Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 138 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




DƢƠNG VĂN CHỦNG




BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN NGHĨA HƢNG
TỈNH NAM ĐỊNH



LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC







HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




DƢƠNG VĂN CHỦNG




BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN NGHĨA HƢNG
TỈNH NAM ĐỊNH


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Nhật Thăng









HÀ NỘI – 2010
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU,CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ


BGD & ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
BGH Ban Giám Hiệu
CBQL Cán bộ quản lý
GD-ĐT Giáo dục – Đào tạo
GV Giáo viên
HS Học sinh
Nxb Nhà xuất bản
SGD- ĐT Sở Giáo dục – Đào tạo
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
Tr Trang
UBND Uỷ ban nhân dân




















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3
4. Giả thuyết nghiên cứu
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
6. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu
4
7.Cấu trúc luận văn
5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

6
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lý giáo dục đạo đức ở trường
phổ thông

9
1.2. Một số khái niệm công cụ nghiên cứu đề tài
9
1.2.1. Quản lý

9
1.2.2. Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục
12
1.2.3. Đạo đức, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo đức
16
1.3. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách của
học sinh Trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay

19
1.3.1. Giáo dục đạo đức góp phần hình thành những giá trị cơ bản của
nhân cách con người xã hội của mỗi thời kỳ lịch sử

20
1.3.2. Giáo dục đạo đức góp phần xác định mục tiêu hành động của mỗi
con người

22
1.3.3. Giáo dục đạo đức góp phần xây dựng quan hệ xã hội công bằng,
dân chủ, phát triển bền vững trong và ngoài nhà trường

23
1.4. Ý nghĩa và mục tiêu của việc quản lý giáo dục đạo đức.
28
1.4.1. Quản lý tốt tạo ra sự thống nhất phát huy những yếu tố tích cực,
những thuận lợi, hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển nhân cách học sinh


28
1.4.2. Quản lý giáo dục đạo đức làm tăng thêm hiệu quả của giáo dục

đạo đức góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông

27
1.4.3. Nội dung của quản lý giáo dục đạo đức ở trường trung học phổ
thông

30
1.5. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc quản lý giáo dục đạo đức

ở trường Trung học phổ thông
39
1.5.1. Mục tiêu giáo dục Trung học phổ thông
39
1.5.2. Đặc điểm của học sinh Trung học phổ thông
40
1.5.3. Đặc điểm của xã hội Việt Nam và của địa phương thời kỳ mở cửa,
hội nhập

45
Tiểu kết chương 1
42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN NGHĨA
HƢNG, TỈNH NAM ĐỊNH


44
2.1. Sơ lược về kinh tế, xã hội; giáo dục của huyện Nghĩa Hưng
44
2.1.1. Về kinh tế - xã hội

44
2.1.2. Tình hình giáo dục (chủ yếu giáo dục trung học phổ thông)
45
2.2. Tổ chức khảo sát thực trạng
49
2.3. Kết quả khảo sát
50
2.3.1. Đánh giá thực trạng đạo đức học sinh trung học phổ thông ở
huyện Nghĩa Hưng (theo đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học
sinh)


50
2.3.2. Nhận thức của các đối tượng khảo sát về
52
2.3.3. Hiểu biết về quản lý giáo dục đạo đức
58
2.3.4. Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức
62
2.4. Những nguyên nhân, hạn chế, những tồn tại cần giải quyết
70
Tiểu kết chương 2
73
Chƣơng 3: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA
HIỆU TRƢỞNG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
HUYỆN NGHĨA HƢNG, TỈNH NAM ĐỊNH


75
3.1. Một số nguyên tắc để xây dựng biện pháp quản lý giáo dục đạo đức .

75
3.1.1. Biện pháp quản lý phải đảm bảo mục tiêu giáo dục trung học phổ
thông

75
3.1.2. Biện pháp quản lý phải đồng bộ. (tác động vào các khâu quản lý)
76
3.1.3. Biện pháp quản lý phải phát huy được tính tích cực tự giác của
các chủ thể tham gia giáo dục đạo đức trong và ngoài nhà trường

77
3.1.4. Biện pháp quản lý phải phát huy tiềm năng xã hội
79
3.1.5. Biện pháp quản lý phải phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính sư
phạm
79
3.2. Một số biện pháp quản lý giáo dục đạo đức của hiệu trưởng trường
trung học phổ thông

81
3.2.1. Quản lý việc tổ chức khảo sát đánh giá thực trạng liên quan đến
giáo dục đạo đức cho học sinh

81
3.2.2. Kế hoạch hoá hoạt động quản lý giáo dục đạo đức trong và ngoài
nhà trường

83
3.2.3. Xây dựng cơ chế tổ chức và điều hành hoạt động giáo dục đạo
đức trong và ngoài nhà trường


87
3.2.4. Xây dựng chương trình, nội dung và tổ chức bồi dưỡng cho các
chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ
thông


