Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Thực trạng quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm theo mô hình trường học mới ở các trường Tiểu học Huyện Nghĩa Hưng – Tỉnh Nam Định ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.1 KB, 91 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới giáo dục đang là một vấn đề rất được quan tâm, không chỉ ở
Việt Nam mà trên toàn thế giới. Ngày nay, khi trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng
đầu thể hiện vị thế và sức mạnh của một quốc gia, giáo dục không chỉ là phúc
lợi xã hội mà trở thành đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Nhận
thức được vai trò của việc đổi mới để nâng cao chất lượng giáo dục, đất nước
ta đang tiến hành công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục đáp
ứng yêu cầu công nghệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong Nghị quyết hội nghị
Trung Ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã
chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới
từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của
các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội
và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2013, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới
căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo).
Một trong những thách thức lớn đối với công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục hiện nay đó là thay đổi nhận thức, suy nghĩ, quan niệm
về giáo dục.
Một mô hình đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo thử nghiệm ở hơn
1500 trường Tiểu học trong cả nước (12/2013) góp phần đổi mới cách nghĩ và
cách làm giáo dục đó là Mô hình trường học mới (gọi tắt là VNEN). Trên cơ
sở cách làm và kết quả đạt được rất khả quan ở những trường được thụ hưởng
dự án VNEN, nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đã và đang chủ động nhân
rộng mô hình này.

1



Trong thực hiện mô hình trường học mới tại Việt Nam, một nội dung
được áp dụng đổi mới là cách thức tổ chức, quản lý lớp học. Tuy vẫn kế thừa
những ưu điểm của công tác quản lý lớp học truyền thống, nhưng công tác
quản lý lớp học theo mô hình VNEN có nhiều điểm khác biệt cơ bản, đặc biệt
chú trọng đến vai trò tự quản của học sinh. Học sinh tự đề xuất, bàn bạc đưa
ra các nội quy và cùng nhau giám sát việc thực hiện các quy ước do mình xây
dựng và cam kết thực hiện.
Sự thay đổi trên khiến nhiều ý kiến cho rằng vai trò của người giáo viên
trong quản lý lớp học ở các nhà trường theo mô hình VNEN không còn quan
trọng: Trên thực tế, trong mô hình này, vai trò của người giáo viên có sự thay
đổi rất lớn, đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực và vất vả hơn nhiều, nhất là
với đối tượng là học sinh Tiểu học. Và việc dạy và học trên lớp diễn ra có
thuận lợi và hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của công
tác quản lý lớp học.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Thực trạng quản
lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm theo mô hình trường học mới ở các trường
Tiểu học Huyện Nghĩa Hưng – Tỉnh Nam Định ” để nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận biện pháp quản lý lớp học của giáo viên ở
các trường Tiểu học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đề tài đề xuất một số
biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm
trong các nhà trường Tiểu học đang áp dụng mô hình trường học mới.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác của giáo viên chủ nhiệm trường Tiểu học mới(VNEN).
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm theo mô hình

trường học mới ở các trường Tiểu học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định .

4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung nghiên cứu:

2


Giáo viên chủ nhiệm ở trường tiểu học thực hiện song song hai nhiệm
vụ: giảng dạy và giáo dục học sinh. Trong khuôn khổ đề tài, tác giả chỉ tập
trung vào chức năng giáo dục học sinh, trọng tâm là biện pháp quản lý lớp
học của giáo viên chủ nhiệm theo mô hình trường Tiểu học mới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trong phạm vi các trường Tiểu học huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam Định.

5. Giả thuyết khoa học
Ngay từ năm học đầu tiên áp dụng mô hình trường học mới, phòng giáo
dục đào tạo Nghĩa Hưng đã phát động phong trào, khuyến khích các trường
Tiểu học trong huyện tự nguyện đăng kí tham gia dự án trường học mới, vậy
nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, một trong những khó khăn lớn
nhất là việc tổ chức và quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm. Nếu đề xuất
được các biện pháp phù hợp sẽ làm tăng hiệu quả quản lý lớp học của giáo
viên chủ nhiệm, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.

6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lý lớp học của giáo viên chủ
nhiệm ở trường Tiểu học và quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm ở
trường Tiểu học theo mô hình trường học mới.
6.2. Thực trạng các biện pháp quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm

ở các trường Tiểu học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
6.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm giúp giáo viên chủ nhiệm nâng cao
hiệu quả quản lý lớp học trong nhà trường Tiểu học theo mô hình trường học mới.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát các tài liệu tham khảo từ sách, báo khoa
học giáo dục, khóa luận tốt nghiệp, luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Trưng cầu ý kiến bằng phiếu hỏi.
- Phỏng vấn.
7.3. Nhóm phương pháp xử lí thông tin: Thống kê toán học

3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LỚP HỌC CỦA
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC
MỚI

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo, mô hình trường học mới ra đời là sự
hòa quyện ý tưởng nhân văn của thời đại và quan điểm dạy học thân dân mà
nền giáo dục cách mạng của đất nước đã vun đắp nên gần 7 thập niên qua [7].
Ở những nơi đang triển khai mô hình, sản phẩm là học sinh bộc lộ phong cách
học tập bạo dạn tự tin, sự làm việc biểu hiện tinh thần hợp tác. Để đạt được
kết quả trên, không thể không nhắc tới tác động tích cực từ quá trình quản lý
lớp học của người giáo viên chủ nhiệm.
Chính vì vậy, hoạt động quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm trong
các nhà trường, bao gồm cả các trường theo mô hình trường học mới, luôn
nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong lịch sử phát triển giáo

dục Việt Nam và thế giới.
1.1.1. Trên thế giới
“Quản lý hiệu quả lớp học” của các tác giả Robert J. Marzano, Jana S.
Marzano và Debra J. Pickering viết về phương pháp quản lý lớp học hiệu quả
trong các nhà trường phổ thông [14].
“Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả” của tác giả Jame S.
Strong viết về các tính cách cần có của người giáo viên và phong cách quản lý
lớp học của giáo viên hiệu quả [10].
“Thuyết đa trí tuệ và việc quản lý lớp học” của tác giả Thomas
Armstrong viết về việc áp dụng thuyết đa trí tuệ vào các vấn đề của việc giảng
dạy trên lớp [16].
1.1.2. Trong nước
Giáo trình“Tổ chức- quản lý trường lớp và hoạt động giáo dục” của tác
giả Mai Quang Huy, khoa Sư phạm, Đại học Quốc gia Hà Nội đề cập đến các

