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm.
Chính bởi bản chất hợp đồng tín dụng mang tính rủi ro cao nên các

tổ
chức tín dụng coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn
thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện
nay, theo quy định của pháp luật có ba hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố,
thế chấp, bảo đảm tài sản bằng bảo lãnh. Quá trình xác lập, thực hiện giao
dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm được quy định tại Bộ luật Dân sự
2005, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao
dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện không phải khi nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc những quy
định của pháp luật, nên trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến tài sản bảo
đảm tương đối nhiều.
12


Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này chủ yếu liên quan đến
việc xử lý tài sản bảo đảm. Khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu như nhân viên
ngân hàng thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn
đến chấp nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về
giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn đến những tranh chấp phát sinh khi ngân hàng
xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, nếu không xác định được tài sản bảo đảm
thuộc sở hữu chung hay riêng của vợ chồng hoặc tài sản bảo đảm không
thuộc của người cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh thì cũng gây khó khăn khi xử
lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là tài sản của Hộ gia đình.
- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD : Nếu như khi ký
hợp đồng tín dụng mà các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan
giải
quyết tranh chấp cũng như luật áp dụng (nếu như có yếu tố nước ngoài)
thì sau này có nhiều khả năng xảy ra việc tranh chấp về luật áp dụng để giải

quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Thực tiễn cho thấy tranh
chấp này ít xảy ra.
Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng không
nhỏ bởi các cuộc khủng hoảng của các nước trên Thế giới dẫn đến việc xảy ra
tranh chấp trong hợp đồng tín dụng ngày càng nhiều và diễn biến phức tạp.
Do đó, việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần
thiết. Từ đó, có những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục tình
trạng tranh chấp để tiến tới giảm thiểu đáng kể số lượng tranh chấp.
1.2.3. Nguyên nhân tranh chấp hợp đồng tín dụng
Nguyên nhân gây ra tranh chấp hợp đồng tín dụng rất đa dạng, có thể
xuất phát từ phía bên cho vay (ngân hàng) và cũng có thể xuất phát từ phía
bên vay
(khách hàng).
- Nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay có thể bao gồm:
13


+ Thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vốn (vấn đề giải ngân): Tại khoản 4
Điều 404 BLDS 2005: “Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời
điểm bên sau cùng ký vào văn bản”; tại Điều 405 BLDS 2005 quy định:
“Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Trong hợp
đồng tín dụng bắt buộc phải nêu rõ mục đích vay của khách hàng, thời hạn
phải hoàn trả nợ vay… và ngược lại TCTD có nghĩa vụ giải ngân đúng số
tiền và thời gian đã thỏa thuận cũng như có quyền kiểm tra, giám sát quá
trình sử dụng vốn vay hoặc thu hồi nợ theo quy định trong hợp đồng tín dụng
mà hai bên đã ký kết. Vì thế, sau khi HĐTD có hiệu lực, việc thực hiện nghĩa
vụ giải ngân khoản tín dụng mà hai bên đã thoả thuận là nghĩa vụ của bên cho
vay.
Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp sau khi ký kết HĐTD với

khách hàng bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp
của bên vay, làm hạn chế khả năng thực hiện kế hoạch kinh doanh như dự
kiến, hiệu quả kinh doanh đạt được thấp gây ảnh hưởng đến việc trả lãi và gốc
sau này.
+ Năng lực, phẩm chất, đạo đức của cán bộ tín dụng:
Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình
cho vay
hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế nên các tranh
chấp thường xảy ra trước hết là do lỗi nghiệp vụ, đó là :
Thứ nhất, do sự hạn chế về năng lực nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng
nên việc đánh giá biện pháp bảo đảm tiền vay còn nhiều bất cập, chưa phân
tích, đánh giá hết các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay một cách
chính xác. Thậm chí, một số nhân viên ngân hàng bị suy thoái phẩm
chất đạo đức cố ý làm trái các quy định, chẳng hạn trong việc cho vay có
14 thế chấp mà bên vay vẫn được giữ
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản

cả giấy


tờ gốc chứng minh tài sản thế chấp của mình. Điều này dẫn đến có thể bên
vay lại đem bán tài sản đã thế chấp ở ngân hàng cho người thứ ba. Lúc này
ngân hàng và người thứ ba có sự tranh chấp về quyền tài sản. Hầu như, các
vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động cho vay của ngân hàng thông qua
các hình thức thế chấp, cầm cố đều có sự vi phạm của cán bộ tín dụng như vi
phạm quy chế cho vay hoặc vì động cơ, mục đích khác mà làm trái các quy
định gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ hai, do các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức
cho việc thẩm định trước khi cho vay mà không kiểm soát sử dụng vốn cho

vay (lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay). Trên
thực tế bên ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách
hàng, không biết chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay
đúng mục đích trong hợp đồng hay không. Cho nên giám sát sử dụng vốn vay
(theo dõi nợ) là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín
dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của
khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng
giữa khách hàng và ngân hàng. Tuy nhiên, trong thời gian qua các ngân hàng
chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây
phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông
tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung
cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
- Nguyên nhân từ phía bên vay:
+ Tranh chấp liên quan đến thanh toán nợ gốc và lãi suất.
Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ
những
nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi suất của mình có thể do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan chi phối.
15


Các nguyên nhân khách quan, thể hiện ngoài ý chí của khách hàng như
do thiên tai, hỏa hoạn, do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, điều
chỉnh quy hoạch ngành, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi … làm cho hoạt
động của bên vay không thực hiện như kế hoạch đề ra.
Các nguyên nhân chủ quan được hiểu là hành vi cố ý vi phạm nghĩa vụ
trả nợ của khách hàng. Nguyên nhân này có thể bắt nguồn từ sự yếu kém của
khách hàng trong quá trình quản lý và sử dụng vốn vay, hoặc có thể do
khách hàng có đủ tiền trả nợ nhưng không thiện chí trong việc trả nợ vay.

Trong quá trình lập hồ sơ vay vốn, đa số khách hàng là các doanh nghiệp đều
chứng minh được tính khả thi và phương án sử dụng vốn vay hoặc chứng
minh được
tài chính tốt. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng vốn vay không phải lúc
nào cũng được thuận lợi, đạt hiệu quả cao như mong muốn. Cũng có
trường hợp
do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi vay
vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.
Hầu như, các tranh chấp liên quan về hợp đồng tín dụng xuất phát từ
việc khách hàng vay không thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng về
mục đích vay vốn, thời hạn trả nợ gốc và lãi. Việc khách hàng thực hiện
không đúng các cam kết trong hợp đồng bởi những lý do sau đây :
Thứ nhất, do quy trình xét duyệt cho vay là cả quá trình tương đối
dài,
tốn khá nhiều thời gian, đặc biệt đối với những dự án lớn, những hợp
đồng tín dụng trung và dài hạn thì quá trình này còn dài hơn nữa. Chính vì thời
gian để được vay vốn khá lâu như thế làm cho khách hàng vay mất đi cơ hội
kinh doanh của mình. Cho đến khi nhận được tiền vay từ tổ chức tín dụng thì
kế hoạch kinh doanh đã thay đổi, dẫn đến tình trạng người vay sử dụng số tiền
16

vay sai mục đích với cam kết trong hợp đồng. Điều này, dẫn đến hiệu quả của
sử dụng đồng tiền


đó rất thấp khiến cho khách hàng rơi vào tình trạng không trả được nợ, vi phạm
hợp đồng cụ thể điều khoản sử dụng vốn vay không đúng mục đích.
Thứ hai, khi xét duyệt cho vay tổ chức tín dụng thường cho vay thấp
hơn nhiều lần so với nhu cầu vay vốn của khách hàng việc đó cũng ảnh hưởng
đến kế hoạch đề ra đồng thời ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn kém hiệu

