Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Các vấn đề về tác phẩm Chí Phèo Nam Cao( khái quát, đầy đủ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.73 KB, 15 trang )

Các vấn đề ôn tập Chí Phèo Nam Cao
HỌC NGỮ VĂN·8 THÁNG 12 2015

Vấn đề 1 : Bi kịch bị tha hoá của Chí Phèo:
Giữa lúc dòng văn học hiện thực phê phán (1930-1945) tưởng như chấm
dứt thời kỳ vàng son của mình thì Nam Cao xuất hiện như một ngôi sao lạ
trên bầu trời đầy sao. Với tác phẩm “Chí Phèo” (1940), Nam Cao đã đóng
góp cho dòng văn học hiện thực một điển hình nông dân mới lạ, sâu sắc,
độc đáo với tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Chí
Phèo ra đời thật là thê thảm: “Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng
tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để
bên cạnh cái lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho người đàn bà
goá mù.Người đàn bà goá mù này bán hắn cho bác phó không con và khi
bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở nhà nọ.Thân phận của đứa con
hoang thật là bi thảm.May thay, xã hội cũng còn chút tình thương nên Chí
mới có thể tồn tại mà trưởng thành.Nếu ở trong một xã hội bình thường
thì Chí vẫn có thể trở thành người lương thiện.Năm 20 tuổi hắn đã là một
thanh niên khoẻ mạnh làm canh điền cho Bá Kiến, “hắn ao ước có một gia
đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải,chúng lại bỏ một con
lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.Nhưng mơ
ước nhỏ nhoi như vậy cũng không thành. Hắn cũng có lòng tự trọng.Khi bị
bà Ba nhà cụ Bá gọi lên bóp chân, bóp đùi gì đó thì”hắn chỉ thấy nhục chứ
yêu đương gì”.Nhưng bản chất lương thiện trong sáng ấy của Chí đã bị xã
hội huỷ diệt. Bá Kiến ghen với anh canh điền được bà Ba quyền thu quyền
bổ trong nhà nên đã ngầm đẩy Chí Phèo đi ở tù.Sau bảy,tám năm tù, Chí
trở về thành một tên lưu manh côn đồ.Nhà tù đã cướp đi bộ mặt lương
thiện của hắn, biến hắn trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, “Cái đầu
thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai


mắt gờm gờm trông gớm chết” Bá Kiến và nhà tù thực dân đã xô đẩy Chí


Phèo vào con đường lưu manh tội lỗi.Từ đấy,đối với đời là một cơn
say.Những cơn say của hắn tràn từ cơn này đến cơn khác.Hắn ăn trong
lúc say,ngủ trong lúc say và thức dật hãy còn say,dập đầu,rạch mặt trong
lúc say…để rồi say nữa, say vô tận.Hành vi lưu manh côn đồ của hắn có
mấy biểu hiện:Hắn đập đầu, rạch mặt, đe doạ, ăn vạ, tống tiền bọn cường
hào mà tiêu biểu là Bá Kiến. Đối với dân làng, hắn là con quỷ dữ giết
người không gớm tay. Dân làng ai cũng sợ hắn. Hắn lại bị bọn cường hào
lợi dụng để thanh trừng lẫn nhau. Bá Kiến có lần đã sai Chí đi đòi nợ Đội
Tảo. Chí làm được việc, vênh váo ra về “Anh hùng làng này cóc thằng nào
bằng ta”. Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng
khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa. Những người
lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường cùng đã quay lại chống
trả bằng con đường lưư manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã
có Năm Thọ rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tượng đó chắc gì
đã chấm đứt. Biết đâu lại có một Chí Phèo con ra đời trong cái lò gạch cũ?.
Điều chắc chắn là còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, không cho họ
đựoc sống lương thiện thì họ phải rơi vào con đường lưu manh, giành lấy
miếng ăn, tức là bị huỷ diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm
người. “Chí Phèo”đã làm nổi bật cái quy luật tàn bạo đó của xã hội cũ.
Nhưng nếu truyện dừng lại ở đó thì Nam Cao không có gì mới hơn các
nhà văn hiện thực phê phán đi trước. Nét đặc sắc và độc đáo của Nam Cao
là đã rọi ánh sáng vào tâm hồn đen tối ấy để thấy rằng Chí Phèo vẫn còn
một chút lương tri. Nhưng rọi bằng cách nào, Nam Cao đã rọi bằng ánh
sáng của tình thương, tình yêu, chỉ có những tình cảm ấy mới có thể rọi
vào tâm hồn của một con quỷ. Trong một cơn say, dưới đêm trăng ngoài
bãi vắng, hắn vừa la làng vừa cưỡng ép Thị Nở, người đàn bà xấu ma chê
quỷ hờn ở cái làng Vũ Đại này. Nhưng điều kì diệu là nếu như lúc đầu Thị
Nở chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở người đàn ông say rượu Chí Phèo, thì
sau đó sự chăm sóc đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc chân thành của
Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao

