Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Nghiên cứu hoạt động nội thương tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 157 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thƣơng mại nói chung và nội thƣơng nói riêng là một trong những hoạt động
dịch vụ quan trọng nhất của nền kinh tế. Một xã hội không có thƣơng mại thì mọi
hoạt động sản xuất bị ngừng trệ và những nhu cầu của con ngƣời không đƣợc đáp
ứng. Trong đó có bộ phận vô cùng quan trọng là thị trƣờng trong nƣớc do ngành nội
thƣơng đảm nhận.
Nội thƣơng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, qua đó thể
hiện đƣợc phần nào tiềm lực kinh tế và sự thịnh vƣợng của một quốc gia. Đồng thời
ngành này còn có vai trò khẳng định những lợi thế so sánh của mình trên một thị
trƣờng lớn hơn. Trong bối cảnh các quốc gia phải phụ thuộc về kinh tế vào nhau
nhiều hơn thì vai trò của thị trƣờng nội địa lại càng quan trọng. Nó đƣợc ví là “cái
phao” của nền kinh tế mỗi khi kinh tế toàn cầu có biến động. Trong những năm qua,
đặc biệt từ sau Đổi mới (1986), ngành thƣơng mại nói chung và nội thƣơng nói
riêng của nƣớc ta ngày càng lớn mạnh và đã có những bƣớc chuyển biến quan
trọng. Thị trƣờng đƣợc mở rộng, hàng hóa đƣợc lƣu thông với cƣờng độ lớn, tốc độ
nhanh nhằm phục vụ nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng ngày càng tăng lên cả về số
lƣợng và chất lƣợng. Đặc biệt, từ khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của
WTO, ngành thƣơng mại nƣớc ta ngày càng có nhiều triển vọng và cơ hội phát triển
mạnh mẽ, trong đó có hoạt động nội thƣơng.
Quảng Ninh nằm trong VKTTĐPB, tiếp giáp với vùng đồng bằng sông Hồng
– nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động. Đây là những điều kiện thuận lợi cho
tỉnh phát triển hơn nữa ngành nội thƣơng. Hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa
trên thị trƣờng diễn ra với cƣờng độ cao, đặc biệt là khu vực đô thị và khu vực biên
giới Việt Nam – Trung Quốc.
Với những lợi thế về vị trí địa chính trị của mình, hoạt động nội thƣơng tỉnh
Quảng Ninh đã phát triển từ rất sớm, có tác động tới lƣợng hàng hóa lƣu thông
trong vùng và cả nƣớc. Đứng trƣớc yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cùng quá trình hội nhập kinh tế, hoạt động nội thƣơng của tỉnh đã có những

1




bƣớc chuyển mình đáng kể. Tuy nhiên, nó cũng không thể tránh khỏi những khó
khăn và những hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, nghiên cứu dƣới góc độ địa lý là cần
thiết nhằm đánh giá đúng tiềm năng, lợi thế và thực trạng hoạt động nội thƣơng của
tỉnh hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu nhiều hơn nữa về quê hƣơng Quảng Ninh,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu hoạt động nội thƣơng tỉnh Quảng Ninh”
dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Nguyễn Minh Tuệ.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Thƣơng mại là một ngành kinh tế quan trọng trong hệ thống các ngành kinh
tế quốc dân. Bởi vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này dƣới nhiều
góc độ: nghiên cứu thƣơng mại nói chung, nghiên cứu từng bộ phận của thƣơng mại
hay nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau (từ kinh tế học tới địa lý học,..).
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về thƣơng mại, trong đó có
hoạt động nội thƣơng. Đề cập tới cơ sở lí luận về nội thƣơng, trƣớc hết phải kể tới
“Giáo trình kinh tế thương mại” của Đặng Đình Hào và Hoàng Đức Thân [5].
Trong giáo trình “Địa lý kinh tế - xã hội đại cương” [20] của tác giả Nguyễn Minh
Tuệ (chủ biên) cũng đã đề cập tới những nội dung căn bản nhất của nội thƣơng ở
chƣơng IV.
Về hoạt động nội thƣơng nói riêng và thƣơng mại nói chung Kỉ yếu hội thảo
quốc gia “Thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Bộ
Thƣơng mại (2003) đã phân tích cụ thể những vấn đề của thƣơng mại dƣới góc độ
kinh tế. Gần đây, tác giả Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông (đồng chủ biên) đã phân tích
rất cụ thể về phƣơng diện của địa lý học thƣơng mại, trong đó có hoạt động nội
thƣơng trong cuốn “Địa lý dịch vụ” – tập 2 [23]. Bên cạnh đó, còn nhiều giáo trình
đề cập tới các khía cạnh của hoạt động nay nhƣ giáo trình “Địa lý kinh tế - xã hội
Việt Nam” của tác giả Lê Thông (chủ biên) [16], giáo trình “Địa lý kinh tế - xã hội
Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Minh Đức và Nguyễn Viết Thịnh [14].
Đề cập tới riêng hoạt động nội thƣơng cũng có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này của các tác giả ở Viện nghiên cứu Thƣơng mại, Bộ Công thƣơng.

Nghiên cứu “Giải pháp phát triển các loại hình bán lẻ văn minh hiện đại ở nước ta”

2


[13] của tác giả Phạm Hữu Thìn đã đề cập tới các đặc trƣng của loại hình bản lẻ
mới đƣợc hình thành và phát triển ở nƣớc ta (chủ yếu là siêu thị và trung tâm
thƣơng mại). Tiếp theo là các nghiên cứu của Viện thƣơng mại, “Thực trạng và giải
pháp phát triển hệ thống siêu thị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” [27]. Nghiên
cứu về một hình thức tổ chức lãnh thổ cụ thể của nội thƣơng có các công trình
nghiên cứu “Tổ chức và quản lí chợ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường
có sự quản lí của Nhà nước” [28] và “Giải pháp phát triển các mô hình kinh doanh
chợ” [1]. Ngoài ra còn các bài báo đƣợc đăng trên các kỉ yếu và tạp chí: “Thương
mại Việt Nam 20 năm đổi mới” (Bộ Công thƣơng, 2005), “Siêu thị - phương thức
kinh doanh bán lẻ hiện đại tại Việt Nam” (NXB Lao động – xã hội, 2006). Bên cạnh
đó, các luận văn thạc sĩ trong thời gian gần đây cũng đã tiến hành nghiên cứu hoạt
động này trên phạm vi nhỏ hơn, tiêu biểu là đề tài Địa lý thương mại tỉnh Phú Thọ
(Đinh Phƣơng Liên, 2013) [6].
Bàn về thƣơng mại Quảng Ninh nói chung và hoạt động nội thƣơng nói riêng
chƣa có nhiều công trình nghiên cứu. Lịch sử phát triển thƣơng mại Quảng Ninh đã
đƣợc tổng hợp và đúc kết trong cuốn “Địa chí Quảng Ninh” [15] với những nét đặc
sắc và nổi bật nhất. Các Báo cáo hàng năm của Sở Công thƣơng tỉnh Quảng Ninh
về các lĩnh vực của thƣơng mại, trong đó tiiêu biểu và có ý nghĩa với đề tài là Báo
cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội Quảng Ninh tới năm
2020 định hướng tới 2030 [25], “Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại tỉnh
Quảng Ninh tới năm 2030” [12].
Ngành thƣơng mại nói chung và hoạt động nội thƣơng nói riêng đƣợc nghiên
cứu và công bố trên nhiều tài liệu khoa học. Đây là nguồn thông tin quý báu, khá
chi tiết về cơ sở lí luận cũng nhƣ các nội dung nghiên cứu thực tiễn. Trên cơ sơ
tham khảo tổng quan kết hợp với thực địa, khảo sát địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tác giả

đã phân tích, tổng hợp để hoàn thành đề tài “Nghiên cứu hoạt động nội thƣơng
tỉnh Quảng Ninh”.

