ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
-----------------------------------------------------
ĐÀO CƯ PHÚ
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH
PHƯƠNG
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 32
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2011
1
Công trình được hoàn thành tại:
Trng i hc Khoa hc Xó hi v Nhõn vn - HQGHN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS on c Phng
Phản biện 1: PGS.TS Tụn Tho Miờn
Phản bin 2: PGS.TS Nguyn Bớch Thu
Luận vn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận thạc sĩ họp tại:
Khoa Vn hc, Trng i hc Khoa hc Xó hi v Nhõn vn HQGHN
15 giờ, ngày 1 tháng 2 năm 2012
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Một vài thập kỉ gần đây, nền văn học đương đại Việt Nam ghi
nhận sự đổi mới và những cách tân táo bạo ở nhiều mặt, nhiều khía
cạnh khác nhau cho thể loại văn xuôi nói chung, đó là cách tân của
các nhà văn: Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Đỗ Hoàng Diệu, Thuận, Nguyễn Ngọc Tư… và đặc biệt là
Nguyễn Bình Phương.
Nguyễn Bình Phương không phải là một cái tên xa lạ với giới
phê bình nghiên cứu chuyên nghiệp nhưng tiểu thuyết của anh vẫn
chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Xung quanh việc nghiên
cứu Nguyễn Bình Phương luôn có những dòng đánh giá trái chiều,
những nhận xét khen chê mang đậm chất cảm tính, chủ quan. Có thể
nói, những nghiên cứu về tiểu thuyết của nhà văn thời điểm hiện tại
vẫn chưa có chiều sâu và chưa thực sự xứng tầm.
Với đề tài Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, chúng tôi mong muốn tìm ra những nét mới trong nghệ
thuật sáng tác tiểu thuyết của nhà văn về tất cả các mặt như: Các
phương diện phản ánh đời sống con người, các yếu tố không gian –
thời gian, cốt truyện, kết cấu và các thủ pháp nghệ thuật khác..., để
từ đó chỉ ra vị trí cũng như những nỗ lực đóng góp của tác giả trên
hành trình làm mới nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Có khá nhiều những bàì nghiên cứu lớn nhỏ về tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, đáng chú ý là những bài viết, chuyên luận sau:
Đầu tiên phải kể đến là trên website e và
trên trang web cá nhân của Thụy Khuê: e đã đăng
tải khá nhiều các bài viết nghiên cứu về các yếu tố huyền ảo, tâm linh
trong từng tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương như: Khuynh hướng
hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già; Tính
3
chất hiện thực tâm linh ảo âm - dương trong tiểu thuyết Người đi
vắng; Những yếu tố tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ suy tàn;
Những đặc trưng của bút pháp huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi…
Ngoài Thụy Khuê, Đoàn Cẩm Thi cũng là nhà nghiên cứu có
nhiều tiếp cận với những sáng tác của Nguyễn Bình Phương, đó là
những bài viết sắc sảo như: Sáng tạo văn học: giấc mơ và điên hay
Người đàn bà nằm: từ Thiếu nữ ngủ ngày đọc Người đi vắng của
Nguyễn Bình Phương.
Bên cạnh những bài nghiên cứu mang tính hệ thống của Thụy
Khuê và Đoàn Cẩm Thi là những bài viết quy mô nhỏ được in trên các
diễn đàn và tạp chí. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài báo: Một số
đặc điểm nổi bật trong sáng tác Nguyễn Bình Phương của Trương Thị
Ngọc Hân. Tiếp đó phải kể đến bài viết được đăng trên báo Văn nghệ
ra ngày 25/11/2006 của Phạm Xuân Thạch đánh giá về những điểm
đặc sắc, cách tân trong tiểu thuyết Ngồi. Với Nguyễn Bình Phương,
Lục bình giang tiểu thuyết được in trên tạp chí Nghiên cứu văn học số
tháng 4 năm 2008, Đoàn Ánh Dương đã có sự nghiên cứu công phu, có
cái nhìn hệ thống và cách tiếp cận độc đáo. Tác giả Nguyễn Mạnh
Hùng trong bài: Người đi vắng, ai đọc Nguyễn Bình Phương hay Nỗi
cô đơn của tiểu thuyết cuối thể kỉ đã chỉ ra những “cái mới” trước hết ở
việc tạo ra một hệ thống những ám ảnh của nhân vật…
Ngoài ra còn một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp cũng
nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương, mà chủ yếu là ở thể loại tiểu thuyết.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích của luận văn
Luận văn hướng tới mục đích tìm ra được những điểm mới,
những sáng tạo và đóng góp của Nguyễn Bình Phương trong dòng
chảy tiểu thuyết, từ đó khẳng định vị trí và vai trò của Nguyễn Bình
Phương trong dòng tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
4
3.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là 7 cuốn tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương, bao gồm: Bả giời, Vào cõi, Thoạt kì thủy,
Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn, Người đi vắng, Ngồi.
Bên cạnh đó, luận văn cũng tiến hành so sánh với một số tiểu
thuyết đương đại, như: T mất tích (Thuận), Thiên thần sám hối, Lão
Khổ (Tạ Duy Anh), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Giàn thiêu (Võ Thị
Hảo), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Cơ hội của Chúa, Khải
huyền muộn (Nguyễn Việt Hà)… nhằm so sánh để chỉ ra được
những cách tân mới mẻ về thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng những phương pháp chính như:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích nhân vật
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tổng hợp
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ
khác như:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
- Phương pháp cấu trúc
- Phương pháp tiếp cận liên văn bản
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái lược về thế giới nghệ thuật và hành trình sáng
tác Nguyễn Bình Phương.
Chương 2: Cuộc sống và con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương.
Chương 3: Phương thức biểu hiện trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương.