4


vấn đề cơ bản như: Quản lý lớp học, tổ chức, quản lý hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp và công tác của giáo viên chủ nhiệm [11].
Chương trình “Huấn luyện kỹ năng quản lý lớp học hiệu quả” của
trung tâm giáo dục Compass Education bao gồm các chủ đề như nâng cao kĩ
năng xử lý các tình huống giảng dạy, cách xây dựng mối quan hệ với học
sinh trong môi trường tích cực [13].
Đề tài “Phong cách quản lý của giáo viên chủ nhiệm lớp” của tác giả
Hà Thị Thu Trang in trên tạp chí Quản lý Giáo dục số 15, 2010 viết về các
phong cách quản lý và việc ứng dụng các phong cách đó trong quản lý lớp
học [9] và một số công trình khác.
Tuy nhiên, trong số các đề tài đã nghiên cứu chưa có đề tài nào nghiên
cứu về thực trạng quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm theo mô hình

trường học mới ở các trường Tiểu học huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.

1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong tổ chức, làm cho tổ chức đó vận động và đạt được
mục tiêu của tổ chức [5].
Quản lý: theo từ điển Tiếng Việt thông dụng là tổ chức, điều khiển hoạt
động của một đơn vị, cơ quan [15].
F.W Taylor cho rằng: quản lý là biết chính xác điều người khác làm và
sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất [9].
1.2.2. Quản lý lớp học
Quản lí lớp học là chức năng của giáo viên nhằm hướng dẫn và duy trì
học sinh gắn bó với nhiệm vụ học tập, gồm thời gian, không gian, chương
trình hoạt động, những quy tắc, hệ thống trách nhiệm, quan hệ, đánh giá và
công nhận… Quản lí lớp tốt được thể hiện qua mức độ hợp tác giữa học sinh
với học sinh, giữa học sinh với giáo viên [12].

5


Nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục đã đưa ra khái niệm về quản
lý lớp học dưới các góc độ khác nhau. Nhìn chung các nhà giáo dục đều có
chung một quan điểm cho rằng: “Quản lý lớp học là hành động theo dõi và
điều chỉnh không khí lớp học của giáo viên nhằm hỗ trợ tốt cho việc học tập
của học sinh; giảm thiểu các hành vi của học sinh có ảnh hưởng đến công
việc giảng dạy và học tập của các học sinh khác; và sử dụng có hiệu quả thời
gian giảng dạy” [10].
1.2.3. Giáo viên
Điều 70, Luật Giáo dục 2005 quy định giáo viên là những người làm

nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, các cơ sở giáo dục; có phẩm
chất đạo đức tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ; đủ
sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp và phải có lí lịch rõ ràng . Cũng theo quy
định ở điều 77, Luật Giáo dục 2005 thì trình độ chuẩn được đào tạo của giáo
viên Tiểu học phải tốt nghiệp Trung cấp sư phạm trở lên [3].
1.2.4. Giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm là người đại diện hiệu trưởng quản lý giáo dục
toàn diện học sinh qua việc thiết kế, tổ chức thực hiện giáo dục toàn diện
trong một lớp học [8].
Quản lý toàn diện một lớp học không chỉ là quản lý nhân sự như: số
lượng, giới tính, tuổi tác, hoàn cảnh gia đình, học lực của học sinh,... mà điều
quan trọng là đưa ra dự báo, có kế hoạch giáo dục phù hợp với thực trạng để
dẫn dắt học sinh thực hiện kế hoạch đó, khai thác hết những điều kiện khách
quan, chủ quan trong và ngoài nhà trường để đạt được mục tiêu giáo dục.
1.2.5. Trường Tiểu học mới
Mô hình trường học mới ở cấp Tiểu học là một phương thức sư phạm
mang tính chuyển đổi nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các
trường [7].
Phương thức sư phạm của mô hình trường học mới bao gồm các
phương pháp giảng dạy và nội dung giáo dục được dựa trên quan điểm lấy
6


hoạt động của học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học. Vì vậy, các
thành tố về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức lớp học,
đánh giá học sinh của mô hình trường học mới sẽ chi phối không chỉ quá
trình dạy học mà cả quá trình giáo dục và chương trình giáo dục theo
hướng hiện đại [7].
1.2.6. Quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm
Đề tài sử dụng quan điểm của tác giả Bùi Minh Hiền trong cuốn Quản

lý Giáo dục [5] và quan điểm quản lý lớp học hiệu quả của các tác giả Robert
J. Marzano, Jana S. Marzano và Debra J. Pickering [12] để xây dựng khái
niệm quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm như sau:
Quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm được hiểu là sự tác động có
định hướng, có chủ đích từ phía giáo viên chủ nhiệm đến học sinh trong
lớp nhằm hỗ trợ tốt cho việc học tập của học sinh; giảm thiểu các hành vi
của học sinh có ảnh hưởng đến công việc giảng dạy và học tập của các học
sinh khác; và sử dụng có hiệu quả thời gian giảng dạy.

1.3. Hoạt động quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm ở
trường Tiểu học
1.3.1. Trường Tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân
Vị trí của trường Tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân được quy
định trong điều 2 của điều lệ trường Tiểu học: “ Trường Tiểu học là cơ sở
giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp nhân, có
tài khoản và con dấu riêng” [1].
Theo UNESCO: Tiểu học là cấp đào tạo chính để cung cấp nền giáo
dục cơ bản mà mọi trẻ em có quyền được hưởng [6].
Do đó có thể khẳng định: Trường Tiểu học là cơ sở giáo dục cấp Tiểu
học, cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, đặt cơ sở ban đầu cho
sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng
vững chắc cho giáo dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân.