3


3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ, GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở đúc kết những vấn đề lý luận và thực tiễn về ngành thƣơng mại
nói chung và hoạt động nội thƣơng nói riêng dƣới góc độ địa lý, đề tài có mục tiêu
đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng và thực trạng hoạt động nội thƣơng ở tỉnh Quảng
Ninh. Từ đó, đề xuất những giải pháp phát triển hoạt động nội thƣơng một cách hợp
lí, hiệu quả theo xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện những mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Tổng quan một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động nội thƣơng dƣới
góc độ địa lý học, vận dụng nghiên cứu vào địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng tới hoạt động nội thƣơng ở tỉnh Quảng Ninh.
- Phân tích thực trạng hoạt động nội thƣơng ở tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2005 – 2013.
- Đề xuất giải pháp góp phần phát triển hoạt động nội thƣơng của Tỉnh trong
giai đoạn tới.
3.3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập nghiên cứu hoạt động nội thƣơng dƣới
góc độ địa lý học với một số nội dung sau:
+ Tập trung đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển
hoạt động nội thƣơng.
+ Phân tích thực trạng hoạt động nội thƣơng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Trong đó, tập trung chủ yếu vào một số tiêu chí hoạt động là tổng mức bản lẻ hàng hóa

và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (TMBLHH & DTDVTD), TMBLHH & DTDVTD
bình quân đầu ngƣời, cơ cấu tổng mức bán lẻ, các hình thức tổ chức lãnh thổ
(HTTCLT) của hoạt động nội thƣơng nhƣ cửa hàng bán lẻ, chợ, siêu thị và trung tâm
thƣơng mại (TTTM).

4


- Về lãnh thổ nghiên cứu: luận văn chủ yếu nghiên cứu trên phạm vi toàn tỉnh,
có chú ý tới sự phân hoá theo thành phố, huyện, thị xã. Bên cạnh đó, luận văn có
chú ý tới sự so sánh với một số tỉnh, thành phố lân cận.
- Về thời gian nghiên cứu: luận văn chủ yếu tập trung phân tích, sử dụng số
liệu, tƣ liệu chính thống của Tổng cục thống kê và các cơ quan chức năng trong
khoảng 9 năm trở lại đây (từ năm 2005 tới 2013), bổ sung cập nhật một số chỉ tiêu
tới năm 2014 và định hƣớng tới năm 2020, tầm nhìn tới năm 2030.
4. QUAN ĐIỂM VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm tổng hợp
Đây là quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu Địa lý nói
chung và Địa lí học nói riêng. Quan điểm này đòi hỏi việc phân tích đối tƣợng
nghiên cứu trong sự vận động, biến đổi trên cơ sở mối quan hệ biện chứng giữa các
yếu tố cấu thành chúng và với hệ thống khác.
Sự phát triển của hoạt động nội thƣơng nằm trong sự phát triển của ngành
thƣơng mại và một tổng thể lớn hơn là toàn bộ nền kinh tế. Nội thƣơng, hay rộng
hơn là ngành thƣơng mại, có vai trò cầu nối mật thiết giữa sản xuất với tiêu dùng và
giữa các ngành kinh tế. Sự phát triển của các ngành kinh tế và nhu cầu của xã hội là
động lực phát triển cho hoạt động nội thƣơng. Vì vậy, khi nghiên cứu về sự phát
triển và phân bố của hoạt động nội thƣơng cần chú ý mối quan hệ và tác động tổng
hợp của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cần chú ý tới các yếu tố tự nhiên
tác động tới quá trình xây dựng và quy hoạch một số hệ thống bán lẻ hàng hóa, gián

tiếp tạo nên các lợi thế về hàng hóa và sản phẩm của tỉnh.
4.1.2. Quan điểm hệ thống
Thƣơng mại là một ngành không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Hệ thống ngành thƣơng mại bao gồm hai hoạt động nội thƣơng và ngoại thƣơng. Sự
phát triển của hoạt động nội thƣơng nói chung bị chi phối bởi nhiều yếu tố (từ các
nhân tố kinh tế xã hội đóng vai trò quyết định tới sự tác động gián tiếp của các nhân
tố tự nhiên) và có quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau với các hoạt động kinh

5


tế khác. Vì vậy, khi nghiên cứu thực trạng hoạt động nội thƣơng ở tỉnh Quảng Ninh
cần chú ý tới sự phát triển tổng thể kinh tế - xã hội trên địa bàn cũng nhƣ trong vùng
và cả nƣớc; mối quan hệ giữa nội thƣơng và các ngành kinh tế khác.
4.1.3. Quan điểm lãnh thổ
Quảng Ninh là một tỉnh có vị trí quan trọng, thuộc vùng Trung du miền núi
Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (VKTTĐPB). Vị trí địa đầu tổ quốc tiếp
giáp nhiều tỉnh, thành phố, vịnh Bắc Bộ, có đƣờng biên giới với tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc) và 2 huyện đảo Vân Đồn và Cô Tô. Vị trí địa lý của tỉnh Quảng Ninh
mang tính tác động liên vùng, có vai trò quan trọng trong VKTTĐPB. Điều này
không chỉ có ảnh hƣởng tới toàn bộ nền kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung mà nó
còn mang lại cho hoạt động nội thƣơng của tỉnh nhiều lợi thế và những nét khác biệt
so với các địa phƣơng khác trên cả nƣớc.
4.1.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tƣợng đều có quá trình phát sinh và phát triển. Có nghĩa là,
nó luôn vận động, biến đổi không ngừng, đặc biệt là các vấn đề kinh tế - xã hội. Vì
vậy, khi nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động
nội thƣơng nói riêng đòi hỏi phải nhìn nhận trong sự phát triển theo thời gian gắn
với quá khứ và định hƣớng tƣơng lai. Quảng Ninh là một tỉnh có hoạt động trao
đổi hàng hóa diễn ra sớm và trải qua nhiều giai đoạn gắn với những bƣớc thăng

trầm trong lịch sử phát triển đất nƣớc. Khi nghiên cứu về hoạt động nội thƣơng, ta
cần xem xét tới sự phát triển qua các thời kì để thấy rõ đƣợc sự thay đổi trong
từng giai đoạn cụ thể.
4.1.5. Quan điểm phát triển bền vững
Quảng Ninh là một tỉnh giàu tiềm năng phát triển kinh tế với thế mạnh về
công nghiệp và dịch vụ, có nguồn nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao và nằm
trong VKTTĐPB. Do vậy, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và sử dụng dịch vụ ngày
càng cao. Vì vậy, phát triển hệ thống buôn bán hàng hóa nội địa theo phƣơng thức
hiện đại, quy mô lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của ngƣời dân là
một điều cần thiết. Không những thế, nội thƣơng Quảng Ninh còn có vai trò đảm

6


bảo nhu cầu tiêu dùng của các khu vực lân cận, đồng thời phục vụ cho các ngành
sản xuất và củng cố an ninh quốc phòng.
Sự phát triển hoạt động nội thƣơng trong chừng mực nhất định sẽ có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Song cần quan tâm, xem xét trong mối
quan hệ với các ngành kinh tế khác nhƣ giao thông vận tải, du lịch,.. và các yếu tố
xã hội (việc làm, môi tƣờng,..) sao cho đảm bảo sự phát triển bền vững của kinh tế xã hội – môi trƣờng.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.2.1. Phƣơng pháp thu thập, xử lí tài liệu
Để đánh giá đúng đắn và đầy đủ tiềm năng và thực trạng phát triển của hoạt
động nội thƣơng ở nƣớc ta nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng, tác giả đã thu
thập, xử lí số liệu từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có một số nguồn thứ cấp chủ
yếu sau:
+ Nguồn số liệu từ cơ quan chức năng: Viện nghiên cứu Thƣơng mại - Bộ
Công thƣơng; các phòng ban trực thuộc Sở Công thƣơng tỉnh Quảng Ninh.
+ Số liệu từ niên giám thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam và cục
thống kê tỉnh Quảng Ninh.