5
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
1.1 Khái lược về thế giới nghệ thuật
Thế giới nghệ thuật là khái niệm mang tính chỉnh thể của sáng
tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của
một tác giả, một trào lưu)… Luận văn hiểu khái niệm thế giới nghệ
thuật ở góc độ tất cả các yếu tố cấu tạo nên tác phẩm như: nhân vật,
cốt truyện, kết cấu, không gian, thời gian, ngôn ngữ, các thủ pháp
nghệ thuật... Thế giới nghệ thuật trong những sáng tác tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương muôn màu và đa sắc, chính điều này tạo nên
những giá trị trong những tiểu thuyết của nhà văn.
1.2 Tiểu thuyết và tiểu thuyết đương đại
1.2.1 Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết có thể hiểu là một thể loại tự sự cỡ lớn có khả năng
phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian.
Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục, đạo đức, xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai
cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng…
1.2.2 Tiểu thuyết đương đại
1.2.2.1 Khái lược về tiểu thuyết đương đại Việt Nam
Văn học Việt Nam đang hòa mình vào trào lưu văn học hậu
hiện đại trên thế giới nên gần đây trào lưu này được giới cầm bút
Việt Nam quan tâm nhiều hơn. Sau gần 20 năm, giới nghiên cứu nhìn
chung vẫn có cái nhìn dè dặt khi tiếp cận nó. Tiểu thuyết hậu hiện đại
bị ám ảnh trong sự khủng hoảng niềm tin vào con người, nhìn đời
sống như những mảnh vỡ, những nhân vật là đại diện cho con người
hiện đại trong guồng quay của cỗ máy kinh tế, tiêu biểu điển hình
cho cuộc đời.
6
Tiểu thuyết đương đại Việt Nam kết đọng những thành tựu nổi
bật của những tác giả đi tiên phong trong công cuộc cách tân thể loại
này như: Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Bình Phương… Đây là những cây bút đã đóng góp cho nền
tiểu thuyết đương đại Việt Nam những tác phẩm giàu giá trị, với
những cách tân về thể loại, được giới phê bình đánh giá cao ở cả
phương diện nội dung lẫn nghệ thuật.
1.1.2.2 Những khuynh hướng chủ đạo của tiểu thuyết đương
đại Việt Nam
Tiểu thuyết đương đại Việt Nam có thể thâu tóm với ba
khuynh hướng sau:
Khuynh hướng đời tư, thế sự: là khuynh hướng chủ đạo của
văn học đương đại Việt Nam, chủ yếu đi vào khai thác những vấn đề
liên quan đến đời sống của con người trong xã hội hiện đại. Đây
được coi là mảnh đất màu mỡ cho các nhà văn đi vào “cày xới” với
những mảng đề tài phong phú, đa dạng… Có hàng loạt những tác
phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng này như: Mùa lá rụng trong vườn
(Ma Văn Kháng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc
Trường), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai),
Thời xa vắng (Lê Lựu)…
Khuynh hướng huyền ảo, huyễn hoặc: là khuynh hướng sử
dụng nhiều yếu tố kì ảo, hoang đường cũng với mục đích “giải
thiêng” cuộc sống, tức là mượn những yếu tố huyền ảo, huyễn hoặc
để giải nghĩa một khía cạnh nào đó về cuộc sống chứ không hoàn
toàn tách biệt cuộc sống. Các nhà văn của khuynh hướng này luôn
tìm tòi để tạo nên những nét cách tân về nghệ thuật làm mới văn học,
đặc biệt ở thể loại tiểu thuyết. Các tác phẩm đương đại tiêu biểu cho
khuynh hướng huyền ảo, huyễn hoặc phải kể đến như Cơ hội của
Chúa (Nguyễn Việt Hà), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)…
7
Khuynh hướng hậu hiện đại: là khuynh hướng ảnh hưởng từ
trào lưu văn học hậu hiện đại thế giới với những thi pháp mới lạ cùng
những cách tân nghệ thuật đặc sắc. Các đại diện tiêu biểu của khuynh
hướng này phải kể đến là các nhà văn đương đại có nhiều đóng góp
về sự đổi mới của văn học Việt Nam như Thuận, Tạ Duy Anh, Hồ
Anh Thái… và đặc biệt là Nguyễn Bình Phương – người mang đến
những cách tân mới mẻ và độc đáo cho nền tiểu thuyết đương đại
Việt Nam.
1.3.1 Trào lưu văn học hậu hiện đại trên thế giới
Trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung và trong văn học nói
riêng, ngoài nghĩa chỉ thời gian, Chủ nghĩa hậu hiện đại còn chịu sự
quy định của các thuộc tính biểu đạt nghệ thuật, mặc dù sự quy định
này phần lớn là do các nhà lí luận và phê bình áp đặt. Và như chúng
ta thấy, các ý kiến đó chưa phải là đã thống nhất. Từ các ý kiến của
các nhà nghiên cứu về Chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng tôi tạm phân ra
ba nhóm quan niệm chính về chủ nghĩa hậu hiện đại trong nghệ thuật
như sau:
1. Chủ nghĩa hậu hiện đại như là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện
đại (quan điểm của Lyotard, Hassan); hay nói cách khác, nó là: “cơn
kịch phát của chủ nghĩa hiện đại”.
2. Chủ nghĩa hậu hiện đại như là sự quay trở về với truyền
thống để khống chế chủ nghĩa hiện đại (quan điểm của Smith,
Potoghesi, Lipovetsky…).
3. Chủ nghĩa hậu hiện đại như là một sự vượt khỏi chủ nghĩa
hiện đại, một phong trào lai tạp mới và tương phản với chủ nghĩa
hiện đại (Jencks, Koehler…).
Với tiểu thuyết hậu hiện đại, có thể tóm lược ở một số đặc
điểm chính sau:
Thứ nhất, tiểu thuyết hậu hiện đại mang một nhận thức mới
Thứ hai, tiểu thuyết hậu hiện đại: một ngôn ngữ tự ám thị
8
Thứ ba, tiểu thuyết hậu hiện đại: một thái độ khôi hài
Thứ tư, tiểu thuyết hậu hiện đại: một thứ văn học đầy sinh lực
và khát vọng
1.4 Ảnh hưởng của trào lưu văn học hậu hiện đại đến hành
trình sáng tác Nguyễn Bình Phương.