7


1.3.2 Đặc điểm của học sinh Tiểu học
Theo tác giả Bùi Văn Huệ [6], học sinh Tiểu học có những đặc
điểm cơ bản:
1.3.2.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh Tiểu học.

Trẻ em lứa tuổi học sinh Tiểu học thực hiện bước chuyển từ hoạt động
vui chơi là hoạt động chủ đạo sang học tập là hoạt động chủ đạo. Cùng với
cuộc sống nhà trường, hoạt động học tập đem đến cho trẻ nhiều điều mà trước
đây trẻ chưa bao giờ có được hoặc không thể tiếp cận được. Từ đó, cùng với
sự phát triển về thể chất và dựa trên những thành tựu phát triển tâm lí đã đạt
được của giai đoạn trước, trẻ sẽ tạo lập nên những cái mới trong đời sống tâm
lí của mình, mà trước hết là tính chủ định, kĩ năng làm việc trí óc, sự phản
tỉnh. Ngoài ra, nhà trường và hoạt động học tập cũng đặt ra cho trẻ những đòi
hỏi mới của cuộc sống. Trẻ không chỉ phải tự lập lấy vị trí của mình trong
môi trường “ trung lập về tình cảm”, mà còn phải thích ứng với những bó
buộc không tránh khỏi và chấp nhận việc một người lớn ngoài gia đình (thầy,
cô giáo) sẽ đóng vai trò hàng đầu trong cuộc sống của trẻ. Trẻ chẳng những
phải ý thức và có thái độ trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ của
mình, đặc biệt là nhiệm vụ học tập và biết điều khiển hành vi của mình một
cách có chủ định, đồng thời phải có khả năng thiết lập, vận hành cùng một lúc
các mối quan hệ với các đối tượng khác nhau và mang các tính chất khác
nhau. Trước những thách thức này, trẻ dù muốn hay không cũng phải lĩnh hội
các cách thức, phương thức phức tạp hơn của hành vi và hoạt động để thỏa
mãn những yêu cầu và đòi hỏi của cuộc sống nhà trường và nhờ vậy “đẩy”
được sự phát triển của mình lên một mức cao hơn.
Tuổi Tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức
lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức về các môn
học, trẻ em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường trường học và
môi trường xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng lớn của môi trường giáo dục gia
đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh Tiểu
8


học lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên
tạo ra những biến đổi cơ bản trong sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu

học. Chúng không chỉ đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc sống nhà
trường và hoạt động học, mà còn chuẩn bị cho các em những bước ngoặt
quan trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niên. Chức năng trên được thực
hiện thắng lợi nhờ các đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này – sự tuân thủ
tuyệt đối vào những người có uy tín với các em (đặc biệt là thầy, cô giáo),
sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái độ vui chơi ngây thơ đối với các
đối tượng mà các em được tiếp xúc.
1.3.2.2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống
Về hoạt động của học sinh Tiểu học. Hoạt động chủ đạo của các em
trong giai đoạn này là hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động
học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như: Hoạt động vui chơi: trẻ
thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi vận động;
Hoạt động lao động: trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia
đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,... Ngoài ra, trẻ còn còn tham
gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...; Hoạt
động xã hội: các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của
lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
Về môi trường sống. Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một
thành viên tích cực, có thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này
được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh
tế đặc biệt khó khăn,...các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình
từ rất nhỏ. Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn
học đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về
phương pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý
và có ý thức học tập tốt. Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các
hoạt động xã hội mang tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong

9



gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được
nhiều người biết đến mình.
1.3.2.3. Sự phát triển của quá trình nhận thức
Nhận thức cảm tính. Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu
giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện. Tri
giác: Tri giác của học sinh Tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và
mang tính không ổn định: ở đầu tuổi Tiểu học tri giác thường gắn với hành
động trực quan, đến cuối tuổi Tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ
thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của
trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng. Tri giác có chủ định (trẻ
biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ
dễ đến khó,...)
Nhận thức lý tính. Tư duy: Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và
chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển
dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát. Khả năng khái quát hóa
phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy
nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học
sinh Tiểu học. Tưởng tượng: Tưởng tượng của học sinh Tiểu học đã phát triển
phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh
nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang
một số đặc điểm nổi bật: Ở đầu tuổi Tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn
đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Ở cuối tuổi Tiểu học, tưởng tượng tái
tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình
ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi Tiểu
học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt,
tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc
cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung
động tình cảm của các em.

10



1.3.2.4. Sự phát triển ngôn ngữ của học sinh Tiểu học
Hầu hết học sinh Tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp
1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo
và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ
phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh
và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
1.3.2.5. Chú ý của học sinh Tiểu học
Ở đầu tuổi Tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm
soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định
chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến
những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều
tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của
trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân
tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi Tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú
ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự
nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công
thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện
giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho
phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng
thời gian quy định.
1.3.2.6. Sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi
trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi,
mạnh dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền
vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh Tiểu học mang
những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh

thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức,
11


tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và
ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng
lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động
thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn
mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một
sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn
diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng
với tiến trình phát triển của mình.
Những đặc điểm về tâm lý lứa tuổi, môi trường sống, sự phát triển ngôn
ngữ, sự phát triển của quá trình nhận thức, sự phát triển ngôn ngữ chú ý và sự
phát triển nhân cách của học sinh nêu trên là một trong những cơ sở quan
trọng để giáo viên đưa ra cách thức và biện pháp quản lý lớp học phù hợp.
1.3.3. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong công tác quản lý lớp học
ở trường Tiểu học
Bên cạnh biện pháp giảng dạy và cách áp dụng các biện pháp, cách
thiết kế chương trình giảng dạy thì quản lý lớp học cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc quyết định chất lượng giáo dục học sinh. Trong nhà trường
Tiểu học, điều này lại càng được khẳng định rõ ràng khi việc quản lý các hoạt
động chủ yếu do giáo viên điều khiển và hướng dẫn học sinh thực hiện.
Để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy; tiến hành và quản lý các hoạt động
cũng như việc đánh giá kết quả học tập của học sinh, thu hút học sinh tham
gia vào quá trình học tập và tự giác thực hiện các nhiệm vụ, tạo cơ hội làm
cho bài học trở nên thú vị với học sinh; giáo viên cần tạo ra một môi trường
tự nhiên, tâm lí – xã hội thuận lợi cho học sinh, làm cho học sinh làm việc
thoải mái, tích cực và hiệu quả ở trong lớp...
Người giáo viên quản lý lớp học tốt là ở trong lớp đó tỉ lệ học sinh cam