+ Các báo cáo, nghị quyết, đề án, quy hoạch về phát triển thƣơng mại của
tỉnh Quảng Ninh hiện tại và tƣơng lai.
+ Các giáo trình, đề tài nghiên cứu về mạng lƣới bán lẻ hàng hóa của các Bộ,
ngành liên quan.
4.2.2. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Từ tƣ liệu và số liệu thu thập đƣợc từ các nghiên cứu của Viện thƣơng mại,
bài báo chuyên đề, số liệu thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam và cục thống
kê Quảng Ninh cùng nhiều tài liệu khác, tác giả đã phân tích, so sánh, tổng hợp để
đánh giá và phát hiện vấn đề.
4.2.3. Phƣơng pháp thực địa
Để có những đánh giá, nhìn nhận khách quan về vấn đề nghiên cứu, tác giả
tiến hành các cuộc điều tra, khảo sát một số hình thức bản lẻ hàng hóa trên địa bàn

7


tỉnh Quảng Ninh nhƣ TP. Hạ Long, TP. Cẩm Phả, TP. Móng Cái, TP. Uông Bí,
TX.Quảng Yên, huyện Đông Triều, huyện Vân Đồn,... Qua đó bổ sung thêm kiến
thức thực tế và sƣu tầm tranh ảnh minh hoạ cho luận văn thêm phong phú và có
tính thuyết phục.
4.2.3. Phƣơng pháp bản đồ, GIS
Trên cơ sở các bản đồ có sẵn liên quan đến đề tài nhƣ : bản đồ tự nhiên, bản
đồ dân cƣ, bản đồ kinh tế để đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của
hoạt động nội thƣơng. Trên cơ sở dữ liệu, bằng công cụ GIS, tác giả đã thành lập
một số bản đồ thể hiện kết quả nghiên cứu của đề tài:
- Bản đồ các nhân tố ảnh hƣởng tới hoạt động nội thƣơng tỉnh Quảng Ninh.
- Bản đồ phát triển và phân bố mạng lƣới chợ tỉnh Quảng Ninh.
- Bản đồ thực trạng hoạt động nội thƣơng tỉnh Quảng Ninh.
4.2.4. Phƣơng pháp chuyên gia
Tác giả đã xin ý kiến các nhà khoa học, các chuyên viên ở Viện nghiên cứu

Thƣơng mại, Bộ Công thƣơng; chuyên viên phòng quản lí thƣơng mại, Sở Công
thƣơng tỉnh Quảng Ninh; chuyên viên tại Phòng thƣơng mại – Cục thống kê tỉnh
Quảng Ninh. Đây là những ngƣời am hiểu về lĩnh vực thƣơng mại, đã có những ý
kiến đóng góp để đề tài đƣợc hoàn thiện và có giá trị khoa học.
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
- Kế thừa và làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn về hoạt động nội thƣơng.
- Làm rõ đƣợc những thế mạnh và hạn chế của các nhân tố ảnh hƣởng đến
hoạt động nội thƣơng tỉnh Quảng Ninh, đƣa ra bức tranh hoạt động nội thƣơng, các
hình thức tổ chức lãnh thổ của chúng giai đoạn 2005 – 2013 và năm 2014.
- Từ nghiên cứu của mình, đề xuất đƣợc một số giải pháp nhằm phát triển
bền vững của hoạt động nội thƣơng ở tỉnh Quảng Ninh trong tƣơng lai.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc trình bày
trong 139 trang, sử dụng 9 biểu đồ, 13 bảng số liệu, 4 bản đồ, 10 phụ lục và các
tranh ảnh minh họa.

8


Phần nội dung đƣợc sắp xếp logic, khoa học thành 3 chƣơng chính:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về hoạt động nội thƣơng
Chƣơng 2: Các nhân tố ảnh hƣởng và thực trạng hoạt động nội thƣơng ở tỉnh
Quảng Ninh.
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp phát triển hoạt động nội thƣơng tỉnh
Quảng Ninh tới năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

9


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG NỘI THƢƠNG
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Thƣơng mại
Thƣơng mại là ngành có lịch sử lâu đời và hiện là một trong những hoạt
động quan trọng nhất của ngành dịch vụ. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc về thƣơng mại. Trong các công trình nghiên cứu
đó, các tác giả đã cố gắng đƣa ra những khái niệm về thƣơng mại từ nhiều góc độ
nghiên cứu khác nhau. Nói chung lại thì các khái niệm đều hàm chứa ý nghĩa
thƣơng mại là hoạt động trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa bên mua và bên bán.
“Thương mại được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh
doanh trên thị trường. Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh, được hiểu như là
các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị
trường.” [23]
“Theo nghĩa hẹp, thương mại là quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa trong một quốc gia. Nếu
hoạt động trao đổi hàng hóa vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì người ta gọi đó là
ngoại thương”. [23]
1.1.1.2. Nội thƣơng
Nội thƣơng (hay thƣơng mại nội địa, buôn bán trong nƣớc) là hoạt động trao
đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ bên trong một quốc gia
1.1.1.3. Hàng hóa
“Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi (mua bán). Hàng hóa có hai thuộc
tính: giá trị sử dụng và giá trị. Hàng hóa là phạm trù lịch sử, sự xuất hiện và tồn tại
của hàng hóa khi có sự phân công lao động xã hội với những chủ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất hoặc chủ thế kinh doanh.” [23]

10



1.1.1.4. Thị trƣờng
“Thị trường” trong kinh tế học và kinh doanh thị trƣờng đƣợc hiểu là ngƣời
mua và ngƣời bán (hay ngƣời có nhu cầu và ngƣời cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc
gián tiếp với nhau để trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ.
Thị trƣờng là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ
nhằm thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định
theo các thông lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lƣợng và giá cả cần thiết của sản
phẩm và dịch vụ.
“Thị trường nội địa” là nơi trao đổi mua bán hàng hóa dịch vụ trong phạm vi
một quốc gia. [23]
1.1.1.5. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp toàn bộ doanh thu hàng hóa bán lẻ và dịch vụ
tiêu dùng đã bán ra thị trƣờng của các cơ sở sản xuất kinh doanh, bao gồm: doanh
thu bán lẻ hàng hóa của các cơ sở kinh doanh thƣơng nghiệp, doanh thu bán lẻ sản
phẩm của cơ sở sản xuất và nông dân trực tiếp bán ra thị trƣờng, doanh thu khách
sạn, nhà hàng, doanh thu du lịch lữ hành, doanh thu dịch vụ phục vụ cá nhân, cộng
đồng và các dịch vụ khác do các tổ chức và cá nhân kinh doanh, phục vụ trực tiếp
cho ngƣời tiêu dùng. [23]
1.1.2. Vai trò, chức năng của ngành nội thƣơng
1.1.2.1. Vai trò của ngành nội thƣơng
Nội thƣơng (thƣơng mại nội địa, buôn bán trong nƣớc) là một trong hai phân
ngành của thƣơng mại đƣợc tính theo cấp độ lãnh thổ. Nội thƣơng có nhiệm vụ trao
đổi hàng hóa và dịch vụ trong một quốc gia. Là một bộ phận của nền kinh tế, nội
thƣơng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trƣờng của nƣớc ta.
Thƣơng mại nói chung và nội thƣơng nói riêng là điều kiện thúc đẩy sản xuất
hàng hóa phát triển. Thông qua hoạt động buôn bán trên thị trƣờng, nhà sản xuất
cung ứng nguyên liệu, vật tƣ, máy móc và tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. Đối với
ngƣời tiêu dùng, hoạt động nội thƣơng không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
họ mà còn có tác dụng tạo ra thị hiếu mới, nhu cầu mới. Điều đó đảm bảo cho quá