Cả 7 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương mang hơi
hướng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Hay nói cách khác, ảnh hưởng
được thể hiện qua cả chủ đề, đề tài và phương thức biểu hiện. Chúng
tôi đi vào chứng minh sự ảnh hưởng của trào lưu văn học hậu hiện
đại đến hành trình sáng tác của Nguyễn Bình Phương ở cả bình diện
nội dung và nghệ thuật.
Về mặt nội dung, được thể hiện chủ yếu qua hệ thống nhân vật,
qua việc phản ánh xã hội con người Việt Nam trong thời kì chuyển
giao cơ chế thị trường, nơi mà truyền thống và hiện đại đang dần mất
đi ranh giới.
Về mặt nghệ thuật, được thể hiện qua các phương diện như:
cách “viết nội dung” thay vì “kể nội dung”, qua cốt truyện, kết cấu,
các yếu tố không - thời gian, các yếu tố kì ảo và thi pháp huyền thoại
hóa…
1.5 Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong sự vận động
của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Với 7 cuốn tiểu thuyết (Bả giời, Vào cõi, Những đứa trẻ chết
già, Người đi vắng, Thoạt kì thủy, Trí nhớ suy tàn Ngồi), Nguyễn
Bình Phương đã hòa mình vào nền văn học đương đại với nhiều tên
tuổi quen thuộc. Hòa nhập vào nền văn học đó không có nghĩa là hòa
tan, Nguyễn Bình Phương vẫn tạo nên được những nét đặc sắc, mới
mẻ về cả nội dung lẫn nghệ thuật biểu hiện, khiến Nguyễn Bình
Phương là một cá nhân nổi bật không bị lẫn vào bất kì nhà văn nào
trước đó và cùng thời.
9
Chương 2
CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
2.1 Khuynh hướng tiếp cận cuộc sống và con người trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
2.1.1 Khuynh hướng tiếp cận cuộc sống và con người
Khuynh hướng tiếp cận cuộc sống và con người có thể hiểu là
một khái niệm được dùng để chỉ xu hướng của nhà văn nghiêng về
khai thác một hay một vài bình diện nào đó của cuộc sống và con
người.
2.1.2 Khuynh hướng tiếp cận cuộc sống và con người trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Nguyễn Bình Phương - một nhà văn tiêu biểu của dòng văn
học đương đại Việt Nam, thông qua 7 cuốn tiểu thuyết của mình đã
bộc lộ tính khuynh hướng rõ rệt trong việc khám phá, tái hiện con
người. Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương được khai
thác trên bốn khía cạnh chính: Con người trong cuộc sống hiện thực
phồn tạp; Con người đa trị; Con người trong đời sống tâm linh và
Con người bản năng gốc.
2.1.2.1 Con người trong đời sống hiện thực phồn tạp
Trong cả 7 cuốn tiểu thuyết: Bả giời, Vào cõi, Những đứa trẻ
chết già, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy, Người đi vắng, Ngồi của
Nguyễn Bình Phương, con người đều được đặt trong mối quan hệ với
hiện thực đời sống phồn tạp, bị chi phối, ảnh hưởng từ hiện thực cuộc
sống đó. Điều đó cho thấy khuynh hướng tiếp cận cuộc sống và con
người trong đời sống hiện thực phồn tạp của Nguyễn Bình Phương
thể hiện ở chỗ nhà văn luôn có ý thức đặt con người vào môi trường
sống cụ thể, xây dựng những mối quan hệ xã hội cụ thể để từ đó thấy
10
được những hành vi, ứng xử cũng như trạng thái tâm lí của con người
trước mọi hoàn cảnh.
Các dạng thức con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương bị quẳng vào một đời sống bầm dập, một hiện thực nham
nhở, vàng úa và hoàn toàn bị động trước những biến ảo của cuộc đời.
2.1.2.2 Con người đa trị
Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, có thể thấy cách
tiếp cận về con người của nhà văn không còn dễ dãi, một chiều, trắng
đen, tốt xấu không phân định rạch ròi, chúng đan xen lẫn nhau trong
cùng một thực thể, dẫn đến hệ thống nhân vật cũng được nhà văn xây
dựng theo kiểu “đa trị”: tốt và xấu lẫn lộn, ranh giới của chúng cũng
thật mong manh, luôn giao tranh lẫn nhau trong mỗi con người.
2.1.2.3 Con người bản năng gốc
Tuy con người bản năng được phản ánh nhiều cả trong văn học
trước và sau năm 1975 nhưng đến sáng tác của mình, Nguyễn Bình
Phương coi đó là cơ sở để lí giải cho mọi sự biến động về tâm lí chứ
không phải là một thước đo đánh giá nhân cách. Nhà văn có sự nhạy
cảm đặc biệt đối với những vấn đề thuộc về đời sống bản năng tự
nhiên của con người. Nguyễn Bình Phương chú ý thể hiện con người
trong đầy đủ chất người tự nhiên vốn có, coi đó là đối tượng để
nghiền ngẫm, miêu tả, là cơ sở lí giải cho mọi biến động về tâm lý.
Với bản năng của sự sinh tồn, trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
chất tình dục trở nên tự nhiên và đời thực hơn bao giờ hết.
2.1.2.4 Đời sống tâm linh chi phối cảm thức con người
Tiểu thuyết đương đại khắc họa con người không chỉ ở tính
cách - những điều có thể giải thích được bằng lí tính mà còn khám
phá con người ở cõi tâm linh vi diệu biến ảo, khám phá những dòng ý
thức và những mảnh tiềm thức đan vào nhau như một ma trận cực kì
phức tạp của thế giới bên trong con người.