động . Sau khi ăn bát cháo của Thị Nở thì Chí tỉnh hẳn. Hắn bâng khuâng
tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Lần đầu tiên từ ngày về làng, sáng dậy


hắn nghe tiếng chim kêu,hắn nghe rõ tiếng cười nói của người đi chợ, anh
thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi
chợ về…Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy đã trở thành tiếng
gọi của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí.Cuộc gặp gỡ Thị Nở đã
loé sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí. Chí
bỗng nhận ra tất cả tinhg trạng bi đát cảu số phận mình. Tình yêu thương
đã thức tỉnh Chí. Chí bỗng thấy thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi
người biết bao. Chí khao khát được mọi người nhận ra anh trở lại vào cái
xã hội bằng phẳng của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở đã
mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người. Nhưng tội nghiệp cho Chí Phèo,
Chí mà cầu cứu vào Thị Nở để trở lại làm người lương thiện thì chẳng
khác nào người sắp chết đuối vớ phải mảng bèo.Thị Nở là một phụ nữ u
mê, đần độn. không tự định đoạt được vận mệnh của minh.Đã ở với Chí
Phèo năm ngày năm đêm trong túp lều bên bờ sông, mà khi bà cô ngăn cản,
thị lập tức chạy sang nhà Chí Phèo: “Thôi! Dừng yêu”. Cuộc đời Chí Phèo
bị tường cao bao bọc chỉ còn một ngõ ngách để trở về cuộc sống lương
thiện. Bà cô Thị Nở đứng ở đó và ngăn chặn. Chúng ta cũng không trách
bà cô Thị Nở. Bà cũng như dân làng Vũ Đại đã quen coi Chí là tên lưu
manh,là con quỷ dữ rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về nhưng không ai
nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn.
Chí Phèo thật sự đã bị xã hội cự tuyệt. Chí vật vã quằn quại trong cơn đau
đớn tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống, Nhưng càng uống càng tỉnh ra,
không nghe mùi rượu mà chỉ nghe mùi cháo hành. Hắn càng thấm thía nỗi
đau vô hạn của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại
uống say mèm. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. hắn lẩm bẩm; “Tao
phải đâm chết nó”.Hắn định vào nhà Thị Nở thì lại vào đúng nhà Bá Kiến.

Đây là một tình tiết của thiên tài, vì trong tiềm thức, trong vô thức Bá Kiến
mới là kẻ thù chính của Chí. vả lại cũng thuộc đường, thuộc ngõ. Bá Kiến
đang nằm ngủ trưa. Hắn đang nằm ngủ trưa. Hắn đang bực mình với bà
Tư, không biết đi đâu mà lâu quá “Sao bà ấy còn trẻ quá, gần bốn mươi
tuổi mà trông cứ phây phây, càng phây phây quá đi nữa! Mà thấy ghét
những thằng trai trẻ…Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ ở tù”.
Thì chinh lúc đó, con người trai trẻ bị hắn đẩy vào tù năm hai mươi tuổi