11


trình sản xuất xã hội đƣợc bình thƣờng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, lƣu thông
hàng hóa và dịch vụ trong nƣớc đƣợc thông suốt.
Thông qua các hoạt động quảng cao, khuyến mại,..hoạt động nội thƣơng có
vai trò lớn trong việc hƣớng dẫn tiêu dùng, tạo ra các tập quán tiêu dùng mới.
Nội thƣơng có ý nghĩa rất lớn đối với sự phân công lao động theo lãnh thổ
giữa các vùng trong nƣớc. Đó là vì mỗi vùng tham gia vào quá trình phân công lao
động theo lãnh thổ bằng cách sản xuất ra những sản phẩm hàng hóa dựa trên những
lợi thế so sánh của mình để cung cấp sản phẩm cho các vùng khác, đồng thời lại
tiêu thụ sản phẩm của vùng khác. Phân công lao động theo lãnh thổ ngày càng sâu
sắc thì nội thƣơng nói riêng và thƣơng mại nói chung càng phát triển. [23]
1.1.2.2. Chức năng ngành nội thƣơng
Chức năng của mỗi ngành kinh tế là một phạm trù khách quan, đƣợc hình
thành trên cơ sở phát triển lực lƣợng sản xuất và trình độ phân công lao động xã
hội. Ở nƣớc ta, ngành nội thƣơng có một số chức năng cơ bản sau:
- Tổ chức quá trình lƣu thông hàng hóa, dịch vụ trong nƣớc. Đây là chức
năng xã hội của nội thƣơng, đòi hỏi phải nghiên cứu và nắm vững nhu cầu của thị
trƣờng hàng hóa, dịch vụ, huy động và sử dụng hợp lí các nguồn hàng nhằm thỏa
mãn mọi nhu cầu của xã hội, thiết lập các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân và thực hiện hiệu quả các hoạt động dịch vụ trong quá trình kinh doanh.
- Thông qua quá trình lƣu thông hàng hóa, nội thƣơng thực hiện chức năng
tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lƣu thông. Thực hiện chức năng này, nội
thƣơng phải tổ chức công tác vận chuyển hàng hóa, tiếp nhận, bảo quản, phân phối,.
- Thông qua hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa trong nƣớc, nội thƣơng
thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, góp phần tăng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong
nƣớc, từ đó làm cơ sở đẩy mạnh hoạt động ngoại thƣơng, gắn kết thị trƣờng trong
nƣớc với thị trƣờng quốc tế.

- Nội thƣơng thực hiện chức năng chuyển hóa hình thái giá trị của hàng hóa và
dịch vụ (từ giá trị sang giá trị sử dụng). Đây là chức năng quan trọng nhằm đáp ứng
nhu cầu sản xuất và đời sống, nâng cao mức hƣởng thụ của ngƣời tiêu dùng. [23]

12


1.1.3. Đặc điểm của hoạt động nội thƣơng trong nền kinh tế thị trƣờng
Nền kinh tế thị trƣờng là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi
tất cả các mối quan hệ trong quá trình sản xuất xã hội đều đƣợc tiền tệ hóa; các yếu
tố của sản xuất (nhƣ đất đai, tài nguyên; vốn, sức lao động; công nghệ và quản lí;
dịch vụ tạo ra, chất xám;..) đều là đối tƣợng mua bán và trở thành hàng hóa. Nền
kinh tế thị trƣờng có sự quản lí của nhà nƣớc là nền kinh tế hỗn hợp vừa có cơ chế
từ điều chỉnh của thị trƣờng và vừa có cơ chế quản lí của Nhà nƣớc. Trong điều
kiện nhƣ vậy, nội thƣơng nƣớc ta có những đặc trƣng cơ bản sau:
- Phát triển trao đổi hàng hóa và dịch vụ trong nƣớc dựa trên nền kinh tế
nhiều thành phần, bao gồm kinh tế Nhà nƣớc, kinh tế ngoài Nhà nƣớc (cá thể, tƣ
nhân, tập thể), khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
- Phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa dƣới sự quản lí của Nhà nƣớc,
buôn bán theo cơ chế thị trƣờng không thể nào giải quyết đƣợc hết những vấn đề do
chính cơ chế đó và bản thân hoạt động thƣơng mại, dịch vụ tạo ra nhƣ vấn đề
thƣơng mại với môi trƣờng, nhu cầu kinh doanh với nhu cầu xã hội, hàng giả, hàng
nhái, gian lận thƣơng mại… Sự quản lí của Nhà nƣớc đƣợc thể hiện bằng luật pháp
và các chính sách, chiến lƣợc, quy hoạch và kế hoạch phát triển. Nhà nƣớc sử dụng
các công cụ đó để hoạt động thƣơng mại ở thị trƣờng trong nƣớc phát triển trong
trật tự, kỉ cƣơng, kinh doanh theo đúng nguyên tắc của thị trƣờng.
- Tự do lƣu thông hàng hóa dịch vụ theo quy luật kinh tế thị trƣờng và theo
pháp luật. Sản xuất hàng hóa trƣớc hết là sản xuất những giá trị sử dụng, những
những giá trị sử dụng này có thể mang đi trao đổi mới trở thành hàng hóa. Thƣơng
mại làm cho sản xuất phù hợp với những biến đổi không ngừng của thị trƣờng. Tự

do thƣơng mại làm cho lƣu thông hàng hóa trên thị trƣờng trong nƣớc nhanh chóng
và thông suốt.
- Mua bán theo giá cả thị trƣờng. Giá cả trên thị trƣờng đƣợc hình thành trên
cơ sở giá trị thị trƣờng. Nó là giá trị trung bình của những hàng hóa chiếm phần lớn
thị trƣờng. Mua bán theo giá cả thị trƣờng trở thành động lực để thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển, tạo cơ hội cho doanh nghiệp.

13


- Tất cả các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực nội thƣờng đều đƣợc tiền tệ
hóa thực hiện theo định hƣớng của Nhà nƣớc, tuân theo quy định của lƣu thông
hàng hóa và cỉa kinh tế thị trƣờng. [23]
1.1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng tới hoạt động nội thƣơng
1.1.4.1. Vị trí địa lý
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, cùng với sự phát triển vƣợt bậc của
mạng thông tin toàn cầu và hoạt động giao thông vận tải quốc tế đã phá vỡ khoảng
cách về không gian địa lý nhƣng vị trí địa lý vẫn đƣợc đánh giá là nhân tố quan
trọng. Những lợi thế về địa tô là định hƣớng phát triển có lợi nhất trong phân công
lao động quốc tế và xây dựng mối quan hệ giao lƣu, trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển của hoạt động nội thƣơng nói
riêng và thƣơng mại nói chung của một quốc gia, một vùng hay một địa phƣơng.
Trên thực tế cho thấy, những nơi có vị trí thuận lợi nhƣ nằm trên đƣờng hàng
hải, hàng không quốc tế, nằm ở trung tâm vùng kinh tế, khu vực kinh tế sôi động là
cơ hội không nhỏ để chia sẻ những lợi thế giúp tham gia quá trình hội nhập sâu,
rộng và đón nhận nhiều cơ hội để phát triển, nguồn hàng hóa và dịch vụ trở nên đa
dạng và phong phú hơn.
1.1.4.2. Kinh tế - xã hội
a. Trình độ phát triển kinh tế
Trình độ phát triển của nền kinh tế, nhất là các ngành sản xuất vật chất có