quả của khách hàng dẫn đến mất khả năng thanh toán gốc và lãi.
TCTD được pháp luật trao những quyền to lớn đối với khách hàng vay
của mình trong việc chấp thuận cho cơ cấu lại thời gian trả nợ. Pháp
luật không cho phép bên đi vay có quyền cùng tham gia đề nghị tổ chức tín
dụng cho cơ cấu lại thời gian trả nợ. Chính điều này các tổ chức tín dụng có
thể áp dụng các biện pháp thu nợ tuỳ tiện dẫn đến tranh chấp vẫn cứ xảy ra.
Tóm lại, việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích đã thỏa thuận của
khách hàng đa số dẫn đến việc không thể trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ như
trong hợp đồng. Đây là nguyên nhân tiềm tàng dẫn đến tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng tín dụng.
+ Tranh chấp do khách hàng thiếu hiểu biết về pháp luật.
Ngày nay, trình độ hiểu biết về pháp luật của bên vay còn hạn chế về
những kiến thức pháp luật liên quan. Có trường hợp bên vay hay bên bảo lãnh
ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật, nên khả năng
xảy
ra những bất lợi cho mình là rất lớn. Chủ yếu tranh chấp xảy ra là ở các
hợp đồng bảo lãnh.
- Nguyên nhân do bất cập của các qui định pháp luật:
Ở Việt Nam, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới
luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có nhưng việc triển khai vào hoạt
động ngân hàng thì lại hết sức chậm 17
chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc
bất cập. Các


quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau đặc biệt là
các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm.
Thực tế cho thấy, hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch bảo đảm

chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không thể thực hiện được
trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ
quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. Theo Nghị định số 163/2006/NĐ- CP
và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính
phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép các tổ chức tín dụng được lựa
chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các khoản tiền và
tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức
khác do các bên thoả thuận. Tuy nhiên, trên thực tế ngân hàng không thật sự
làm chủ trong việc xử lý tài sản thế chấp vì vấp phải các quy định trong Bộ
luật Dân sự năm 2005, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các qui định khác. Như
vậy, dù đã tuân thủ nghiêm ngặt một trình tự, thủ tục phức tạp do luật định
nhưng các hợp đồng công chứng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm chưa thể
hiện được vị trí, vai trò của mình trên thực tế cuộc sống. Điều này, tạo điều
kiện thuận lợi cho các khách hàng không có thiện chí trong việc thanh toán
các khoản nợ và lãi. Tất nhiên, tranh chấp sẽ xảy ra.
- Nguyên nhân từ thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước
về bình ổn kinh tế:
Theo điều 7 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 qui định: “Tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức,
cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ
chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài có quyền từ chối yêu cầu cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ

18


khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù hợp với quy

định của pháp luật”.
Như vậy, pháp luật quy định TCTD có toàn quyền quyết định về việc
xét duyệt cho vay cũng như chịu rủi ro nếu khách hàng vay không trả được nợ.
Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào tổ chức tín dụng cũng toàn quyền
quyết định trong hoạt động cho vay của mình mà Nhà nước vẫn còn can thiệp
rất sâu vào hoạt động kinh doanh của các TCTD, đặc biệt là giao dịch cho vay
của ngân hàng đối với khách hàng là các doanh nghiệp nhằm phục vụ mục đích
phát triển kinh tế và các chính sách về an sinh xã hội.
Thậm chí, ở một số nơi, vì chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, Chính quyền địa
phương cũng “chỉ đạo” các ngân hàng cho vay các doanh nghiệp Nhà
nước
kinh doanh thua lỗ tránh làm tăng mức độ thất nghiệp. Ngoài ra, các
quan chức Chính phủ cũng thường can thiệp vào quyết định cho vay của ngân
hàng, khiến các hoạt động tín dụng không hiệu quả. Đối với những loại hợp
đồng tín dụng được ký kết vì bị tác động thường thì không đảm bảo các điều
kiện về cho vay thì nguy cơ gây ra tranh chấp do không thu hồi được nợ rất
cao.
- Nguyên nhân từ việc thay đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng vay tiền tại
các tổ chức tín dụng không đúng quy định pháp luật:
Một hợp đồng đã được sửa đổi, bổ sung chỉ có hiệu lực pháp luật khi mà
đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Do đó, nếu
một hợp đồng vay tiền tại các tổ chức tín dụng được sửa đổi, bổ sung không
tuân thủ những quy định trên thì chắc chắn phần thay đổi đó sẽ không có hiệu
lực pháp luật, từ đây tranh chấp rất có thể xảy ra.
Thông thường hợp đồng vay tiền tại các tổ chức tín dụng chấm dứt khi
bên vay đã trả hết nợ vay, kể từ đây hợp đồng vay xem như đã được
thanh lý. Tuy nhiên, có trường hợp bên vay đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ đối
19