kết học tập cao, số học sinh bị hạnh kiểm kém giảm và thời gian giảng
dạy/học tập được sử dụng hiệu quả.

12


1.4. Hoạt động quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm theo mô
hình trường học mới
1.4.1. Giới thiệu mô hình trường học mới(VNEN)
Mô hình trường học mới xuất phát từ đất nước Côlômbia (EN), được
hình thành từ những năm 70 – 80 của thế kỉ XX. Lúc đầu, các tổ chức như:
Ngân hàng thế giới, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp
quốc, Quỹ Nhi đồng Liên hợq quốc,…giúp đỡ nước Cộng hòa Côlômbia bằng
cách thông qua viện trợ kinh phí và đưa chuyên gia quốc tế từ các nước có
nền kinh tế phát triển như: Mĩ, Anh, Canađa, Ôxtrâylia, Tây Ban nha,…đồng
thời chuyển giao thành tựu giáo dục hiện đại cho nước này để hoàn thành mục
tiêu phổ cập giáo dục quốc gia. Về sau, các địa phương, các nhà trường đẫ
biết tổng kết, đánh giá các bài học thực tiễn, xây dựng được mô hình nhà
trường mới có tầm ảnh hưởng rộng rãi tới giáo dục các nước vùng Caribe và
hầu hết các nước châu Mĩ La tinh [7]. Mô hình EN dựa trên 5 nguyên tắc:
(1) Lấy học sinh làm trung tâm.
(2) Nội dung học gắn bó chặt chẽ với đời sống hằng ngày của học sinh.
(3) “Xếp lớp linh hoạt”: Học sinh được lên lớp trên nếu giáo viên
đánh giá đạt được các mục tiêu giáo dục tối thiểu.
(4) Phụ huynh và cộng đồng phối hợp chặt chẽ với giáo viên để giúp
đỡ học sinh một cách thiết thực trong học tập; tham gia giám sát việc học của
con em mình.
(5) Góp phần hình thành nhân cách giá trị dân chủ, ý thức tập thể theo
xu hướng thời đại cho học sinh.
Các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam trên tinh thần cầu thị đã quan

tâm đến mô hình EN, chỉ đạo cho các chuyên gia hoạt động thực tiễn ở cấp
Tiểu học hiện thực hóa mô hình này vào Việt Nam. Tuy nhiên, giáo dục Việt
Nam không phát triển theo cách nhập khẩu nguyên xi một mô hình trường
học từ nước ngoài, nhưng căn cứ vào tình hình thực tiễn, tính đặc thù, riêng
biệt của giáo dục nước ta để có cách áp dụng phù hợp.
13


Điểm nổi bật của mô hình này mà Việt Nam triển khai áp dụng là đổi
mới về các hoạt động sư phạm, một trong những hoạt động đó là đổi mới về
cách thức tổ chức lớp học. Theo mô hình của trường học mới, quản lí lớp học
là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “ban” trong lớp, do học sinh tự nguyện
xung phong và được các bạn tín nhiệm. Sự thành lập cũng như hiệu quả hoạt
động của “Hội đồng tự quản học sinh”, các “ban” rất cần sự tư vấn, khích lệ,
giám sát của giáo viên, phụ huynh, sự tích cực, trách nhiệm của học sinh.
“Hội đồng tự quản học sinh” là một biện pháp giúp học sinh được phát huy
quyền làm chủ quá trình học tập, giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ
quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh
đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động [7].
1.4.2. Đặc điểm mô hình VNEN
Trong cuốn “Tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới tại Việt
Nam” [4], tác giả đã chỉ ra mô hình VNEN được đặc trung bởi những đặc
điểm cơ bản sau:
1.4.2.1. Hoạt động giáo dục
Mục tiêu tổng thể của Mô hình VNEN là phát triển con người: Dạy chữ
– Dạy người. Mô hình VNEN hướng tới chuyển các hoạt động giáo dục trong
nhà trường thành các hoạt động Tự giáo dục cho học sinh.
Mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường đều Vì lợi ích của học sinh,
Của học sinh và Do học sinh thực hiện. Đặc trưng của Mô hình trường học
mới là “tự”

Học sinh: Tự giác, tự quản; tự học, tự đánh giá; tự tin, tự trọng.
Giáo viên: Tự chủ; tự bồi dưỡng.
Nhà trường: Tự nguyện.
Mô hình VNEN có các tài liệu Hướng dẫn các hoạt động giáo dục: Tổ
chức dạy học; Tổ chức các hoạt động giáo dục Đạo đức, Thể chất, Nghệ thuật
và Kĩ năng sống cho học sinh.