ảnh hƣởng trực tiếp tới hoạt động nội thƣơng. Các ngành sản xuất vật chất tạo ra
khối lƣợng hàng hóa để cung cấp cho thị trƣờng trong và ngoài nƣớc nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao cả về chất và lƣợng của ngƣời tiêu dùng. Mối quan hệ cung
– cầu về hàng hóa và dịch vụ trên thị trƣờng do cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng
quyết định. Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất có tác động tới cơ cấu
hàng hóa đƣợc phân phối ở thị trƣờng. Quy mô và trình độ sản xuất có quan hệ chặt
chẽ với sự phát triển của các hình thức trao đổi, mua bán và phƣơng thức kinh
doanh hàng hóa. Khi sản xuất với quy mô nhỏ, trình độ khoa học công nghệ không
cao, phƣơng thức thanh toán chủ yếu là trực tiếp với khối lƣợng hàng hóa ít, chất

14


lƣợng hàng hóa không đồng nhất thì chủ yếu là thích hợp với hình thức phân phối
qua chợ truyền thống. Ngƣợc lại, khi sản xuất tập trung với quy mô lớn, trình độ tổ
chức sản xuất cao thì sẽ tạo điều kiện cho số lƣợng ngƣời phân phối sản phẩm tăng
lên, giao dịch giữa ngƣời sản xuất và ngƣời phân phối chuyên nghiệp theo quy mô
lớn với sự đảm bảo chất lƣợng hàng hóa đồng đều. Sự phát triển của trình độ sản
xuất sẽ ảnh hƣởng đến chất lƣợng, quy mô và cơ cấu lƣợng hàng hóa phân phối tại
thị trƣờng nội địa.
Hoạt động nội thƣơng chịu ảnh hƣởng lớn từ nguồn cung cấp sản phẩm cũng
nhƣ tổ chức lãnh thổ sản xuất của ngành kinh tế trong nƣớc. Nguồn cung cấp mặt
hàng càng lớn, càng đa dạng thì càng có điều kiện để hình thành các chợ đầu mối,
các trung tâm thƣơng mại,.. Vì vậy không phải ngẫu nhiên các trung tâm thƣơng
mại lớn đều gắn với các thị trƣờng, các trung tâm kinh tế lớn trên thế giới. Nền kinh
tế nói chung và các ngành kinh tế nói riêng càng phát triển thì ngành nội thƣơng
càng có nhiều cơ hội hình thành và lớn mạnh.
b. Dân cƣ, nguồn lao động
Dân cƣ – lao động vừa là lực lƣợng sản xuất vừa là lực lƣợng tiêu thụ, trở
thành động lực cho sự phát triển của ngành nội thƣơng nói riêng và thƣơng mại nói

chung. Những yếu tố quan trọng ảnh hƣởng tới sự phát triển ngành nội thƣơng là
quy mô, cơ cấu dân số, gia tăng dân số, chất lƣợng cuộc sống, phong tục tập quán,
các loại hình quần cƣ, thói quen tiêu dùng cùng các đặc điểm về văn hóa có ảnh
hƣởng lớn tới sự phát triển và phân bố nội thƣơng.
Quy mô và gia tăng dân số là động lực để phát triển thị trường nội địa. Dân
cƣ đông tạo nên thị trƣờng tiêu thụ trong nƣớc rộng lớn. Một nƣớc có dân số đông
sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời cũng tạo ra một thị trƣờng nội
địa đầy tiềm năng. Điều này đòi hỏi ngành nội thƣơng phải không ngừng mở rộng
mạng lƣới và đa dạng hóa các loại hình tổ chức buôn bán nhằm thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng của dân cƣ ngày càng cao và phong phú về hàng hóa, dịch vụ. Việt Nam
đƣợc đánh giá là một trong những thị trƣờng bán lẻ hấp dẫn trên thế giới. Theo tổng
điều tra dân số năm 2009, Việt Nam có 86 triệu dân (đứng thứ 3 ở Đông Nam Á và

15


thứ 13 trên thế giới), con số này đã lên tới 90.7 triệu ngƣời (năm 2014) và tốc độ gia
tăng dân số ở mức 1.08%/năm [19]. Đây chính là nhân tố tạo nên động lực cho tiêu
dùng, trong đó có khoảng 73,8% lao động ở độ tuổi 15 – 49 tuổi, độ tuổi có nhu
cầu cao nhất trong cơ cấu ngƣời tiêu dùng.
Chất lượng cuộc sống dân cư có tác dụng thay đổi thói quen tiêu dùng và xu
hướng tiêu dùng. Đây cũng là điều kiện lí tƣởng cho lƣu thông và rút ngắn thời gian
lƣu thông hàng hóa. Yêu cầu của ngƣời tiêu dùng ngày càng cao về chất lƣợng và
sự đa dạng về chủng loại hàng hóa đã tạo điều kiện cho nâng cao chất lƣợng các
loại hình bán lẻ (LHBL) truyền thống (chợ) và phát triển mạnh hơn nữa các LHBL
hiện đại, văn minh (siêu thị và TTTM). Xu hƣớng phát triển tiêu dùng và điều kiện
sống của ngƣời dân có tính chất quyết định tới cơ cấu và giá cả hàng hóa tại thị
trƣờng nội địa.
Các LHBL tại thị trƣờng nội địa muốn phát triển thì phải hiểu đƣợc xu
hƣớng và thói quen tiêu dùng của dân cƣ. Với điểm xuất phát là một nƣớc nông

nghiệp, sự trao đổi hàng hóa chủ yếu diễn ra ở các chợ từ quy mô nhỏ tới lớn nên
hình thức bán lẻ này đang là hình thức phổ biến, có mặt ở tất cả các địa phƣơng.
Tuy nhiên chất lƣợng cuộc sống và yêu cầu hàng hóa ngày càng cao cũng đòi hỏi
nâng cao chất lƣợng của LHBL. Sự phát triển kinh tế cùng với sự hội nhập của kinh
tế quốc tế, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã ảnh hƣởng không nhỏ tới
nhận thức, hành vi và thái độ của khách hàng trong việc lựa chọn, quyết định chất
lƣợng hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Hiện nay tỉ lệ tới siêu thị, TTTM để mua sắm
của ngƣời tiêu dùng ngày càng cao do chất lƣợng hàng hóa và dịch vụ ngày càng tốt
tuy nhiên một số lƣợng lớn vẫn tới chợ mua sắm vì tính chất truyền thống và các giá
trị văn hóa của nó.
Phân bố dân cư và mạng lưới điểm quần cư quyết định sự có mặt các loại
hình bán lẻ và mức độ năng động của thị trường nội địa. Mức độ tập trung dân cƣ
ảnh hƣởng rất lớn tới quy mô, hình thức tổ chức và thời gian hoạt động của các chợ.
Những nơi có mức độ tập trung dân cƣ lớn, mật độ dân số cao cũng là một sức hút
với sự hình thành mạng lƣới chợ, siêu thị hay TTTM, tiêu biểu là các đô thị. Ở

16


những nơi này các hoạt động thƣơng mại nội địa diễn ra thƣờng xuyên hơn, các mặt
hàng phục vụ đa dạng hơn.
Ở các thành phố lớn, các điểm bán buôn, bán lẻ đáp ứng nhu cầu hàng ngày
của nhân dân (cửa hàng bán lẻ, chợ,…) có bán kính phục vụ trong phạm vi nhất
định. Nhu cầu buôn bán, trao đổi phức tạp, đa dạng, hiện đại với quy mô lớn nhằm
đáp ứng nhu cầu của đông đảo dân cƣ với mức sống cao, nhu cầu tiêu dùng lớn. Bên
cạnh đó, nét văn hóa của ngƣời tiêu dùng là văn hóa đô thị năng động, cởi mở, lịch
thiệp, có yêu cầu đa dạng về chủng loại và chất lƣợng hàng hóa. Đặc điểm văn hóa
– xã hội ở thành thị đã ảnh hƣởng lớn tới nhận thức, hành vi, thái độ của khách hàng
trong việc lựa chọn, quyết định tiêu dùng với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định.
Ngƣời tiêu dùng ở thành thị luôn có nhu cầu cao hơn ở nông thôn về chất lƣợng