90
3.2.5. Xây dựng kế hoạch sử dụng hợp lý cơ sở vật chất , điều kiện trong
và ngoài nhà trường phục vụ hoạt động giáo dục đạo đức

95
3.2.6 Chỉ đạo đa dạng hoá các hình thức hoạt động giáo dục đạo đức
96
3.2.7. Tổ chức xây dựng các phong trào,các điển hình tiên tiến trong
giáo dục đạo đức

99
3.3. Đánh giá, khảo sát tính khả thi của biện pháp đề xuất
101
Tiểu kết chương 3
103
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
104
1. Kết luận
104
2. Khuyến nghị
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
108

PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức và giáo dục đạo đức là một phạm trù xã hội, xuất hiện khi có xã hội
loài người, tồn tại và phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người. Đạo đức là
một mặt quan trọng của nhân cách mỗi con người, nói lên mối quan hệ giữa con
người với nhau trong xã hội. Đạo đức là kết quả của một quá trình giáo dục, là kết
quả của sự tu dưỡng, rèn luyện của bản thân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đạo đức không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là
đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người”.(Hồ Chí Minh; toàn tập, tập 5, trang 252)
Hội nghị lần II của Ban Chấp Hành Trung ương khóa VIII đã khẳng định
“Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh, phát
huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững để
thực hiện mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Phát triển
nguồn lực con người là phát triển đức và tài, hai mặt của nhân cách mà nhà trường
giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành nhân cách.
Đại hội khoá X Đảng cộng sản Việt Nam nhận định: “Hiện nay tình trạng
suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm
đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ”.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu về mặt kinh
tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên nhưng bên cạnh đó
những tiêu cực của cơ chế thị trường đã tác động đến đại đa số thanh niên và học
sinh như: có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ và hoài bão, lập thân, lập nghiệp, mặt
khác những tiêu cực trong thi cử, bằng cấp, chạy theo thành tích đã làm cho một số
trường nặng về dạy chữ hơn là dạy người, những tiêu cực trong dạy thêm và học
thêm làm cho tình cảm thầy và trò bị tổn thương, truyền thống tôn sự trọng đạo của

dân tộc bị mai một dần. Bên cạnh đó những tệ nạn xã hội và ma túy đã và đang xâm
nhập học đường và có xu thế gia tăng, tệ nạn sử dụng ma túy trong học sinh, sinh
viên sẽ làm hủy hoại thể lực, trí tuệ, đạo đức của thế hệ chủ nhân tương lai của đất
2
nước. Và điều này đã gây ra nhiều khó khăn phức tạp trong công tác giáo dục của
nhà trường.
Lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ quan trọng của sự phát triển thể chất và
nhân cách. Cụ thể sự phát triển thể chất đang đi vào giai đoạn hoàn chỉnh, các tố
chất thể lực như sức mạnh, sức bền, sự dẻo dai được tăng cường, là thời kỳ trưởng
thành về giới tính. Sự phát triển về mặt tâm lý của học sinh THPT có những nét mới
về chất, nếu không được giáo dục sẽ có những hành vi tự phát, thiếu văn hóa, phi
đạo đức do ý thức không kiềm chế được bản năng. Vì vậy, trong những năm gần
đây một số học sinh nữ phải bỏ học vì có thai, hiện tượng bạo lực học đường có
triều hướng gia tăng.
Trong chức năng quản lý giáo dục phải quan tâm đồng thời tới việc quản lý
học tập và quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách. Hai mặt trên có quan hệ
hỗ trợ, tác động lẫn nhau, cần khẳng định giáo dục đạo đức có tác động mạnh mẽ
đến chất lượng học văn hóa nhất là trong điều kiện hiện nay, khi từng ngày, từng
giờ những cám dỗ, những ảnh hưởng tiêu cực của xã hội dội vào nhà trường.
Nghĩa Hưng là một huyện của tỉnh Nam Định, cách thành phố Nam Định
khoảng 20Km; cách bãi tắm Thịnh Long của huyện Hải Hậu và cách bãi tắm Quất
Lâm của huyện Giao Thủy không xa, trường THPT B Nghĩa Hưng cách bãi tắm
Thịnh Long chưa đầy 1km, trường THPT C Nghĩa Hưng và trường THPT Trần
Nhân Tông của Huyện Nghĩa Hưng cách bãi tắm Thịnh Long hơn 2km nên học sinh
dễ dàng và nhanh chóng tiếp thu ảnh hưởng những mặt tích cực cũng như tiêu cực
xảy ra, nhất là trong cơ chế thị trường và quá trình hội nhập. Vì vậy các nhà quản lý
giáo dục cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này đặc biệt là việc nghiên cứu quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn huyện. Cho đến nay chưa có tác giả nào
nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm để rút ra những kết luận khoa học về việc nâng
cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông huyện