14


1.4.2.2. Hoạt động dạy học
Đổi mới căn bản của Mô hình trường học mới là chuyển:
Hoạt động Dạy của giáo viên thành hoạt động Học của học sinh;
Hoạt động Quy mô Lớp thành hoạt động ở Quy mô Nhóm;
Học sinh từ làm việc với giáo viên thành làm việc với sách, có sự tương
tác với bạn (với giáo viên khi cần thiết).
Nhóm học tập là một thành tố đặc trưng, quan trọng của mô hình
trường học mới.
Có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở nhóm học tập. Học
sinh chủ yếu làm việc với nhóm; có thể làm việc với giáo viên, làm việc
chung cả lớp chỉ khi cần thiết.
Việc phân nhóm do giáo viên thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí về
sức học, về khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và điều hành
của nhóm trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm.
Nhóm trưởng của nhóm học tập là người điều hành, giám sát hoạt động
học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích cực
giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo
viên kết quả học tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần hỗ
trợ. Một nhóm trưởng tốt là phải tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự
học, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với các bạn nhút nhát thiếu tự

tin, cần được nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện nhiều trong hoạt động nhóm.
Không để tình trạng một số thành viên khá làm thay, làm hộ các thành viên
khác trong nhóm.
Trước tiên, giáo viên chọn những học sinh khá, giỏi, có khả năng điều
hành làm nhóm trưởng, bồi dưỡng năng lực điều hành cho các em. Giáo viên
hướng dẫn để các nhóm trưởng có kĩ năng điều hành nhóm, hiểu các bước của
quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành viên trong nhóm đều tích cực, tự
giác thực hiện các hoạt động học. Các học sinh yếu cần được quan tâm nhiều

15


hơn để theo kịp nhóm; những học sinh học yếu, nhút nhát chưa nên bầu làm
nhóm trưởng.
Nếu giáo viên chủ nhiệm bồi dưỡng được đội ngũ các nhóm trưởng tốt
thì đã đảm bảo sự thành công của Mô hình trường học mới.
Lâu dài cần có sự luân phiên làm nhóm trưởng, tạo sự bình đẳng giữa
các thành viên trong nhóm, giúp tất cả các thành viên trong nhóm tự tin trước
mọi người.
+ Vai trò của giáo viên: Đã có sự chuyển đổi rõ rệt về vai trò của giáo
viên so với dạy học truyền thống. Trong mô hình VNEN, giáo viên là người:
- Tổ chức lớp học ;
- Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm ;
- Hỗ trợ học sinh khi cần thiết ;
- Chốt lại những điều cơ bản nhất của bài học ;
- Đánh giá quá trình và kết quả học của học sinh.
Từ đặc thù nêu trên, hoạt động của giáo viên đã thay đổi căn bản. Việc
chính của giáo viên là tổ chức lớp học thành các nhóm và theo dõi, hướng dẫn
hoạt động học của mỗi học sinh ở nhóm học tập.
Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên

trong nhóm: tự giác, tích cực hoạt động, tự quản, tự học, tự tìm tòi, khám phá
phát hiện kiến thức theo hướng dẫn của sách. Mọi thành viên trong nhóm phải
tự nghiên cứu tài liệu, tự học, chia sẻ với bạn, báo cáo với nhóm kết quả học
tập. Các thành viên trong nhóm trao đổi, thống nhất và báo cáo kết quả học
tập với giáo viên. Tuy giáo viên không phải soạn bài nhưng phải nghiên cứu
kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình thành kiến thức để tổ chức lớp học, chuẩn bị
đồ dùng dạy học, điều chỉnh nội dung, yêu cầu bài học cho phù hợp với đối
tượng và dự kiến các tình huống khó khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá
trình hình thành kiến thức để có những giải pháp hợp lí, kịp thời.
+ Hoạt động của giáo viên

16


- Giáo viên chọn vị trí thích hợp để quan sát được hoạt động của tất cả
các nhóm, các học sinh trong lớp.
- Giáo viên chỉ đến hỗ trợ học sinh khi học sinh có nhu cầu cần giúp đỡ
hoặc giáo viên cần kiểm tra việc học của một học sinh, hoặc một nhóm.
- Thông qua quan sát, kiểm tra, giáo viên đánh giá sự chuyên cần, tích
cực của mỗi học sinh; đánh giá hoạt động của từng nhóm và vai trò điều hành
của mỗi nhóm trưởng.
- Phát hiện những học sinh chưa tích cực, học sinh có khó khăn trong
quá trình học; kiểm tra, hỗ trợ kịp thời những học sinh yếu để giúp các em
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
- Chốt lại những vấn đề cơ bản của bài học.
- Đánh giá hoạt động học của các cá nhân, các nhóm và cả lớp.
- Tạo cơ hội để mỗi học sinh, mỗi nhóm tự đánh giá tiến trình học tập
của mình.
1.4.2.3. Tổ chức lớp học
Một yếu tố mới mang tính đột phá trong tổ chức lớp học của nhà trường

theo mô hình VNEN là sự ra đời của hội đồng tự quản học sinh.
+ Hội đồng tự quản học sinh (HĐTQHS):
Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình.
Hội đồng tự quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực
hiện. Các em được làm chủ trong việc bầu ra Hội đồng tự quản, Chủ tịch, Phó
chủ tịch và các Ban của Hội đồng tự quản.
Học sinh tự đề xuất, bàn bạc đưa ra các nội quy và cùng nhau giám sát
việc thực hiện các quy ước do mình xây dựng và cam kết thực hiện.
Như vậy học sinh tự đề ra các quy ước (dù là những quy ước nhỏ nhất)
và có trách nhiệm thực hiện các quy ước đó. Điều đó đảm bảo tính dân chủ
trong lớp học.
Quyền và trách nhiệm của mỗi thành viên của HĐTQHS đồng thời
được quy định và thực hiện trong nhóm và trong lớp học bởi học sinh.
17


Hội đồng Tự quản có một số ban. Số Ban trong Hội đồng tự quản do
mỗi lớp quy định, không nhất thiết phải giống nhau ở các lớp. Điều chủ yếu là
các thành viên trong mỗi Ban cùng nhau xây dựng những yêu cầu, nội dung
và cách thức hoạt động của Ban. Ví dụ:

Hội đồng tự quản
học sinh

Ban học tập

Ban đối ngoại

Ban vệ sinh – sức
khỏe


Ban học tập : Các thành viên trong Ban bàn bạc, đề xuất một số nội
dung để cả lớp bàn bạc, bổ sung và đi đến thống nhất. Sau đó yêu cầu các
thành viên trong lớp có trách nhiệm thực hiện, chẳng hạn các nội dung sau:
– Đi học chuyên cần (không nghỉ học);
– Đến lớp học đúng giờ;
– Tham gia tích cực các hoạt động học trong nhóm;
– Giữ gìn sách vở, dụng cụ học tập;
– Tham gia xây dựng các Góc học tập (Tiếng Việt, Toán, TN&XH,
Nghệ thuật, Cộng đồng,…)
– Hoàn thành các nhiệm vụ học tập;
– Kết quả học tập tốt;
– Phục tùng sự điều hành của nhóm trưởng;
– Chia sẻ giúp đỡ bạn trong học tập.
Các Ban Đối ngoại, Vệ sinh, … cũng thống nhất một số nội dung
tương tự để các em bàn và thực hiện.