hàng hóa và dịch vụ. Đặc biệt với sự phát triển kinh tế hội nhập quốc tế ở thành thị
ngày càng phổ biến thói quen mua sắm ở siêu thị hay trung tâm thƣơng mại. Điều
này đã giải thích vì sao đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ trở thành hai vùng
có mạng lƣới bán lẻ hàng hóa dày đặc và sôi động nhất cả nƣớc.
Vùng nông thôn, hệ thống chợ thƣờng mang tính chất tự cấp tự túc, hoạt
động thƣờng xuyên và cả không thƣờng xuyên, ít chuyên nghiệp trong phục vụ
hàng hóa hơn. Mỗi loại hình quần cƣ thƣờng có những loại hình chợ đặc thù phù
hợp với tập quán cƣ trú và sinh hoạt sản xuất, và hàng hóa mang tính đặc sản địa
phƣơng.
Hoạt động thƣơng mại nội địa muốn phát triển cần phải gắn chặt với nhu cầu
và thói quen tiêu dùng của dân cƣ. Việt Nam có điểm xuất phát là một nƣớc nông
nghiệp, sự trao đổi hàng hóa chủ yếu diễn ra ở các chợ từ quy mô nhỏ tới lớn và đây
đang là hình thức bán lẻ phổ biến, có mặt ở hầu hết các địa phƣơng. Tuy nhiên, sự
phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa cùng sự hội nhập kinh tế quốc tế đã ảnh
hƣởng tới nhận thức, hành vi thái độ của khách hàng trong việc lựa chọn, quyết định
chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Điều này đã làm thay đổi bộ mặt của hoạt
động thƣơng mại nội địa từ hình thức tới chất lƣợng phục vụ thông qua sự có mặt và
vai trò của các loại hình bán lẻ hiện đại.

17


c. Khoa học – công nghệ
Khoa học – công nghệ là nhân tố có ảnh hƣởng quan trọng và trực tiếp đến
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thời đại khoa học công nghệ mới
phát sinh sẽ triệt tiêu các công nghệ trƣớc đó không nhiều thì ít. Việc chế tạo ra các
sản phẩm mới, chất lƣợng cao, giá thành hạ, theo đời sản phẩm có ảnh hƣởng lớn đến
hoạt động tiêu thụ sản phẩm và bán hàng. Trong doanh nghiệp thƣơng mại, việc cung
ứng những sản phẩm mới, tiên tiến, phù hợp với xu thế và chiều hƣớng tiêu dùng
ngày càng là một đòi hỏi cấp thiết.

Mặt khác, việc ứng dụng những tiến bộ mới của khoa học – công nghệ trong
hoạt động thƣơng mại cũng làm thay đổi nhanh chóng phƣơng thức và cung cách
phục vụ, khách hàng nhƣ giao nhận, thanh toán, mua bán, đặt hàng, kiểm tra, kiểm
kê… Xu hƣớng tác động của nó là càng ngày việc tiêu dùng của ngƣời dân càng dễ
dàng hơn, một mặt nó nâng cao tính chuyên nghiệp, hiện đại trong kinh doanh của
chợ truyền thống, đồng thời việc hình thành các siêu thị, thƣơng mại điện tử là một
bƣớc đột phá về công nghệ trong ngành nội thƣơng. [23]
d. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có ảnh hƣởng không nhỏ trong việc thực hiện khả năng giao
lƣu, trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thông tin giữa các bên trong hoạt động thƣơng
mại nói chung và nội thƣơng nói riêng. Trong đó, các yếu tố về giao thông vận tải,
thông tin liên lạc đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Những tiến bộ vƣợt bậc trong
ngành vận tải, thông tin giúp quá trình trao đổi, liên lạc giữa các quốc gia, các
vùng trở nên dễ dàng, thuận tiện, thƣờng xuyên, liên tục. Từ đó các thông tin về
hàng hóa, nhu cầu của khách hàng đƣợc tiếp cận một cách nhanh nhạy hơn, đầy đủ
và chính xác hơn. Sự ra đời và phát triển của mạng viễn thông quốc tế đã tạo bƣớc
tiến vƣợt bậc cho ngành thƣơng mại, tạo điều kiện thúc đẩy quảng bá, giới thiệu
sản phẩm không chỉ ở thị trƣờng trong nƣớc mà còn có sức lan tỏa nhanh chóng
trên thị trƣờng thế giới.
e. Đƣờng lối chính sách, điều kiện chính trị và xu thế hội nhập

18


Đƣờng lối chính sách là kim chỉ nam cho sự phát triển của một quốc gia nói
chung và với các ngành kinh tế nói riêng, trong đó có hoạt động nội thƣơng. Hệ
thống pháp luật, chính sách thuế ngày càng thông thoáng sẽ tạo cơ hội cho mở rộng
thị trƣờng, thay đổi cơ cấu và tăng lƣợng hàng hóa trong thị trƣờng nội địa. Đƣờng
lối chính sách phù hợp, các yếu tố chính trị và pháp luật ổn định, rõ ràng, minh bạch
sẽ là đòn bẩy, mở đƣờng cho hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ trở nên đơn giản,

nhanh chóng và mở rộng thị trƣờng.
Trong kinh doanh hiện đại, các yếu tố chính trị và pháp luật ngày càng có
ảnh hƣởng lớn đến hoạt động kinh doanh. Nền kinh tế thị trƣờng có sự điều tiết
của nhà nƣớc hiện nay là nền kinh tế phổ biến trên thế giới. Sự khác nhau về
điều tiết của Nhà nƣớc chỉ là ở mức độ. Trong thực tế không có nền kinh tế thị
trƣờng tự do với nghĩa là không có sự can thiệp của Nhà nƣớc. Để đảm bảo sự
vận hành của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động cạnh tranh, quốc gia nào
cũng có hệ thống pháp luật và các chế độ chính sách của Chính phủ để điều tiết
thị trƣờng. Để thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cũng nhƣ mỗi cá
thể kinh doanh phải nghiên cứu, phân tích, dự báo về chính trị và pháp luật.
Công cuộc Đổi mới toàn diện đất nƣớc cũng đã tạo ra sự thay đổi trong môi
trƣờng kinh doanh trong nƣớc, đặt ra những yêu cầu mới, đồng thời tạo thêm nhiều
động lực cho hoạt động buôn bán trong nƣớc. Trải qua gần 30 năm đổi mới, thƣơng
mại nội địa dần đƣợ củng cố. Chiều hƣớng vận động của thị trƣờng nôi địa theo cả
chiều rộng và chiều sâu, từng bƣớc hình thành các doanh nghiệp tầm cỡ, có nhãn
hiệu nổi tiếng đƣợc khẳng định trên thị trƣờng thế giới. Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO). Chắc chắn hoạt động
buôn bán trong nƣớc sẽ bị chi phối không nhỏ bởi các yếu tố toàn cầu nhƣ nguồn
vốn FDI. Hệ thống bán buôn, bán lẻ sẽ phát triển nhanh nhờ chính sách thƣơng mại
đầu tƣ cởi mở, tự do hóa sẽ tạo sự cạnh tranh. Sự xuất hiện của các tập đoàn bán lẻ
lớn trên thế giới đã có mặt và phát triển mạnh ở Việt Nam (BigC, Metro, Parkson,
Vincom,..) là một minh chứng điển hình.