với tổ chức tín dụng nhưng hợp đồng chưa được thanh lý vì tổ chức tín

dụng chưa


tiến hành giải chấp (tức chưa thanh lý hợp đồng thế chấp, cầm cố, …mà vẫn
lưu giữ những tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản của bên vay). Trong trường
hợp này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu là do lỗi vi
phạm thuộc về tổ chức tín dụng không thực hiện đúng trách nhiệm của mình
trong việc giải chấp hoặc có thể làm thất lạc tài sản thế chấp, cầm cố. Điều
này cũng làm phát sinh tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng.
1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng
Để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp
hợp đồng tín dụng nên việc giải quyết tranh chấp này đòi hỏi phải đạt được
các yêu cầu sau :
Thứ nhất, tranh chấp phải được giải quyết một cách kịp thời, phải đảm
bảo nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất
những rủi ro và có thể tận dụng được những cơ hội kinh doanh mới cho
các chủ thể tham gia tranh chấp.
Thứ hai, trong quá trình giải quyết tranh chấp phải bảo đảm giữ được bí
mật của hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của các bên trong quan hệ
tranh chấp. Bởi vì, các bên còn nhiều đối tác quan hệ kinh doanh khác.
Thứ ba, quá trình giải quyết phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự
định đoạt của các bên với chi phí giải quyết thấp. Vì lợi ích kinh tế và
sự ổn định trong kinh doanh của các bên tham gia giải quyết tranh chấp nên
mỗi bên đều có quyền cân nhắc, lựa chọn phương thức và đưa ra yêu cầu giải
quyết tranh chấp.
* Các phương thức giải quyết tranh chấp:
Giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, pháp luật hiện
hành công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng

tín dụng cụ thể như: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi
20


xảy ra tranh chấp kinh doanh các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua
việc trực tiếp thương lượng với nhau. Trong trường hợp không thương lượng
được, việc giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên
thứ ba thông qua phương thức hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng dựa trên nguyên tắc quan trọng
là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ quan Nhà nước và Trọng tài thương
mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
Để đảm bảo phát triển và duy trì sự phát triển, vấn đề lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được các bên cân
nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất
của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành
cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm,
nhược điểm của một phương thức để có quyết định hợp lý.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng
thương lượng:
Phương thức thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp lựa
chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng được giải quyết bằng phương thức này. Thông qua phương
thức này, các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những
bất đồng
phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán
quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Nhà nước khuyến khích áp dụng phương
thức tự thương lượng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn
trọng quyền thỏa thuận của các bên. Chính vì điều này, pháp luật không đưa
ra bất cứ quy định nào cho phương thức giải quyết này.

Phương pháp thương lượng là phương thức được các bên tiến hành đầu
tiên bởi các ưu điểm của nó như : thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, linh
21


hoạt, ít tốn kém về thời gian, về tiền bạc, không ràng buộc bởi các thủ tục
pháp lý phức tạp, đảm bảo bí mật, uy tín của các bên. Nếu thương lượng
thành công thì ít gây phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các bên
thậm chí còn được tăng cường về sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau khi kết thúc
cuộc thương lượng.
Tuy vậy, bên cạnh các ưu điểm trên, thương lượng cũng có những
nhược điểm như : thương lượng thành công phụ thuộc vào các bên có thiện
chí muốn tìm giải pháp đối với tranh chấp. Nếu bên vay muốn dùng
hình thức thương lượng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương
lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hơn. Sự
thực thi kết quả thương lượng phụ thuộc vào ý chí tự nguyện thi hành của
các bên tham
gia. Cũng chính vì, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng không bị ràng buộc bởi bất kỳ các cơ chế pháp lý nào nên kết quả
thương
lượng cũng không được bảo đảm bởi bất kỳ cơ chế pháp lý nào dẫn đến
tính bắt buộc thực hiện không cao. Mặt khác, hình thức giải quyết khép kín,
không
công khai có khi lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng
hoà giải:
Cũng giống như thương lượng, hoà giải là các bên tranh chấp cùng
nhau bàn bạc, thỏa thuận để giải quyết các vấn đề tranh chấp nhưng
khác là hoà giải có sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Người trung gian
có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên

thỏa thuận lựa chọn. Bên thứ ba trung lập chỉ hỗ trợ các bên đưa ra thoả
thuận, không có thẩm quyền phán xét, điều này khác với phương pháp giải
quyết bằng Trọng tài thương mại. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí
22

của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa
giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của
trung gian hòa


giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp. Trên thực tế, phương thức
hòa giải đã được sử dụng, nhưng phạm vi và hiệu quả áp dụng còn ở mức
khiêm tốn.
Với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hoà giải, chúng ta có thể
thấy các ưu điểm như : thủ tục, thời gian, địa điểm hoà giải có thể được thỏa
thuận và điều chỉnh do các bên tham gia giải quyết tranh chấp, các bên có
quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải.

Hòa

giải mang tính thân mật nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối
quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Tính thân mật trong hòa giải
được thể thiện qua không gian và môi trường, phong thái và ngôn ngữ trong
hòa giải, hành vi giao tiếp và ứng xử của những người tham gia. Giá trị của
tính thân mật là ở chỗ nó có thể làm cho quá trình trung gian hòa giải gần
gũi và thân

thiện với các bên tranh chấp hơn, không tạo ra sự lo lắng và

căng thẳng so với hoạt động xét xử tại Tòa án. Trong hòa giải, các bên tranh

chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp
trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ
quan điểm của mình về tranh chấp, không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng
thua như quá trình kiện tụng tại tòa án, duy trì được mối quan hệ vốn có của
các bên. Do hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện tham gia và tự do thỏa thuận
của các bên, nên nội dung thỏa thuận luôn hướng tới lợi ích của tất cả các
bên. Mặt khác,

là khi giải quyết bằng con đường này các bên kiểm soát

được những bí mật của mình bởi phiên họp hòa giải được tổ chức kín, trong
khi giải quyết tại Tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án
thực hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.
Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng
bằng phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định: việc
hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên,
23


hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất
cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải, không có tính bắt
buộc thi hành như phán quyết của Trọng tài thương mại hay của Tòa án. Các
thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình hòa giải không có giá trị bắt buộc
cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên. Vì
vậy, phương pháp này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với
nhau.
- Đối với phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD bằng
trọng tài thương mại:
Phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD bằng trọng tài thương mại
cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện và được

tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại. Các bên được
quyền thỏa thuận lựa chọn một Trọng tài phù hợp, chỉ định trọng tài viên để
thành lập Hội đồng (hoặc Ủy ban) Trọng tài giải quyết tranh chấp với tư cách
là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra
phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này khác với phương thức
thương lượng và hòa giải.
Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng bằng trọng tài thương mại cho thấy có một số ưu điểm sau: Thứ nhất,
phương pháp trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp có
nguyên tắc xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Thoả thuận phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thường được sử dụng
trong hợp đồng tín dụng mà bên vay là các doanh nghiệp. Nguyên tắc xử kín
trong phương pháp này là một ưu điểm mà các bên tranh chấp luôn coi trọng
bởi các bên không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra công khai
trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động
kinh doanh của mình. Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài thương mại
trên thực
24


tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi
nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi để
tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện
để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau. Thứ
hai, quyết định của Trọng tài thương mại là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị
bắt buộc đối với các bên, các bên không có quyền chống án hay kháng cáo.
Việc xét xử tại Trọng tài thương mại chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng
chính là điều khác biệt cơ bản so với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét
xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết
xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại. Thứ ba, giải

quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính năng động, linh hoạt
và mềm dẻo, tạo quyền chủ động cho các bên về địa điểm, thời gian giải
quyết tranh chấp, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng
trọng tài trong khi tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm
ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong
Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 và các văn bản
hướng dẫn liên quan. Thứ tư, giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt
lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải
quyết tranh chấp cho mình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài có những nhược điểm đáng kể như là: Quyết định trọng tài thương mại
không có tính cưỡng chế cao như quyết định của toà án; việc thi hành quyết
định trọng tài thương mại không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như
việc thi hành bản án mà phụ thuộc chủ yếu vào thiện chí và sự hợp tác giải
quyết của các bên. Giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí
tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao.

25


×