11
Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bình Phương cũng đặt
con người vào trong môi trường đời sống tâm linh để soi chiếu.
Trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, trạng thái vô thức,
những yếu tố thuộc về ý thức, tiềm thức xuất hiện với mức độ dày
đặc. Nhà văn đã thực sự xâm nhập được vào cõi mờ ảo của đời sống
tâm linh con người. Những bí ẩn về ý thức, về trạng thái vô thức
trong điên loạn, về giấc mơ và những ám ảnh của con người được
nhà văn tái hiện phong phú, với những biểu hiện phức tạp.
2.2 Các dạng thức con người trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương
Khảo sát cả 7 cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương từ Bả
giời cho đến Ngồi, chúng tôi thấy tác giả tái hiện rất nhiều dạng thức
con người ở các trạng thái, cảm xúc khác nhau.
2.2.1 Con người dị biệt
Con người dị biệt có trong hầu hết các tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương, nhà văn chịu ảnh hưởng từ quan niệm của các nhà văn
hậu hiện đại, xây dựng những con người mang tính cá biệt, không
trùng khít với bất kì nhân vật truyền thống nào.
Việc xây dựng những nhân vật dị biệt khiến cho những con
người đó hiện lên mang nét đặc trưng, cá biệt không thể trộn lẫn với
các hình tượng nhân vật khác. Thông qua dạng thức nhân vật dị biệt
này, chúng ta thấy được sự nhạy bén, sắc sảo của tác giả trong việc
thâm nhập, khám phá và lí giải thấu đáo những hiện tượng khác
thường trong cuộc sống. Đó cũng là những phát hiện tinh tế của nhà
văn trong việc tìm hiểu nội tâm con người với những biến thái tinh vi
và phức tạp nhất.
2.2.2 Con người cô đơn, lạc loài
Hòa mình cùng với dòng văn chương đương đại, Nguyễn Bình
Phương cũng có sự quan tâm đặc biệt đến trạng thái tâm lí của con
người. Cô đơn trở thành chủ đề lớn và có một sắc thái riêng trong
12
tiểu thuyết của anh. Cô đơn là bản chất chủ yếu của con người hiện
đại và cũng là một tiêu chí để đánh dấu sự tồn tại đích thực của con
người. Những nhân vật cô đơn thường bị lạc lõng ngay giữa cộng
đồng mình đang sống, họ không tìm thấy tiếng nói chung của đồng
loại, dẫn đến có những ẩn ức từ thẳm sâu tâm hồn.
Hình tượng con người cô đơn, lạc loài không phải là mới
nhưng ở Nguyễn Bình Phương, hình ảnh con người cô đơn, lạc loài
mang hơi thở của con người hiện đại, một xã hội thiếu tính liên kết,
rã đám, nhốn nháo, xô bồ, bất trắc. Nguyễn Bình Phương đã có
những thành công nhất định khi xây dựng những con người cô đơn
với nhiều cung bậc cảm xúc và nội tâm khác nhau. Tuy nhiên, làm
nổi bật con người cô đơn, lạc lõng không với mục đích khắc sâu
những khoảng trống trong mỗi con người mà sâu xa hơn, tác giả
muốn cảnh tỉnh con người hãy xóa nhòa đi những tâm lí cô đơn tiêu
cực bằng cách soi xét lại các mối quan hệ giữa mình với những người
xung quanh, để nỗi cơ đơn không còn là những bi kịch bế tắc trong
cuộc sống thường nhật.
2.2.3 Con người sợ hãi, hoài nghi, mất phương hướng
Có thế thấy, bước sang dòng văn học đương đại, hình tượng
những con người luôn cảm thấy sợ hãi, hoài nghi và mất phương
hướng thường xuất hiện. Hay nói cách khác, lo âu, sợ hãi trở thành
đặc điểm nổi bật của con người trong văn học hậu hiện đại. Bên cạnh
dạng thức con người cô đơn, dị biệt thì con người sợ hãi, hoài nghi,
mất phương hướng cũng là tụ điểm thể hiện tập trung những day dứt,
trăn trở của nhà văn về thân phận con người trong xã hội mới. Không
còn gì là niềm tin tuyệt đối và chân lí độc tôn để bấu víu, con người
trở thành những mẩu, mảnh lẻ loi, cô độc, đáng thương.
Giống như các nhà văn đương đại khác, Nguyễn Bình Phương
cũng phản ánh hình tượng con người sợ hãi, hoài nghi và mất phương
hướng trong các tiểu thuyết của mình. Truy tìm những bí mật trong
13
tâm hồn con người, chỉ ra những yếu đuối lẻ loi mà do ảo tưởng, con
người đã từng tự huyễn hoặc mình. Đây cũng chính là cách thể hiện
tình yêu con người của Nguyễn Bình Phương.
2.2.4 Con người tha hóa, suy đồi, phi nhân tính
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương dường như các
nhân vật không còn ý thức được sự tha hóa của bản thân. Con người
sống trong mơ hồ, u mê, bị mất đi cảm nhận về cuộc đời mình. Sự tha
hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng không phải phương
cách chọn lựa cuối cùng trước sự dồn đẩy nghiệt ngã của cuộc sống,
mà được nhà văn tái hiện như một lối sống riêng của những con
người không còn khả năng giữ được bản lĩnh trước sự thay đổi bất
ngờ và khắc nghiệt của môi trường sống.
Dù rằng mỗi nhân vật có lối sống, hành động khác nhau, song
chung quy lại, họ có đặc điểm chung là để cho nhân phẩm của mình
trượt dốc theo hướng tha hóa, suy đồi và thậm chí là phi nhân tính.
Đó cũng là những hệ lụy khó tránh khỏi khi mà xã hội bị chi phối
mạnh mẽ bởi đồng tiền cùng những nhu cầu hưởng thụ cá nhân hẹp
hòi, ích kỉ.