18


1.4.3. Các nội dung quản lý lớp học của giáo viên chủ nhiệm
1.4.3.1. Quản lý môi trường lớp học
Môi trường lớp học là bối cảnh mà ở đó hoạt động sư phạm diễn ra.
Quản lý môi trường lớp học là nhiệm vụ quản lý môi trường cơ sở vật
chất, môi trường tâm lý cũng như những tác động trong và ngoài lớp học có
ảnh hưởng đến hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh.
Quản lý môi trường cơ sở vật chất bao gồm không gian lớp học, việc
sắp xếp bàn ghế, phương tiện dạy - học, ánh sáng trong phòng, độ ẩm thích
hợp, độ cao của bảng và lối đi lại của giáo viên và học sinh [10].
Xây dựng môi trường vật chất của lớp học: Lớp học VNEN là lớp học

thân thiện, đủ rộng, đủ ánh sáng, đủ bàn ghế cho học sinh [4].
Bố trí lớp học theo nhóm học tập (4 – 6 học sinh).
Có góc học tập cho mỗi môn học là nơi để tài liệu, đồ dùng học tập, sản
phẩm, kết quả học tập của môn học đó và có góc cộng đồng để những sản
phẩm đặc trưng của văn hóa, kinh tế cộng đồng.
GÓC CỘNG ĐỒNG
Bản đồ trường, lớp
Bản đồ cộng đồng
Giới thiệu đặc điểm văn hoá
Sản vật địa phương
Sản phẩm các em làm
Góc cộng đồng, hoạt động cộng đồng là nét mới của mô hình VNEN.
Cha mẹ học sinh, cộng đồng là một trong những thành tố tham gia giáo dục
học sinh. Trong mô hình VNEN, lớp học là lớp học mở. Cha mẹ có thể ngồi
học cùng con, có thể quan sát, theo dõi việc học của con ở lớp, cùng con học
ở nhà. Cha mẹ, cộng đồng chủ động đến với nhà trường, đem đến cho nhà
trường những sản vật của địa phương trưng bày ở góc cộng đồng, hướng dẫn
con cái tìm hiểu tự nhiên, văn hóa, xã hội, dạy các nghề truyền thống ở địa
phương, góp phần giáo dục học sinh, giúp học sinh phát triển toàn diện. Mô
19


hình trường học mới đưa trẻ em đến gần với tự nhiên, gần gũi với gia đình,
đồng thời tạo điều kiện để gia đình, cộng đồng chung tay, góp sức cho hoạt
động giáo dục cùng với nhà trường.
GÓC HỌC TẬP
Cha mẹ cần biết học sinh đã học những gì ở nhà trường, giúp các em
liên hệ các kiến thức đã học vào thực tế tại gia đình. Như vậy, các em được
củng cố, vận dụng kiến thức vào thực tế với sự giúp đỡ của người lớn.
GÓC TIẾNG VIỆT

GÓC HỌC TOÁN
Đồ dùng học Tiếng Việt Đồ dùng học Toán

GÓC TN – XH
Mô hình, hình vẽ về

Tài liệu học tập

Đồ dùng tự làm

TN&XH có phổ biến ở

Tài liệu tham khảo

Tài liệu học tập

địa phương

Đồ dùng tự làm

Tài liệu tham khảo

Đồ dùng học tập

Vở chữ đẹp, bài văn Bảng tính, công thức

Tài liệu học tập, tham

hay


Vở sạch, bài giải hay

khảo

Mẫu chữ

Đố vui …

Tranh vẽ, sưu tầm,

Ca dao, tục ngữ, …

Sản vật địa phương

Quản lý môi trường tâm lý bao gồm việc quản lý những hành vi tích
cực của thầy và trò, quản lý việc xây dựng môi trường học tập thân thiện, tích
cực, quản lý hoạt động vui chơi, rèn luyện của trẻ trong lớp học…
Trong quá trình tiến hành quản lý lớp học trong nhà trường, cụ thể ở
đây là trong nhà trường Tiểu học, giáo viên cần đặc biệt lưu ý những đặc tính
mang tính đặc thù sư phạm như: tính đa chiều, tính đồng thời, tính tức thời,
tính bất ngờ, tính đại chúng và tính kế thừa.
Xây dựng môi trường tâm lý lớp học
Môi trường tâm lý ở đây không đơn thuần chỉ là tinh thần mà nó còn
bao gồm kiểu quan hệ giao tiếp, tính thẩm mĩ trong cách sắp xếp không gian
lớp học, khả năng quản lý học sinh trong lớp, văn hóa lớp học… Và người