19


Nhƣ vậy, các yếu tố nội lực của ngành nội thƣơng có vai trò quyết định tới
sự phát triển của hoạt động buôn bán trong nƣớc. Nhân tố con ngƣời, nguồn vốn, cơ
sở hạ tầng, xu thế hội nhập, sự ổn định về chính trị cùng với đƣờng lối chính sách
đúng đắn đã tăng cƣờng tính mở, tính năng động và đa dạng cho hoạt động thƣơng

mại nội địa. Tuy nhiên, nội thƣơng hiện nay của nƣớc ta vẫn dựa vào các nhà kinh
doanh nhỏ, năng lực quản lí và trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, thiếu
kinh nghiệm thực tiên,..Những hạn chế đó đặt ngành nội thƣơng trƣớc những thách
thức lớn của sự phát triển, nhất là trong bối cảnh hội nhập, mở cửa thị trƣờng trong
nƣớc nhƣ hiện nay.
1.1.4.3. Nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện tự nhiên là yêu tố cần đƣợc các doanh nghiệp quan tâm từ khi bắt đầu
hoạt động và trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình. Những sự biến động
của tự nhiên nhƣ nắng, mƣa, bão, lũ, hạn hán, dịch bệnh… đƣợc ngƣời kinh doanh chú
ý theo kinh nghiệm để phòng ngừa vì nó ảnh hƣởng trực tiếp đến việc bán hàng.
Địa hình tạo cơ sở mặt bằng có việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động
nội thƣơng (hệ thống chợ, siêu thị, TTTM,..). Các nhân tố về khí hậu, nguồn nƣớc,
các tài nguyên sinh vật rừng, biển có ảnh hƣởng gián tiếp tới hoạt động của ngành
thông qua cơ cấu hàng hóa, sản phẩm đặc thù của mỗi địa phƣơng.
Các nhân tố tự nhiên cũng góp phần định hƣớng sản xuất, từ đó ảnh hƣởng
phần nào tới cơ cấu hàng hóa trên thị trƣờng. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa của
Việt Nam đã quyết định tính chất của một nền nông nghiệp nhiệt đới phong phú, đa
dạng về sản phẩm. Do đó, các mặt hàng nông sản trao đổi trên thị trƣờng nội địa
chủ yếu là các mặt hàng nông sản nhiệt đới. Bên cạnh đó, sự phân hóa đa dạng về
đặc điểm tự nhiên cũng tạo nên sự đa dạng của sản phẩm, tạo các luồng hàng hóa
đặc trƣng theo không gian và thời gian.
Ngày nay, việc duy trì môi trƣờng tự nhiên, bảo vệ môi trƣờng để có môi
trƣờng sinh thái bền vững đƣợc cả xã hội quan tâm. Những vấn đề nhƣ ô nhiễm môi
trƣờng, bảo vệ cảnh quan, thắng cảnh, thiếu năng lƣợng, lãng phí tài nguyên thiên
nhiên cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với nguồn lực có hạn khiến chính phủ,

20


công chúng và ngƣời cung cấp hàng hóa phải thay đổi các quyết định và biện pháp

liên quan đến môi trƣờng. Những yếu tố cơ bản của điều kiện tự nhiên ảnh hƣởng
đến hoạt động kinh doanh các chủ thể kinh doanh.
1.1.5. Một số hình thức tổ chức lãnh thổ hoạt động nội thƣơng vận dụng cấp tỉnh
Các HTTCLT trong ngành nội thƣơng rất đa dạng và phong phú, trong đó có
cả hình thức truyền thống (cửa hàng bán lẻ, chợ truyền thống, cửa hàng tạp hóa) và
hiện đại (siêu thị, trung tâm thƣơng mại, thƣơng mại điện tử,..). Trong đề tài, tập
trung phân tích các HTTCLT phổ biến nhất ở cấp tỉnh là cửa hàng bán lẻ, siêu thị,
TTTM và hội chợ triển lãm.
1.1.5.1. Cửa hàng bán lẻ
Cửa hàng bán lẻ là hình thức tổ chức kinh doanh với quy mô nhỏ nhất, đƣợc
hình thành trên cơ sở tự phát, nhỏ lẻ và đặc trƣng cho loại hình thƣơng mại truyền
thống. Thông thƣờng, cửa hàng bán lẻ chịu sự sở hữu và quản lí trực tiếp của chủ hộ
kinh doanh cá thể và thƣờng xuyên bán các hàng tạp hóa, phục vụ nhu cầu hàng
ngày của một bộ phận dân cƣ. Ở nông thôn, các cửa hàng bán lẻ phân bố rải rác
trong các điểm dân cƣ; ở đô thị mạng lƣới cửa hàng bán lẻ đƣợc hình thành với mật
độ dày đặc dọc theo các tuyến phố, các trục giao thông chính.
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế và sự đa dạng về thị yếu của ngƣời
tiêu dùng cũng nhƣ sự phong phú của các hình thức thƣơng mại tiên tiến trên thế
giới, mô hình cửa hàng bán lẻ ngày càng phát triển đa dạng hơn và tinh tế hơn. Từ
chỗ kinh doanh các mặt hàng tạp hóa, đến nay các cửa hàng bán lẻ cũng đa dạng
hóa các mặt hàng kinh doanh, hình thành các cửa hàng chuyên doanh vừa bán buôn,
bán lẻ dƣới quyền sở hữu của hộ kinh doanh cá thể (cửa hàng thiết bị điện, nƣớc,
hàng điện từ, điện lạnh tới quần áo, giày dép thời trang,..). Hơn nữa, nhiều cửa hàng
chuyên doanh hiện nay là đại lí phân phối, quảng bá và giới thiệu sản phẩm cho
công ty với chế độ thỏa thuận hợp lí.
Ở Việt Nam còn xuất hiện loại hình bán lẻ đặc biệt, đó là các cửa hàng trƣng
bày giới thiệu sản phẩm với tên gọi khác là showroom. Sự khác biệt của showroom
với cửa hàng bán lẻ, đại lý phân phối là nó có chức năng trƣng bày, quảng bá, giới

21



thiệu sản phẩm, định hƣớng tiêu dùng hơn là chức năng phân phối. Đặc biệt, nghệ
thuật trƣng bày tại showroom đạt tới mức độ hoàn thiện. Ngƣời xem có thể chiêm
ngƣỡng các sản phẩm đƣợc sắp đặt trong một không gian sử dụng lí tƣờng, có tính
thực tế cao và dựa trên cơ sở kích thích đƣợc thị yếu và nâng cao cơ hội bán hàng
cho doanh nghiệp. Điển hình là các showroom trƣng bày ô tô, nội thất, điện từ,…
Nhìn chung, hình thức cửa hàng bán lẻ có ƣu điểm là hệ thống cửa hàng
phong phú, đa dạng về mặt hàng, tiện lợi trong phục vụ, có khả năng nắm bắt
nhanh chóng và chính xác thị yếu ngƣời tiêu dùng. Từ đó, loại hình này có điều
kiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên, với số lƣợng quá lớn và
sự phân bố rộng khắp của các cửa hàng bán lẻ đã tạo không ít khó khăn trong quản
lí và tổ chức kinh doanh.
1.1.5.2. Chợ
a. Quan niệm về chợ
Chợ là hình thức thƣơng mại truyền thống của nƣớc ta. Chợ xuất hiện từ lâu
đời nên nó có mặt ở hầu hết các địa phƣơng trên cả nƣớc. Mạng lƣới chợ phát
triển ở khắp nơi nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của ngƣời dân ở khắp nơi và ở
mọi thời điểm. Trong thời buổi kinh tế thị trƣờng với sự xuất hiện của nhiều loại
hình thƣơng mại tiên tiến, văn minh, hiện đại nhƣng chợ vẫn tồn tại tƣ cách là
hình thức phổ biến nhất ở nƣớc ta trong lĩnh vực mua bán trao đổi. Đối với ngƣời
dân, mua bán ở chợ trở thành thói quen khó thay đổi và đi chợ đã trở thành một
nét văn hóa đặc sắc của nƣớc ta.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về chợ nhƣng hiểu theo cách thông thƣờng thì
“chợ là nơi gặp nhau giữa cung và cầu hàng hoá, dịch vụ, vốn, là nơi tập trung
hoạt dộng mua bán hàng hoá giữa nguời sản xuất, nguời buôn bán và nguời tiêu
dùng.” [23]
Theo định nghĩa ở các từ điển tiếng Việt: Chợ là nơi công cộng để nhiều
nguời đến mua bán vào những buổi hoặc những ngày nhất định; chợ là nơi gặp gỡ
nhau giữa cung và cầu, các hàng hóa, dịch vụ, vốn,...là nơi tập trung hoạt động mua