2.2.5 Con người hận thù và bi kịch
Hận thù và bi kịch là một trong những mặt đời sống của con
người mà Nguyễn Bình Phương cũng như một số nhà văn đương đại
khác dũng cảm nhìn nhận.
Trong dòng văn chương đương đại Việt Nam, trước Nguyễn
Bình Phương, các nhà tiểu thuyết cũng từng khai thác đề tài con
người hận thù và bi kịch, xoáy sâu vào sự tha hóa, suy giảm nhân
cách của con người hiện đại. Nguyễn Bình Phương cũng là nhà văn
khai thác khía cạnh con người trong trạng thái hận thù và dẫn đến bi
kịch, ở mỗi cuốn tiểu thuyết (từ Bả giời đến Ngồi), mức độ hận thù
cũng khác nhau.
14
Hận thù nào cũng dẫn đến những đau khổ, mất mát cho con
người, Nguyễn Bình Phương cho thấy một chân lý, chừng nào con
người còn ham muốn khát vọng chạy theo tiền bạc, tình ái bất chính,
bấp chấp mọi luân thường đạo lý, chừng đó con người còn bị cuốn
vào những mối quan hệ hận thù mà đôi khi, hậu quả của nó là những
bi kịch đau lòng, thậm chí là những cái chết.
2.2.6 Con người điên loạn
Thế giới người điên vốn là một địa hạt ít người khai phá, bởi
người điên luôn là một dấu hỏi chấm chưa có lời giải đáp. Vì sao họ
lại bị điên? Những người điên suy nghĩ những gì? Nguyễn Bình
Phương tiếp cận với thế giới người điên và mở ra cánh cửa để độc giả
đi vào khám phá những tâm lí phức tạp, chằng chéo trong tâm thức
của những con người vốn được coi là “không bình thường” trong xã
hội.
Không gian sống của nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương là một hiện thực huyền ảo. Xóm Soi, núi Hột, núi Rùng, ao
Lang, bãi Nghiền Sàng, sông Linh Nham… thường hiện lên hoang
vu, mờ ảo. Nhân vật sống chung với những thứ quái đản, kì quặc, và
điều tất yếu sẽ ảnh hưởng đến tâm thức của họ. Điều đó lí giải vì sao
nhân vật người điên xuất hiện nhiều trong sáng tác của Nguyễn Bình
Phương, nó cứ trở đi trở lại đầy ám ảnh (Vào cõi, Thoạt kì thủy,
Những đứa trẻ chết già, Trí nhớ suy tàn, Ngồi...).
2.2.7 Con người đám đông
Đám đông chính là đại diện cho số đông tầng lớp con người
trong xã hội. Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, nhân vật đám
đông luôn được chú ý khắc họa. Tìm hiểu về đám đông trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy có một bước phát
triển về tính chất nhân vật đám đông từ tiểu thuyết đầu tay Bả giời
đến Ngồi. Nhân vật đám đông trong 7 cuốn tiểu thuyết này kết hợp
lại sẽ tạo nên bức tranh khá chân thực về con người trong xã hội
15
đương đại Việt Nam, từ những người dân quê chân chất đến những
cán bộ công chức trên thành phố.
Qua nhân vật đám đông, Nguyễn Bình Phương đã diễn tả cảm
thức của con người trước một xã hội đổ vỡ các chân lí và giá trị. Con
người trở nên hoang mang bé nhỏ, là con rối bị cuốn vào guồng quay
không cưỡng lại được của lịch sử. Cũng thông qua hệ thống nhân vật
đám đông xuyên suốt 7 cuốn tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương ngầm
ẩn chứa sự đồng cảm với những con người nhỏ bé trong xã hội, họ ồn
ào, cay nghiệt với nhau nhưng chung quy lại đều là sản phẩm của xã
hội đang bị chi phối mạnh mẽ bởi quyền lực của đồng tiền, vì thế mà
họ đáng thương hơn là đáng giận.
Như vậy, bằng cách tiếp cận cuộc sống và con người trong đời
sống hiện thực phồn tạp, con người đa trị, con người bản năng gốc và
con người bị chi phối bởi tâm linh hóa, Nguyễn Bình Phương đã xây
dựng nhiều dạng thức con người trong tiểu thuyết của mình. Đó cũng
là những con người “xuất thân” từ xã hội nên rất gần gũi với mỗi
chúng ta. Đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng ta lại thấy có
chút gì đó của mình trong các dạng thức con người mà nhà văn phản
ánh. Đây cũng là một trong những điểm thành công của Nguyễn Bình
Phương trong việc tạo dựng những con người sinh động, chân thực,
chúng như được bước ra từ chính cuộc đời thực. Cũng chính các dạng
thức nhân vật này góp phần tạo nên sự thành công của tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, bởi chúng không chỉ rất “đời” mà còn nóng
hổi tính thời sự.
16
Chương 3
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG.
3.1 Không gian và thời gian trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương
3.1.1 Không gian
Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi đi vào tìm
hiểu không gian ở hai khía cạnh: Không gian hiện thực và Không
gian tâm linh hóa.
3.1.1.1 Không gian mang tính hiện thực
Một điểm đặc sắc trong việc tổ chức không gian trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương là đánh lừa cảm giác của người đọc về
một không gian rất thực với những địa danh cũng rất thực. Thái
Nguyên – quê hương tác giả trở thành không gian trở đi trở lại trong
các sáng tác của anh. Ở đó, người đọc bắt gặp thêm nhiều địa danh
làng xã cụ thể. Tuy vậy, phố phường cũng xuất hiện khá nhiều trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Tìm hiểu về không gian hiện thực pha chút huyền ảo, chúng tôi
chia thành hai kiểu không gian: không gian làng quê (Bả giời, Vào
cõi, Những đứa trẻ chết già, Thoạt kì thủy) và không gian thành thị
(Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Ngồi).