vung dao xông vào. Chí Phèo dõng dạc: “Tao muốn làm người lương
thiện..Không ai cho tao lương thiện”. Hắn vung dao nhào tới. Bá Kiến
chết rồi hắn tự sát, khi người ta đến thì hắn “đang giãy đành đạch ở giữa
bao nhiêu là máu tươi”. “Chí Phèo đã chết ở ngưỡng cửa trở về cuộc đời
đóng chặt trước hắn. Chí đã chết trong niềm đau thương lớn lao và niềm
khao khát mãnh liệt là được sống làm người nhưng đã bị cự tuyệt. Câu hỏi
cuối cùng của Chí: “Ai cho tao lương thiện” là câu hỏi phẫn uất, đau đớn
còn làm day dứt người đọc. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra
câu hỏi lớn ấy. Đó là vấn đề có ý nghĩa xã hội, có ý nghĩa triết học, có tầm
vóc lớn lao. Nhân vật Chí Phèo là một điển hình nông dân mới mẻ, độc
đáo, sâu sắc mà Nam Cao đã góp vào cho dòng văn học hiện thực. Với
nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, với cách phân tích tâm lí sâu sắc, Nam Cao
đã đặt ra và giải quyết tấn bi kịch của người nông dân. Bi lkịch bị cự tuyệt
quyền làm người. Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo xã
hôij thực dân phong kiến. Xã hội đó đã cướp đi những gì Chí Phèo có và đã
cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Và Nam Cao chẳng những là một nhà
văn hiện thực sâu sắc mà còn là một nhà văn có tinh thần nhân đạo cao
quý.
Vấn đề 2 : Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo:
Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo
mới mẻ, độc đáo, có chiều sâu trong việc thể hiện thân phận của người

nông dân trước cách mạng: Sinh ra là người nhưng lại bị cự tuyệt quyền
làm người.
1. Chí Phèo ra đời trong một "cái lò gạch cũ" bỏ hoang, trong chiếc váy đụp,
không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa,
không tấc đất cắm dùi. Tuổi thơ của hắn "bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại
đi ở cho nhà nọ", đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu...Hắn
đã bị những người thân yêu nhất cự tuyệt, từ chối. Nhưng hắn vẫn là
người nông dân hiền lành, khao khát được sống lương thiện.


2. Nhưng bi kịch không dừng lại: người nông dân "cùng hơn cả dân cùng"
ấy không được sống ngay cả một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện
của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người
để trở thành một con thú dữ, bị loại khỏi xã hội loài người. Lão cường hào
cáo già Bá Kiến vì ghen tuông vu vơ, đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó
anh phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho lão cường hào bắt
giam anh Chí lương thiện, vô tội để thả ra một Chí Phèo hung ác, lưu
manh, tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con thú
dữ.
3. Trở về làng Vũ Đại có bọn cường hào độc ác "ăn thịt người không tanh"
đó, Chí Phèo càng trượt dài trên con đường tha hóa. Hắn muốn sống thì
phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ
ấy, Chí Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say, và "hắn say thì
hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm". Chính xã hội ấy đã vằm nát
bộ mặt người, cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí
Phèo trở nên xa lạ với mọi người, "là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái
cho bao nhiêu dân làng"... Và thế là hắn không còn được mọi người coi là
người nữa, ai cũng "tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua".
4. Song sâu thẳm trong con “quỉ dữ” ấy vẫn muốn được công nhận là con
người. Mở đầu truyện là hình ảnh Chí Phèo say rượu vừa đi vừa chửi.

Nhưng phải chăng đằng sau những tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo, có
một cái gì giống như sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát
được giao tiếp với đồng loại mà không thể được? Trong cơn say đến mất
cả lí trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận được thấm thía "nông nỗi"
của thân phận mình: đó là "nông nỗi" cô đơn khủng khiếp của một con
người đã bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm
được người ta chửi, vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp, đối
thoại; chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi,
xung quanh vẫn cứ là "sự im lặng đáng sợ". Và Chí Phèo vẫn chỉ có một
mình trong sa mạc cô đơn: hắn cứ "chửi rồi lại nghe", "chỉ có ba con chó


dữ với một thằng say rượu!...". Hắn chỉ như một con vật lạ. Ai thèm nói
chuyện với con vật?
5. Nhưng, có một người đã coi hắn như một con người, thương hắn với
tình cảm của con người với con người. Đó là Thị Nở. Trong một cơn say
rượu, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và tình yêu thương mộc mạc, chân
thành của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người nông
dân lao động trong anh. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn trong
Chí Phèo sau lần gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ. Sáng
hôm ấy, sau khi tỉnh dậy, Chí Phèo thấy lòng "bâng khuâng mơ hồ buồn".
Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi
cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về... Những âm thanh
bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống và đã lay
động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ Thị Nở đã loé sáng như một
tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả
tình trạng bi đát của số phận mình. Tình yêu thương đã thức tỉnh anh, và
linh hồn của anh lâu nay phải bán cho quỷ để đổi lấy miếng ăn thì giờ đây
đã trở về. Anh bỗng thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người
biết bao!". Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại

"vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện".
Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người. Câu trả
lời của Thị Nở đã quyết định số phận của anh.
6. Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở thì
đã bị đóng lại. Bà cô Thị Nở không cho phép cháu bà "đi lấy một thằng (...)
chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của
bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với
Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là "quỷ dữ" mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh
trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch
tinh thần đau đớn. Khi hiểu ra rằng xã hội dứt khoát cự tuyệt mình, Chí
Phèo vật vã quằn quại trong cơn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại
uống... nhưng "càng uống càng tỉnh ra". Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô
hạn của thân phận mình. Rồi "hắn ôm mặt khóc rưng rức" cho đến khi


uống đến say mềm và lại xách dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi... như mọi lần.
Nhưng khác hẳn mọi lần: trong cơn quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, Chí
Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng vô phương
cứu chữa của đời mình. Chí đã đến trước mặt Bá Kiến, đanh thép kết án
lão và đã giết chết lão, sau đó, anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ
đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về, anh không thể sống kiểu lưu manh,
sống như thú vật được nữa. Nhưng xã hội lại không cho anh sống cuộc
sống con người! Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở
về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước anh. Anh chết để mãi
được sống là người, chứ không phải là “quỉ dữ”. Chí Phèo chết quằn quại
trên vũng máu của mình, chết trong niềm đau thương lớn lao vì niềm
khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người mà
không thực hiện được.
Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?" là câu hỏi chứa
chất phẫn uất, đau đớn, còn làm day dứt người đọc. Làm thế nào để con

người được sống lương thiện trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập
nhân tính ấy?
7. Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ
biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa: nhiều người lao động
lương thiện bị xã hội đẩy vào chỗ cùng đã quay lại chống trả bằng con
đường lưu manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có chuyện
Năm Thọ, rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tượng ấy chắc gì đã
chấm dứt. Cái chi tiết kết thúc truyện (nghe tin Chí Phèo chết, thị nở "nhìn
nhanh xuống bụng" và bỗng "thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ
không, xa nhà cửa và vắng người qua lại...") có nhiều ý nghĩa: rất có thể,
từ "cái lò gạch cũ" bỏ không, lại có một "Chí Phèo con" ra đời để "nối
nghiệp" bố... Điều chắc chắn là chừng nào còn bọn cường hào ức hiếp dân
lành, không cho họ được sống, thì chừng đó còn nhưng người lao động
lương thiện phải rơi vào con đường lưu manh để giành lấy miếng ăn, tức
là bị huỷ diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người.


8. Bằng bút pháp hiện thực sắc sảo, kết cấu, ngôn ngữ linh hoạt,…Chí
Phèo không chỉ tố cáo đanh thép quy luật tha hóa tàn bạo trong xã hội cũ,
mà còn thể hiện một cái nhìn nhân hậu, cảm thông và đầy trân trọng đối
với người nông dân.
Vấn đề 3 : Nhân vật Thị Nở
Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao thẳng cánh hạ bút những
dòng này: "Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái
ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy". Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như
ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân
vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy
không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai
"dự án thiết kế ban đầu" này? Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là
một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ

không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết
bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là
giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái
vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí,
là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng
cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc
nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở
hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên
thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã
xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng
này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa
tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng). Thì đây, sau lần "ăn
nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị
Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn
đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy mọi ràng
buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến
tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay
lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết


mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng
tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể
hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn
vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy
nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng
hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ
hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành,
tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung
cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở,
Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút

giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất,
không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào,
bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối
tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi
này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở
thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải
bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một
quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch
của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện,
muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh
thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên
từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào
đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra
khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước
những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang
về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách
dao đi... Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành.
Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế! Xét toàn bộ
hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù,
lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ
nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện


lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba
truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí
(tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan
trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả
có gì đáng nói đáng bàn lắm. Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô
mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những

phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương,
thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa.
Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một
người đàn bà đáng trọng. Thế mới biết Nam Cao thương nhân vật của
mình biết mấy! Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở
xấu xí và ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không
xấu tí nào cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn
lành lặn cả diện mạo lẫn tâm hồn? Thi pháp truyện truyền thống khi xây
dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt
của một tính cách: ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành
động và suy nghĩ... Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu
của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước đường cùng (của
Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì
phẩm cách cũng không ra gì... Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành ngược
hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp
(mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi
mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn...),
hoặc chỉ nội một phương diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu
(Điền, Hộ, Thứ - các nhân vật trí thức)... Ông đã nhận thức con người với
tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên
tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên - loại nhân vật là một
khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt
để đi theo nguyên tắc này. Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không
chỉ nhận thức thực tại qua và chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển
hình xã hội với tư cách là đại diện tiêu biểu của một chủng loại người, mà
còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị biệt (nhiều khi oái oăm, trái khoáy)
của cuộc đời. Những thứ ấy không phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có,


từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình ảnh, tình huống

truyện... và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão Hạc, Bá Kiến,
Thứ, Điền... có nhiều trong thực tại, chứ còn Lang Rận, Mụ Lợi, Trương
Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị Nở cũng là một mảnh vụn dị biệt
và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ
ra đầy nhiệt hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm, nham nhở của cõi người.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng
đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một hình ảnh đàn bà nào như Thị
Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng
đã có lần chê bai những ngừoi đàn bà thuần xấu xí: "Con gái Sơn Tây yếm
thủng tày dần", hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: "Lỗ mũi mười tám gánh
lông...". Ta còn có thể tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác "kể
xấu" về người đàn bà nữa. Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ,
sành ngôn ngữ bùn đất quê kiểng như Nam Cao không thể không biết đến
những bài ca "ngoa ngoắt" kiểu ấy. Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng
tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định, có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng
nhân vật của mình. Ông đã nhất quán từ đầu đến cuối để cho nhân vật Thị
Nở của mình thậm xấu như vậy. Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng
kích thước có tầm khái quát cho hình tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa
tác phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều tầng nghĩa thú vị...
Vấn đề 4 : Nhân vật Bá Kiến
a) Lai lịch nhân vật. Nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí. Con trai hắn làm lí
trưởng. Hắn từng làm lí trưởng rồi làm chánh tổng. Hắn leo đến đỉnh cao
của danh vọng: tiên chỉ làng Vũ Đại, chánh hội đồng kì hào, Bắc Kì nhân
dân đại biểu, phe cánh của hắn mạnh - luôn đối địch với bọn cường hào
trong làng, nơi "quần ngư tranh thực". b) Bản chất Bá Kiến. - Gian manh
nham hiểm. Thủ đoạn dùng người: "Trị không lợi thì cụ dùng". Sử dụng
họ như công cụ "không có những thằng đầu bò thì lấy ai để trị những
thằng đầu bò?". "Mềm nắn rắn buông" với triết lý: "Thứ nhất sợ kẻ anh
hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân". Hắn là kẻ cường hào "khôn róc
đời". - Ném đá giấu tay. Bá Kiến lấn át các phe cánh khác nhờ thu dụng



được những kẻ "không sợ chết, không sợ đi ở tù". Lọc lừa, giả dối và xảo
quyệt: "Hay ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên
để nó đền ơn. Hay đập bàn ghế, đòi cho được năm đồng nhưng được rồi
thì vất trả năm hào" vì "thương anh túng quá!"... Vì thế nhận ra bộ mặt
thật của Bá Kiến không phải dễ dàng. - Đểu cáng, tàn bạo. Bá Kiến đã
từng xô đẩy bao người lương thiện vào đường cùng: Năm Thọ, Binh Chức,
Chí Phèo. Chính hắn đã đẩy Chí Phèo vào tù vì hắn "chỉ muốn tất cả những
thằng trai trẻ đều đi ở tù". Chính hắn biến Chí Phèo thành quỷ dữ làng Vũ
Đại, và khi cần hắn sẵn sàng thí mạng Chí Phèo (sai đi đòi tiền Đội Tảo).
Chính hắn sống trên mồ hôi xương máu của người nghèo. Hắn là con quỷ
dữ rất ghê tởm! - Dâm ô đồi bại. Dù đã có bốn vợ nhưng Bá Kiến không bỏ
lỡ ngồi chung xe lên tỉnh với vợ Binh Chức. Tiền của anh lính gửi về chỉ đủ
cho Bá Kiến chơi bời hành lạc. c) Nghệ thuật xây dựng nhân vật. - Bá Kiến
là nhân vật điển hình. + Bá Kiến có nét chung của giai cấp thống trị tham
lam, tàn bạo, không trừ một thủ đoạn nào để bóc lột người nghèo. + Bá
Kiến có nét riêng của tên ác bá gian manh, nham hiểm, thủ đoạn. - Nghệ
thuật độc đáo của Nam Cao. Không như các nhà văn khác chỉ chú ý miêu tả
ngoại hình của giai cấp thống trị (Nghị Quế của Ngô Tất Tố, Nghị Lại của
Nguyễn Công Hoan), Nam Cao ít chú ý đến ngoại hình khi xây dựng Bá
Kiến. Ông khắc hoạ tâm địa là chính: "Cụ cười nhạt nhưng giòn giã lắm"...,
"cụ hay quát để thử dây thần kinh người khác". "Tiếng cười Tào Tháo" ấy
là tâm địa của kẻ độc ác xảo quyệt.Qua đó, thấy cái nhìn sắc sảo của Nam
Cao.
Vấn đề 5: Ý nghĩa đoạn kết truyện: - Là hình ảnh: Đột nhiên thị thấy
thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ hoang, xa nhà cửa, và vắng người qua
lại… - Kết thúc này thể hiện rất rõ tư tưởng chủ đề của thiên truyện và cho
thấy tài năng nghệ thuật trần thuật bậc thầy của Nam Cao. a. Ý nghĩa nội
dung: Kết thúc này bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của thiên truyện: Vòng quay