20


giáo viên phải là người tạo ra môi trường học tập thân thiện, thiết lập các

quan hệ cởi mở, chân thành, tương thân tương ái và trên cơ sở tôn trọng, hợp
tác vì lợi ích chung của tập thể [10].
Mô hình VNEN đã cụ thể hóa việc xây dựng môi trường tâm lý lớp học
thông qua:
- Sổ nhật kí để viết ra và lưu lại những suy nghĩ cá nhân:
Đây được coi là một cuốn nhật kí cá nhân nhằm tạo cơ hội cho học
sinh chia sẻ một cách thoải mái về những câu chuyện riêng tư, những thành
công, những nhận xét hay mong muốn nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ về
những vấn đề các em gặp phải hay bất cứ điều gì các em thích.…và không
được công bố cho tất cả mọi người. Sổ nhật kí giúp các em cân bằng được
tâm lí, học cách thể hiện suy nghĩ cũng như góp phần nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Việt của các em. Cá nhân học sinh tự quản lí sổ nhật kí của
mình. Giáo viên nên giành thời gian chia sẻ để biết học sinh của mình có
đang sử dụng sổ hay không.
- Hộp thư bè bạn:
Hộp thư bè bạn tạo cơ hội cho giáo viên và học sinh trong lớp được
chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ ; hình thành cho học sinh thói quen quan
tâm, chia sẻ với mọi người ; rèn luyện cho học sinh biết tôn trọng sự riêng
tư của bạn ; góp phần nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt của các em.
Công cụ này còn là cách để giáo viên động viên, khích lệ học sinh, hiểu
được học sinh hơn.
Giáo viên cùng trao đổi với học sinh về tác dụng của hộp thư bè bạn ;
giải thích cho các em thấy mỗi cá nhân trong lớp đều có một hộp thư riêng
nên bất cứ điều gì các em muốn chia sẻ, trao đổi với bạn hoặc cô giáo, các em
có thể viết thư và bỏ vào hộp thư riêng của bạn/cô giáo. Các em có thể đề tên
của mình trong thư hoặc không. Giáo viên nên sử dụng hộp thư bè bạn để
khích lệ, động viên, góp ý với học sinh mà không làm các em xấu hổ trước
lớp. Giáo viên cũng có thể bỏ vào hộp thư cá nhân của các em những bài toán,
21



câu đố để tăng thêm hứng thú học tập cho các em. Giáo viên nên thường
xuyên sử dụng hộp thư này để tạo phong trào và hình thành thói quen chia sẻ
trong lớp.
- Hộp thư "Điều em muốn nói"
Đây là công cụ giúp học sinh được bày tỏ ý kiến của mình. Những ý
kiến của học sinh có thể là những tình cảm, cảm nhận, mong muốn, đề nghị
hoặc bất cứ điều gì các em muốn nói về thầy cô, bạn bè, cha mẹ, nhân viên
phục vụ, điều kiện học tập – sinh hoạt và các hoạt động vui chơi… mà các em
không thể hoặc chưa dám nói trực tiếp. Qua hộp thư này, người lớn (thầy cô,
cha mẹ…) sẽ có điều kiện hiểu các em nhiều hơn, đồng thời điều chỉnh các
hoạt động giáo dục, sinh hoạt sao cho phù hợp. Bên cạnh đó, hộp thư này còn
có ý nghĩa giúp các em nhận biết mình là một thành viên của nhà trường và
quyền cơ bản của trẻ được tạo điều kiện thể hiện (quyền được học tập – quyền
được vui chơi – quyền được tham gia ý kiến…). Từ đó các em có ý thức, tự
giác và chủ động khi tham gia các hoạt động của chính các em. Lớp học cần
phải lập một ban phụ trách gồm các thành viên: đại diện ban giám hiệu (nếu
cần), hội đồng tự quản học sinh và giáo viên… mở hộp thư hàng ngày hoặc
hàng tuần để ghi nhận, trả lời những ý kiến của học sinh cũng như giải quyết
các vấn đề nảy sinh trong lớp, trường. Tuy nhiên, tốt nhất nên mở hộp thư
hàng ngày để đảm bảo cập nhật và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát
sinh. Những vấn đề mang tính cá nhân thì cần trao đổi với cá nhân học sinh,
những vấn đề mang tính chất tập thể thì cần có sự trao đổi, bàn bạc trước cả
lớp để tìm ra phương án giải quyết.
- Góc sinh nhật:
Tạo sự vui tươi trong lớp học. Giúp cho HS biết cách quan tâm đến bạn
bè, biết cách tổ chức những buổi lễ kỉ niệm nho nhỏ. Tạo sự gắn kết của các
thành viên trong lớp.
Góc sinh nhật giúp cả lớp cùng biết được sắp đến sinh nhật của bạn
nào. Một ban sẽ phụ trách phần tổ chức sinh nhật cho các bạn trong tháng

22


(hoặc có thể tổ chức đơn lẻ cho từng bạn). Cũng có thể dùng hình thức luân
phiên các ban tổ chức hoặc nhóm các bạn có sinh nhật vào tháng này sẽ tổ
chức cho nhóm các bạn có sinh nhật vào tháng khác. Việc tổ chức không
cần cầu kì. Các học sinh có thể lên kịch bản cho một chương trình văn
nghệ, trò chơi… Giáo viên khuyến khích học sinh trong lớp chúc mừng
bạn mình và nên gợi ý sử dụng các công cụ khác (VD: Hộp thư bè bạn,
những lời yêu thương…) để thể hiện tình cảm với bạn mình trong ngày
sinh nhật của các em. GV nên tạo điều kiện cho học sinh được mừng sinh
nhật nói về bản thân mình, về những thay đổi khi một tuổi mới đến với em.
Mỗi tháng qua đi, học sinh sinh có thể gỡ tháng đó xuống để các em cảm
nhận được thời gian của năm.
- Những lời yêu thương:
Với "Những lời yêu thương", học sinh được chia sẻ những câu nói, câu
thơ hay, có ý nghĩa giáo dục học sinh hướng đến những điều tốt đẹp. Ngoài
ra, đây còn là cách để bổ sung thêm cho vốn tiếng Việt cho các em.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm những câu nói hay, những lời
yêu thương về tình cảm gia đình, thầy trò, bạn bè… Giáo viên nên hướng chủ
đề theo từng tháng, từng sự kiện để học sinh sưu tầm những câu nói hay theo
các chủ đề đó. Trong các buổi sinh hoạt lớp, giáo viên dành thời gian cùng
học sinh trò truyện về những lời yêu thương này để giáo dục các em biết
hướng tới những điều tốt đẹp và yêu thương trong cuộc sống.
Có thể giao cho các ban quản lí góc này lần lượt theo chủ đề từng
tháng. Với mỗi tháng, ban phụ trách chọn chủ đề, phát động các bạn sưu tầm ;
lựa chọn các sưu tầm và trình bày vào góc "Những lời yêu thương".
Những việc làm cụ thể để xây dựng môi trường tâm lý lớp học của nhà
trường theo mô hình VNEN đẫ thực sự giúp lớp học không chỉ là nơi để dạy
và học mà còn là nơi lưu giữ những kỷ niệm thơ ấu đẹp đẽ, đánh dấu hành

trình công tác của các giáo viên. Đó cũng là nơi diễn ra sự tác động xã hội và
hình thành kỹ năng xã hội cũng như hoàn thiện nhân cách của cả thầy và trò.
23