Không gian hiện thực trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
dù được xác định với những tên gọi cụ thể và trở đi trở lại trong các
tiểu thuyết lại gợi sự mờ ảo, xa xăm bởi cách nhà văn đặt vào không
gian đó những chi tiết, sự kiện ma quái. Còn không gian phố phường
tuy cụ thể, khá chân thực nhưng con người trong không gian đó lại
ma mị, bất thường. Tất cả gợi nên một thứ không gian thực, ảo lẫn
lộn. Đây cũng là một trong những dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
17
3.1.1.2 Không gian tâm linh hóa
Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, yếu tố huyền ảo, ma
quái xuất hiện với tần suất dày đặc. Ở đó, cõi âm như đang hiện hữu
song hành cùng với cõi thực, vì vậy không gian tâm linh cũng trở đi
trở lại. Trong đó, không gian tâm linh hóa chủ yếu gắn với tâm thức
của các nhân vật, có trong giấc mơ và các trạng thái vô thức.
Giấc mơ có thể được coi là một thủ pháp nghệ thuật được
Nguyễn Bình Phương vận dụng một cách triệt để và đem lại những
hiệu quả nhất định. Từ Bả giời cho đến Ngồi, tác phẩm nào cũng
bàng bạc bởi những giấc mơ xuất hiện trong cõi vô thức của nhân
vật. Điều đó cho thấy tiểu thuyết của nhà văn luôn có sự song hành
giữa hai thế giới: thế giới thực và thế giới tâm linh luôn gần kề nhau,
đôi khi ranh giới giữa chúng cũng thật mong manh.
Không gian tâm linh hóa xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương chính là một phương tiện để nhà văn lí giải về
những hiện tượng kì bí luôn có mặt trong cuộc sống của con người,
mà cho đến nay khoa học cũng chưa thể chứng minh. Điều này cho
thấy thế giới tâm linh, siêu nhiên là do chính con người sáng tạo ra,
nhưng rồi thế giới ấy lại “tiệm quyền” quay trở lại chế ngự con người
và bắt con người phục dịch theo chúng. Nhưng cũng phải thừa nhận
rằng, không gian tâm linh hóa là một nhân tố giúp nhà văn triển khai
cốt truyện phân rã, có tính xoắn kép, đây cũng được coi là một trong
những thi pháp hậu hiện đại mà Nguyễn Bình Phương đã tiếp nhận
và sáng tạo để trở thành một công cụ đắc lực trong tay mình.
3.2.1 Thời gian
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương rất có sức ám ảnh về thời
gian. Nhà văn đã sử dụng thời gian như một giải pháp bộc lộ quan
điểm tư tưởng nghệ thuật được hiệu quả. Để làm rõ điều này, chúng
tôi đi sâu tìm hiểu về ba dạng thức thời gian: Thời gian thực tại tuần
hoàn; Thời gian siêu nhiên, kì ảo; Thời gian mang tính biểu tượng.
18
3.2.1.1 Thời gian thực tại tuần hoàn
Thời gian thực tại tuần hoàn tuân thủ theo trật tự thời gian
tuyến tính, tức là mọi sự kiện, biến cố được kể tuần tự từ trước đến
sau, không có sự xáo trộn trật tự. Cũng giống như các địa danh được
“chỉ mặt, đặt tên” cụ thể, trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, thời
gian được nhà văn dùng những con số chính xác tuyệt đối đến từng
ngày, giờ mà thậm chí là từng phút (Bả giờ, Vào cõi, Thoạt kì thủy,
Ngồi...).
3.2.1.2 Thời gian siêu nhiên, kì ảo
Bên cạnh thời gian trật tự, tuần hoàn, trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương nhiều khi thời gian không tuân theo trật tự thời gian
tuyến tính. Có sự pha trộn giữa thời gian thực và thời gian ảo, thời
gian kì bí, siêu nhiên... Yếu tố này kết hợp với không gian huyền ảo
khiến cả không – thời gian bị nhòe mờ về ranh giới, nghiêng về màu
sắc tâm linh hóa.
Giấc mơ chiếm số lượng lớn dung lượng tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương, mà những giấc mơ của các nhân vật thường biểu đạt
cái mộng mị, bất thường nên thời gian khó xác định và cũng mang
tính kì ảo, siêu nhiên…
Chính điều này đã khoét sâu khoảng cách giữa thời gian thực
và thời gian ảo, dường như những khoảnh khắc của thế giới siêu
nhiên, kì bí bằng cả thời gian của một đời người trên trần thế. Điều
đó một lần nữa khẳng định Nguyễn Bình Phương đã rất thành công
trong việc sử dụng yếu tố thời gian siêu nhiên, kì ảo để làm nên
những đặc sắc nghệ thuật trong tiểu thuyết của mình.
3.2.1.2 Thời gian mang tính biểu tượng
Nguyễn Bình Phương lựa chọn thời gian mang tính chất biểu
tượng làm bối cảnh cho các nhân vật. Thời gian đó vừa mang dấu ấn
thế giới hiện tồn của con người đương đại vừa giống như một thế giới
ảo vọng, xa xăm.
19
Việc đưa rất nhiều dạng thức không gian và thời gian vào
trong tiểu thuyết cho thấy sự dụng công của nhà văn trong việc tạo
dựng không gian và thời gian nghệ thuật. Không - thời gian cùng các
yếu tố như: cốt truyện, kết cấu và các thủ pháp nghệ thuật khác có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau cùng tạo nên những giá trị nội dung
cũng như đặc sắc nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
3.2 Nghệ thuật kết cấu
3.2.1 Kết cấu đồng hiện
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, quá khứ, hiện tại
và cả tương lai cùng hiện hữu ở cùng một thời điểm, đan cài và hòa
quyện nhau, đôi khi không phân định rạch ròi. Trong đó, chúng ta
thấy có những kiểu đồng hiện: đồng hiện giữa thực và ảo (Trí nhớ
suy tàn, Thoạt kì thủy, Những đứa trẻ chết già…); giữa cuộc sống
trần thế với cõi tâm linh (Bả giời, Ngồi…).