số phận luẩn quẩn của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng
Tám. - Hình ảnh lò gạch cũ là một hình ảnh có ý nghĩa quan trọng trong
thiên truyện. Sự xuất hiện của hình ảnh gắn với sự xuất hiện của hình
tượng Chí Phèo. - Hình ảnh lò gạch cũ bỏ không từng xuất hiện ở nhan đề


cũ của tác phẩm (Cái lò gạch cũ), ở phần đầu và phần cuối thiên truyện,
gợi về không gian của làng quê Việt Nam hoang phế, tiêu điều, tàn tạ. Cuộc đời Chí Phèo bắt đầu cùng sự xuất hiện của không gian lò gạch. Hắn
vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi, "trần truồng và xám ngắt" trong cái lò gạch cũ.
Toàn bộ hành trình sống, tha hóa và thức tỉnh của Chí Phèo cũng bắt đầu
từ chính cái lò gạch này. Sự kiện gặp gỡ Thị Nở tưởng đã vãn hồi được
nhân tính ẩn sâu trong Chí Phèo, cho y cơ hội trở lại làm người nhưng rồi
chính định kiến tăm tối của làng Vũ Đại đã khiến Chí buộc phải lựa chọn
cái chết khi y không muốn chấp nhận kiếp sống thú vật. - Chi tiết lò gạch
xuất hiện trong tâm trí Thị Nở ở cuối tác phẩm như một sự dự báo sự
diễn tiến về sau của "hiện tượng Chí Phèo". Chí Phèo chết nhưng hiện
tượng Chí Phèo vẫn còn tiếp tục, lò gạch vẫn còn đó và rất có thể sẽ còn có
những Chí Phèo khác tiếp tục được hoài thai.Từ đó Nam Cao bộc lộ thái
độ đau xót trước một qui luật của số phận người nông dân trong xã hội cũ
và định hướng một con đường giải quyết hiện tượng Chí Phèo – quét sạch
những "lò gạch cũ", những tàn dư của xã hội thực dân phong kiến. b. Ý
nghĩa nghệ thuật Hình ảnh kết thúc này cũng thể hiện tài năng của Nam
Cao trong trần thuật. Sự xuất hiện của hình ảnh tất yếu, phù hợp với sự
vận động logic của diễn biến thiên truyện.
Vấn đề 6 : Gía trị hiện thực và giá trị nhân đạo của “Chí Phèo”
1-Giá trị hiện thực:
- Phản ánh những mâu thuẫn xung đột trong xã hội nông thôn trước
CMT8 (bao gồm xung đột giữa các thế lực thống trị và xung đột gay gắt,
quyết liệt và không thể điều hòa giữa giai cấp thống trị với người lao động,
tiêu biểu là xung đột Bá Kiến và Chí Phèo

+ Bá Kiến: Tiêu biểu với bản chất tàn bạo và quỉ quyệt. BK lọc lõi, thủ
đoạn: túm thằng có tóc, không túm thằng trọc đầu; dùng thằng đầu bò trị
thằng đầu bò;, dìm người ta xuống để rồi lại cứu người lên. Từ tội nhân
BK biến mình thành ân nhân. Và hắn biến CP từ nạn nhân thành tội nhân.