22


bán hàng hóa giữa nguời sản xuất, nguời buôn bán và nguời tiêu dùng; chợ là nơi tụ
họp để mua bán trong những buổi ngày nhất định.
Theo các nhà kinh tế, chợ là loại hình thương nghiệp có tính chất truyền
thống, là một bộ phận của thị trường xã hội, nơi tập trung diễn ra các hoạt động mua
bán hàng hóa, dịch vụ của dân cư thuộc các thành phần kinh tế ở những địa điểm quy
định. [23]
Theo khái niệm thƣờng dùng trong lĩnh vực thƣơng mại: chợ là loại hình
thƣơng nghiệp truyền thống phát triển khá phổ biến ở nuớc ta; chợ là hiện thân của
hoạt động thƣơng mại, là sự tồn tại của không gian thị truờng mỗi vùng, nhất là
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và tập trung nhiều nhất ở các
vùng dô thị các thành phố lớn.
Khái niệm về chợ theo quy định của Nhà nuớc:
Tại Thông tư 15-TM/CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương mại: “Chợ là
mạng luới thƣơng nghiệp hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội”.
Theo Nghị định 02/2003/NÐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát
triển và quản lý chợ:
+ Phạm vi chợ: là khu vực kinh doanh dành cho hoạt động chợ, bao gồm
diện tích để bố trí các diểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (nhƣ: bãi dể xe, kho hàng,
khu ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác) và đƣờng bao quanh chợ.
+ Ðiểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng
đuợc bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích quy
chuẩn tối thiểu là 3m²/diểm.
Chợ theo tiêu chuẩn xậy dựng của Việt Nam đƣợc hiểu là một môi trường
kiến trúc công cộng của một khu vực dân cư được chính quyền quy định, cho phép
hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ thương nghiệp.

Nhƣ vậy, dù xét dƣới góc độ nào thì khái niệm về chợ cũng bao gồm các yếu
tố chủ yếu nhƣ không gian họp chợ, thời gian họp chợ, chủ thể tham gia mua bán
trao đổi trong chợ, đối tƣợng hàng hóa dịch vụ trao đổi mua bán trong chợ.

23


b. Vai trò của chợ
Trong lịch sử phát triển xã hội loài ngƣời, chợ là bộ phận cấu thành không
thể thiếu trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Cùng với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, chợ ngày càng đƣợc phát triển ở trình độ cao hơn, có quy mô lớn hơn và
tổ chức quy củ hơn, vai trò của chợ cũng ngày càng đƣợc nâng cao hơn. Vai trò và
các giá trị của chợ khó có thể lƣợng hóa đầy đủ đƣợc.
- Chợ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống dân cƣ. Đó không chỉ là nơi
ngƣời mua ngƣời bán đến để trao đổi hàng hóa, mà bên cạnh các giá trị kinh tế, chợ
còn là nơi giao lƣu gặp gỡ mọi ngƣời, nơi thể hiện giữ gìn, phát huy văn hóa truyền
thống, bản sắc dân tộc (nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa).
Tính văn hóa của chợ đƣợc thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau nhƣ văn hóa ẩm
thực, văn hóa giao tiếp, thông tin cộng đồng. Đồng thời chợ phản ánh trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng, là nơi thể hiện sự biến động của nền sản xuất
xã hội nhƣ quan hệ “cung – cầu”, phản ánh chất lƣợng cuộc sống, mức thu nhập,
khả năng thanh toán của nền kinh tế. [23]
Thông qua chợ, nhiều nhu cầu của đời sống con ngƣời đƣợc thỏa mãn, kể cả
nhu cầu tiêu dùng, sản xuất, sinh hoạt vật chất và tinh thần, góp phần nâng cao chất
lƣợng cuộc sống của dân cƣ. Đối với từng đối tƣợng dân cƣ, chợ cũng thể hiện vai
trò khác nhau. Đối với ngƣời tiêu dùng, chợ thỏa mãn các nhu cầu cá nhân về các
loại hàng hóa, từ các sản phẩm phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày cho đến các
phƣơng tiện phục vụ sản xuất. Đặc biệt đối với thị trƣờng nông thôn, chợ là nơi
cung ứng đại bộ phận lƣơng thực, thực phẩm cho tiêu dùng dân cƣ. Cũng thông qua
chợ, ngƣời tiêu dùng có thể thỏa mãn đƣợc các nhu cầu về tinh thần nhƣ: giao lƣu,

các lễ hội truyền thống, sinh hoạt của cộng đồng dân cƣ… Đối với ngƣời sản xuất,
chợ là nơi tiêu thụ các sản phẩm đầu ra của họ thông qua quá trình bán hàng. Đặc
biệt đối với những ngành hàng sản xuất nhỏ, sản xuất không tập trung thì chợ là nơi
duy nhất có thể tiêu thụ đƣợc sản phẩm của họ. Điều đó khẳng định vai trò rất quan
trọng của chợ đối với ngƣời sản xuất, nhất là ngƣời sản xuất vừa và nhỏ: không có
chợ (thị trƣờng) sẽ không thể giải quyết các vấn đề đầu ra của sản xuất, dẫn đến sản

24


xuất bị ngừng trệ. Chợ còn là nơi cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình tái sản
xuất, giúp cho ngƣời sản xuất duy trì và mở rộng quy mô sản xuất. [23]
- Chợ hình thành và phát triển cũng góp phần củng cố và phát triển làng nghề
truyền thống, ngành nghề dịch vụ ở nông thôn, từ đó thúc đẩy phân công lao động
trong nông nghiệp và nông thôn theo hƣớng tăng tỉ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ
và giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp.
- Về mặt xã hội, chợ giúp gắn kết các bộ phận dân cƣ khác nhau đến nơi cƣ
trú, qua đó góp phần điều chỉnh các hoạt động kinh tế, thƣơng mại của các chủ thể
kinh tế, ngƣời sản xuất nhỏ và ngƣời tiêu dùng, đảm bảo sự phát triển tƣơng xứng.
Chợ đóng vai trò quan trọng trong giải quyết công ăn việc làm và tạo thu nhập cho
nhiều ngƣời. Chợ thu hút hoạt động của một số lƣợng lớn những ngƣời tham gia
kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho lực lƣợng lao động dôi dƣ, đặc biệt là lao
động mùa vụ ở các vùng nông thôn. Ngoài ra, chợ cũng tạo ra một bộ phận thƣơng
nhân có tính chuyên nghiệp cao góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội.
Sự phát triển mạng lƣới chợ có vai trò quan trọng đối với cải thiện và nâng cao thu
nhập của dân cƣ, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn văn minh, rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn.
Chợ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của cấu trúc thị trƣờng nội
địa. Trong Nghị định số 02/2003/NĐ-CP, nội dung quy hoạch và phát triển chợ đã
xác định: chợ là một bộ phận quan trọng trong tổng thể kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội…quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ của địa phương phải bao
gồm quy hoạch phát triển chợ.
Cũng theo chỉ thị số 13/2004/CT_TTg của Thủ tƣớng Chính phủ đã xác
định rằng để khắc phục các yếu kém và bất cập của hoạt động thƣơng mại trên
thị trƣờng nội địa thì một trong những nhiệm vụ phải làm đó là hình thành và
phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động trao đổi mua bán hàng hóa bao gồm: chợ, trung tâm thương mại (bán
buôn, bán lẻ hàng hóa), siêu thị và mạng lưới các cửa hàng phù hợp và đáp ứng
được yêu cầu phát triển sản xuất, tiêu dùng của nhân dân trên từng địa bàn. Nhƣ

25


×