1.4.3.2. Xây dựng tổ chức lớp học
Thành lập HĐTQHS: Thành lập HĐTQHS đòi hỏi phải có sự tham gia
đầy đủ của giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh. Giáo viên cần chuẩn bị
để thích ứng dần với vai trò hỗ trợ, định hướng của mình, khi học sinh được
tin tưởng trao nhiều quyền lực hơn [7].
- Quá trình thành lập Hội đồng tự quản học sinh


Trước lễ bầu cử:

Sau khi đã hoàn thành bước chuẩn bị về tư tưởng cho học sinh, giáo
viên cùng học sinh thảo luận về cơ cấu của HĐTQ. Thông thường là 1 chủ
tịch, 2 phó chủ tịch. Tuy nhiên số lượng phó chủ tịch tùy vào đặc điểm của
mỗi lớp/trường học khác nhau. Học sinh dưới sự định hướng của giáo viên
trao đổi về những phẩm chất, năng lực cần có của các bạn trong HĐTQ. Sau
đó học sinh lập danh sách ứng cử (những học sinh tự nguyện đăng kí) và danh
sách đề cử (những bạn được các bạn khác tín nhiệm giới thiệu). Học sinh tiến
hành bầu ban kiểm phiếu gồm trưởng ban và một số các thành viên tùy vào sĩ
số của lớp. Giáo viên lưu ý hướng dẫn kĩ cách làm việc của ban kiểm phiếu.
Các ứng cử viên sẽ có thời gian để chuẩn bị phần tranh cử của mình.
Đây là một hoạt động quan trọng nhằm tạo điều kiện cho học sinh được cảm
thấy sự dân chủ, công bằng, bình đẳng và được học cách thuyết trình trước
đám đông. Học sinh có thể nhờ tới sự tư vấn, hỗ trợ của giáo viên, phụ huynh
và các bạn học trong việc chuẩn bị tranh cử. Bài tranh cử của học sinh cần có
những nội dung như: Giới thiệu về bản thân, những mong muốn của em về

lớp học, những việc em sẽ làm nếu em trở thành chủ tịch HĐTQ …. Những
hứa hẹn này phải khả thi trong vòng ba tháng thử nghiệm.


Lễ bầu cử:

Một học sinh được tập huấn sẽ dẫn dắt lễ bầu cử với sự hỗ trợ của giáo
viên. Các ứng cử viên sẽ lần lượt tranh cử bằng các bài thuyết trình đã được
chuẩn bị trước. Ban kiểm phiếu làm việc sau khi các ứng viên đã thuyết trình

24


xong. Các bạn có số phiếu cao nhất từ trên xuống sẽ trúng cử vào vị trí chủ
tịch và phó chủ tịch HĐTQ.


Thành lập các ban chuyên trách:

Chủ tịch và các phó chủ tịch HĐTQHS sẽ cùng bàn bạc với giáo viên
để quyết định về các ban chuyên trách như: Học tập, Sức khoẻ và vệ sinh,
Quyền lợi của học sinh , Văn nghệ và thể dục thể thao, Lao động, Đối nội đối ngoại, Thư viện… Số lượng các ban tùy theo tình hình lớp học và sự
thống nhất giữa chủ tịch và phó chủ tịch HĐTQ và học sinh trong lớp quyết
định. Giáo viên lưu ý là học sinh cần phải được thông báo rõ về vai trò của
các ban. HĐTQHS cùng giáo viên khuyến khích tất cả học sinh trong lớp
cùng tham gia các ban. Với những học sinh không chịu đăng kí tham gia một
ban nào, giáo viên có thể dành thời gian để tìm hiểu sở thích, nguyện vọng
của em đó để tư vấn đúng hướng. Cũng có thể nhờ tới sự trợ giúp của phụ
huynh và các bạn học.
Ở mỗi ban, các học sinh trong ban có nhiệm vụ đề xuất hoạt động, theo

dõi việc thực hiện hoạt động. Còn việc thực hiện hoạt động đó không phải chỉ
do các bạn trong ban mà cần có sự tham gia của cả lớp. Do vậy, qua quá trình
hoạt động cũng giúp giáo viên và tự bản thân các học sinh hiểu được mình
phù hợp và thích ban nào. Khi đã thành lập các ban, các ban sẽ bầu trưởng
ban và đưa ra các kế hoạch hành động cũng như cách động viên các bạn cùng
tham gia hoạt động. Để giúp các ban làm việc hiệu quả, mỗi ban nên có sự hỗ
trợ, tư vấn của một vị phụ huynh và giáo viên. Các phó chủ tịch cũng nhận
trách nhiệm phụ trách những ban nào. Lưu ý là HĐTQHS thường xuyên thay
đổi để đảm bảo tất cả HS trong lớp đều có cơ hội được tham gia và trải
nghiệm. Thời gian thay một hay toàn bộ các thành viên nòng cốt tùy thuộc
vào tình hình mỗi lớp học. Giáo viên cần nói rõ điều này ngay từ đầu để tránh
cho học sinh khỏi những cảm xúc tiêu cực khi không được tham gia các vai
trò quan trọng nữa. Nhìn chung, quá trình thành lập HĐTQHS nên cố gắng
bám sát thực tiễn bầu cử của đất nước và địa phương để giúp trẻ em hiểu được
25


×