3.2.2 Kết cấu đa tuyến
Đặc trưng kết cấu văn học hậu hiện đại là sự phân rã cốt truyện
và tính xoắn kép. Chính vì vậy mà trong văn học đương đại Việt
Nam, các nhà văn thường sử dụng lối kết cấu đa tuyến, tức là cùng
một cuốn tiểu thuyết mà có sự xuất hiện đồng thời, song hành của hai
hay nhiều tuyến truyện rời rạc, không liên quan đến nhau. Trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương từ Bả giời cho đến Ngồi hầu hết đều
sử dụng một cách nhuần nhuyễn và thành công dạng kết cấu này.
Hầu hết các tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đều sử dụng kết
cấu đa tuyến, nhưng các mạch truyện là những thế giới bình đẳng với
nhau, không mạch nào lấn át mạch nào và chúng đều góp phần tạo
dựng nên độ hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn tư tưởng nghệ thuật của
mỗi tác phẩm.
3.2.3 Kết cấu dòng ý thức
Dòng ý thức được coi là một đặc điểm nổi bật của văn học của
thế kỉ XX, chủ yếu là văn học hiện đại chủ nghĩa hướng tới tái hiện
20
cuộc sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng. Trong dòng văn học đương
đại Việt Nam, nhất là sau thời kì đổi mới, kĩ thuật dòng ý thức đã
được khai phá mạnh mẽ với những nhà văn như Bảo Ninh (Nỗi buồn
chiến tranh), Mạc Can (Tấm ván phóng dao), Tạ Duy Anh (Thiên
thần sám hối), Nguyễn Bình Phương (Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì
thủy, Ngồi…).
Có thể nói, kết cấu dòng ý thức là kỹ thuật tự sự được các nhà
văn sử dụng nhằm khám phá tận cùng chiều sâu bên trong con người,
tác phẩm được kết nối bằng các mảnh tâm trạng, tạo thành dòng ý
thức của nhân vật. Kết cấu dòng ý thức này được thể hiện qua Người
đi vắng, Thoạt kì thủy, Ngồi… nhưng có lẽ rõ nét nhất là qua Trí
nhớ suy tàn. Kết cấu tác phẩm được tạo nên trong dòng chảy ý thức
của nhân vật chính, dòng chảy cứ miên man từ đầu đến cuối tác phẩm
nhưng không hề liền mạch mà có sự đứt đoạn, gãy khúc, khiến cho
độc giả có cảm giác đó là những kí ức lộn xộn, chắp vá một cách
chằng chéo.
3.3 Các kiểu tổ chức cốt truyện
Trong sáng tác của các nhà văn thời kì đổi mới, cốt truyện
ngày càng có xu hướng bị lới lỏng, vai trò của cốt truyện hạn chế một
cách tối đa, bởi nhà văn có xu hướng hạn chế quá trình hành động
của nhân vật mà thiên về khắc họa dòng nội tâm của nhân vật nhiều
hơn, nhân vật suy nghĩ nhiều hơn là hành động. Chính vì thế, cốt
truyện trở nên khó tóm tắt, cấu trúc khó định hình.
Các sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái… đều có cách sử dụng nghệ thuật xây dựng cốt truyện mới mẻ
và độc đáo, tạo nên những phong cách rất riêng. Nếu như Ma Văn
Kháng thường xây dựng cốt truyện số phận, Hồ Anh Thái kết hợp
nhiều loại cốt truyện đan xen trong cùng một tác phẩm thì Tạ Duy
Anh thường sử dụng loại cốt truyện phân mảnh, lắp ghép, dòng ý
thức để nói lên chủ đề tư tưởng trong tác phẩm của mình. Đến
21
Nguyễn Bình Phương, anh cũng có những kì công khám phá để tạo
nên những nét cách tân, đổi mới về phương diện cốt truyện, kiểu tổ
chức cốt truyện của Nguyễn Bình Phương có những nét khá tương
đồng với Tạ Duy Anh. Chúng tôi đi tìm hiểu về các cách tổ chức cốt
truyện chủ đạo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương như: Tổ chức
cốt truyện theo mạch ngầm; Tổ chức cốt truyện đa chiều, phân mảnh;
Tổ chức truyện lồng trong truyện để thấy được cá tính sáng tạo của
nhà văn này.
3.3.1 Tổ chức cốt truyện đa chiều, phân mảnh
Trong các tiểu thuyết của mình, hầu hết Nguyễn Bình Phương
đều có cách tổ chức cốt truyện đa chiều, phân mảnh. Mỗi tác phẩm
bao gồm nhiều mạch truyện ít liên quan đến nhau, mỗi mạch truyện
lại có những nhánh truyện nhỏ khác nhau. Nhưng sự phân rã được
thể hiện rõ ở những mạch truyện này, tác giả có nhiều đất để khai
thác nếu như tuân thủ theo các bước của cốt truyện truyền thống. Mỗi
mạch truyện ấy có thể triển khai để xây dựng thành một tiểu thuyết
hoàn chỉnh, nhưng hầu như tác giả đều để ngỏ chúng, khiến cho
người đọc không hiểu được câu chuyện đó rồi sẽ ra sao.