+ Chí Phèo: Điển hình cho người nông dân lương thiện biến thành quỷ dữ,
khi thức tỉnh lương tâm, CP lại chết một cách bi thảm, thảm khốc ngay
trên ngưỡng cửa trở về làm người lương thiện.
- Phản ánh một hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ, phản ánh và
lí giải quy luật: chừng nào còn XH vô nhân đạo thì chừng ấy vẫn còn hiện
tượng CP.
Thể hiện rõ nhất ở số phận người nông dân có số phận bi thảm và cái chết
thảm khốc, nhất là được thể hiện rõ trong chi tiết cuối tác phẩm. BK chết,
Lí Cường lên thay, và một CP “con” lại nối nghiệp tiếp tục, XH VN vẫn
không thay đổi, vẫn như trước.
2- Giá trị nhân đạo:
- Xót thương sâu sắc trước số phận bi thảm của người lao động. Ẩn sâu từ
giọng văn có vẻ dửng dưng, có phần lạnh lùng là tấm lòng nhân ái thiết
tha của nhà văn; Miêu tả ngoại hình xấu xa nhân vật TN và CP như một sự
dị dạng, như một sản phẩm không toàn vẹn của tạo hóa và niềm băn
khoăn đau đớn trước sự hủy hoại nhân tính của CP
- Khẳng định, đề cao bản chất tốt đẹp của người lao động. Đó là bản chất
lương thiện; là sức mạnh của sự thức tỉnh lương tâm:
+ Khẳng định bản chất lương thiện của người lao động, tiêu biểu là nhân
vật CP và TN. Từ một người nông dân lương thiện, CP bị BK nhuộm đen
nhân tính, tưởng chừng như CP bị mất nhân tính. Nhưng bản chất lương
thiện của CP vẫn luôn ẩn khuất đâu đây, chỉ chờ dịp là nó sống lại. Sự săn
sóc và tình yêu của TN đã làm trỗi dậy bản chất lương thiện, nhân tính của
CP, ban đầu là nước mắt (qua tiếng khóc) của CP; Ở nhân vật Thị Nở, tác

giả miêu tả thị như một sản phẩm vô giá trị nhưng lại tồn tại cái vô giá đó
là tình người. Bản chất lương thiện và tình người của TN đã làm bừng
sáng bản chất lương thiện của người lao động


+ Đề cao sự thức tỉnh lương tâm chủ yếu được thể hiện qua nhân vật CP.
Cái chết của CP là sự chiến thắng của lương tâm, của nhân tính con người.
Sau khi thức tỉnh, CP gắng gượng trở về cuộc đời LT. CP đã có một sự lựa
chọn: hoặc trở về cuộc sống quỷ dữ, hủy hoại lương tâm, hoặc phải chết.
CP đã chọn cái chết để giữ lương tâm trong sáng. Cái chết của CP là cái
chết của một Con người, là sự chiến thắng của lương tâm.
- Lên án, tố cáo tội ác xã hội đương thời, tiêu biểu là nhân vật BK. TP là
bản cáo trạng đanh thép, tố cáo XH đã tiêu diệt đến tận cùng khát khao
lương thiện và quyền sống của người lao động; XH đã cướp đi nhân hình
lẫn nhân tính của CP. Trước khi vào tù CP là một thanh niên khỏe mạnh,
sau khi ở tù ra, CP buộc phải bán linh hồn cho quỷ dữ để sống. Sau khi gặp
TN, CP thức tỉnh lương tâm, linh hồn trở về thì ngay lập tức bị XH thủ tiêu
sự sống.
- Qua TP, Nam Cao còn hướng tới những giải pháp XH mang tính nhân
đạo, mang tính triết lí. Thông điệp của nhà văn là hãy ngăn chặn tình
trạng XH làm tha hóa con người. Nghĩa là phải thay đổi hoàn cảnh XH.
Với chi tiết CP ở tù ra, 3 lần CP đến nhà BK, 2 lần đầu CP đến đòi tiền và
CP tồn tại. Nhưng lần 3 CP đến đòi lương thiện, đòi cái mà XH, mà BK
không có, kết cục CP nhận ra điều này (ai cho tao lương thiện) vì thế mà
CP phải chết ngay trên ngưỡng cửa cuộc đời lương thiện.



×