3.3.2 Tổ chức cốt truyện: truyện lồng trong truyện
Kiểu tổ chức truyện lồng trong truyện được thể hiện tiêu biểu
qua các tiểu thuyết Bả giời, Vào cõi, Những đứa trẻ chết già; truyện
ngắn trong tiểu thuyết (truyện ngắn Và cỏ của nhân vật Phùng trong
Thoạt kì thủy); kịch trong tiểu thuyết (Thoạt kì thủy); hay chất thơ
trong tiểu thuyết (Trí nhớ suy tàn)…
Cùng với cách tổ chức cốt truyện theo mạch ngầm, tổ chức cốt
truyện đa chiều, phân mảnh thì tổ chức truyện lồng trong truyện cùng
các thủ pháp nghệ thuật khác cũng ít nhiều thể hiện sự dụng công tìm
tòi hình thức cốt truyện mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Bình Phương
trong hành trình làm mới tiểu thuyết. Tuy các cách tổ chức cốt truyện
này không phải nhà văn là người đầu tiên khai phá, song anh cũng
22
đem đến những mới mẻ, độc đáo nhất định, đóng góp vào quá trình
cách tân tiểu thuyết Việt Nam đương đại, đưa tiểu thuyết Việt Nam
gần hơn với trào lưu văn học hậu hiện đại thế giới.
3.4 Các thủ pháp nghệ thuật
3.4.1 Sử dụng các yếu tố kì ảo
Sử dụng các yếu tố kì ảo là một trong những đặc điểm nổi bật
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Hầu như ở tác phẩm nào, từ
Bả giời cho đến Ngồi, nhà văn đều vận dụng yếu tố kì ảo như một
phương tiện nghệ thuật đắc lực. Ngoài các yếu tố kì ảo được lồng
ghép trong không gian và thời gian, cái kì ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương còn được thể hiện qua các nhân vật có yếu tố
kì ảo, các biểu tượng kì ảo và các tình tiết kì ảo…
Đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, người đọc như có cảm
giác đang được lạc vào mê cung huyền bí và ma mị, bởi lẽ trong hầu
hết tác phẩm của anh, yếu tố kì ảo luôn song hành và tạo đà cho sự
phát triển của diễn biến cốt truyện.
Điều khiến độc giả bị cuốn hút mạnh mẽ nhất khi đọc tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương cũng là các tình tiết kì ảo mang đậm
chất tâm linh hóa, mọi thứ trở nên mờ ảo, không hề có lời giải thích
thấu đáo từ tác giả, vì vậy lòng tin của độc giả cũng mập mờ, khó xác
định (Vào cõi, Bả giời, Những đứa trẻ chết già…).
3.4.2 Các thi pháp huyền thoại hóa
Chất huyền thoại hóa được các nhà văn hậu hiện đại sử dụng
phổ biến và được coi là một công cụ nghệ thuật chủ chốt, chất huyền
thoại hóa có nhiều trong các sáng tác của James Joyce, F. Kafka, G.
Marquéz… Cũng giống như các nhà văn hậu hiện đại thế giới,
Nguyễn Bình Phương sử dụng các thi pháp huyền thoại hóa như một
phương tiện nghệ thuật làm nổi bật lên nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Vì thế, đọc tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, người đọc sẽ gặp
23
thế giới huyền thoại hóa khá đa dạng và sinh động (Người đi vắng,
Bả giời, Thoạt kì thủy...).
Có thể nói, bằng cách sử dụng các phương thức biểu hiện như:
Nghệ thuật tổ chức không – thời gian; Nghệ thuật kết cấu; các kiểu tổ
chức cốt truyện cùng một số thủ pháp nghệ thuật khác, Nguyễn Bình
Phương đang dần khẳng định phong cách sáng tác mang đậm “bản
sắc riêng” của một nhà văn không ngừng tìm tòi, không ngừng sáng
tạo. Đồng thời, đó cũng là sự khẳng định quá trình làm việc say mê,
đầy trách nhiệm và tâm huyết, kết hợp với năng lực sẵn có, Nguyễn
Bình Phương cùng với các nhà văn đương đại khác đang từng bước
hoàn thiện hành trình làm mới nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
Những đóng góp đó, đúng như lời nhận xét của nhà nghiên cứu
Nguyễn Mạnh Hùng: “Không chỉ lạ hóa nội dung và hình thức biểu
hiện mà còn làm một thay đổi lớn về thể loại tiểu thuyết không phải
bằng lí luận mà bằng hình tượng nghệ thuật”.
24
KẾT LUẬN
Với đề tài Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, chúng tôi muốn chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật tiểu thuyết
cũng như những đóng góp cách tân của Nguyễn Bình Phương đối với
nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, con đường sáng tác của Nguyễn Bình Phương là cả
một hành trình chiêm nghiệm, thậm chí là trải nghiệm cuộc sống
bằng cách tiếp cận con người ở các góc độ khác nhau: đó là con
người trong đời sống hiện thực phồn tạp, con người đa trị, con người
trong đời sống tâm linh và con người bản năng gốc, để tạo dựng nên
các dạng thức con người vừa mang những nét đặc trưng không thể
trộn lẫn, vừa rất gần gũi với con người trong đời sống thực, đó là
dạng thức con người dị biệt, con người cô đơn, lạc loài, con người sợ
hãi, hoài nghi, mất phương hướng, con người tha hóa, suy đồi, phi
nhân tính, con người hận thù và bi kịch, con người điên loạn, con
người đám đông.
Thứ hai, luận văn tìm hiểu các phương thức biểu hiện góp
phần làm nên những đặc sắc nghệ thuật độc đáo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, như: cách tổ chức không – thời gian đan cài
yếu tố hiện thực lẫn tâm linh huyền ảo; nghệ thuật kết cấu đồng hiện,
đa tuyến, dòng ý thức; cách tổ chức cốt truyện đa chiều, phân mảnh;
truyện lồng trong truyện, cùng một số thủ pháp nghệ thuật khác…
Bên cạnh những cách tân mới mẻ cả về hình thức nghệ thuật
lẫn nội dung phản ánh vẫn còn một số hạt sạn, một số hạn chế nhất
định trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, đó là:
Thứ nhất, với việc tái hiện cuộc sống con người số đông trong
xã hội, Nguyễn Bình Phương thường sử dụng ngôn ngữ bình dân
nhưng đôi chỗ nhà văn vẫn còn đưa vào ngôn ngữ trần trụi, tục tằn…,
ngôn ngữ này ít nhiều gây nên sự phản cảm cho độc giả.
25