Nghĩa Hưng hoặc các huyện có những đặc điểm tương tự huyện Nghĩa hưng, vì vậy
tôi mạnh dạn chọn đề tài “Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” với mong muốn góp phần
3
hoàn thiện hơn việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông của huyện Nghĩa Hưng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục đạo đức và
quản lý giáo dục đạo đức, tìm hiểu thực trạng về đạo đức của học sinh và công tác
quản lý giáo dục đạo đức ở các trường Trung học phổ thông huyện Nghĩa Hưng, tác
giả đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức ở
các trường trung học phổ thông huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường Trung học phổ thông
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam định.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh Trung học phổ thông ở huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam định.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Ở một bộ phận học sinh THPT hiện nay có những biểu hiện không lành
mạnh do công tác giáo dục đạo đức còn nhiều thiếu sót, trong đó có việc quản lý
giáo dục đạo đức cho học sinh THPT chưa khoa học, bất cập với thực tiễn. Nếu có
những biện pháp quản lý hợp lý, có chỉ đạo chặt chẽ, tổ chức thực hiện tốt, kiểm tra
đánh giá chính xác thì sẽ khắc phục được các tồn tại và nâng cao giáo dục đạo đức
cho học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận của việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh Trung
học phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Khảo sát, đánh giá thực trạng việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các

trường Trung học phổ thông huyện Nghĩa Hưng.
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh.

4
6. Hệ thống các phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu lý thuyết về giáo dục, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục, quản
lý giáo dục đạo đức bao gồm nghiên cứu tài liệu, các công trình, các văn bản …
nhằm phân tích đặc trưng của giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo đức đồng thời
xác định những yếu tố khách quan, chủ quan liên quan đến công tác quản lý giáo
dục đạo đức trong hoàn cảnh hiện nay.
6.2.Phương pháp nghiên cứu thực trạng bao gồm những phương pháp sau
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
+ Xác định hai loại phiếu hỏi:
Loại 1: Phiếu hỏi cho cán bộ quản lý, giáo viên, phụ huynh.
Loại 2: Phiếu hỏi cho học sinh.
+ Khảo sát:
Cán bộ quản lý ( cấp trường và cấp phòng Giáo dục – Đào tạo).
Giáo viên chủ nhiệm, giáo viên.
Cha, mẹ học sinh
Một số cán bộ quản lý xã hội.
Loại 2: Khảo sát học sinh từ lớp 10 đến lớp 12 ở các trường
+ Yêu cầu của khảo sát qua phiếu:
Đánh giá nhận thức tầm quan trọng của giáo dục đạo đức,quản lý giáo dục đạo
đức.
Sự hiểu biết về nội dung, biện pháp giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo
đức.
Thực trạng việc quản lý giáo dục đạo đức ở các trường.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động nhà trường: Hội đồng giáo dục,

sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt Đoàn thanh niên, sinh hoạt lớp chủ nhiệm.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn các cán bộ quản lý của 4 trường THPT trong
huyện, đặc biệt là: Ban giám hiệu, giáo viên chủ nhiệm. Nội dung tìm hiểu việc tổ
chức quản lý đạo đức của Hiệu trưởng, sự tạo điều kiện của Hiệu trưởng, sự phối
5
hợp với các lực lượng giáo dục trong trường liên quan đến công tác quản lý đạo đức
và quản lý giáo dục đạo đức.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp chuyên gia.
6.3.Các phương pháp xử lý thông tin, dữ liệu
- Phương pháp phân tích,so sánh,tổng hợp.
- Phương pháp sử dụng toán thống kê,sơ đồ hoá…
- Phương pháp sử dụng phần mềm tin học.
7.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo; phụ lục,
luận văn trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đạo đức ở trường trung học phổ
thông.
Chương 2: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ
thông ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Chương 3: Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức của hiệu trưởng trường
trung học phổ thông ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề quản lý giáo dục đạo đức ở trƣờng phổ
thông
Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội được hình thành rất sớm
trong lịch sử. Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức phản ánh sự tồn

tại và phát triển của tồn tại xã hội. Đạo đức có ý nghĩa và có vai trò quan trọng
trong sự phát triển nhân cách và thiết lập tới quan hệ xã hội giữa con người với con
người, giữa các tập thể và quốc gia, đó là quy luật phát triển của con người và xã
hội. Chính vì vậy, đã từ lâu nhân dân lao động đặc biệt các học giả đã có nhiều ý
kiến về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Nói về vai trò của đạo đức, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy “Đạo đức là cái gốc của người cách mạng”, Người thường nói
có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì có khi
hại nước, hại dân.
Vì vai trò của đạo đức mà nhiều nhà nghiên cứu đã để tâm nghiên cứu về
đạo đức, và giáo dục đạo đức, trong đó phải kể đến những tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về lý luận “đạo đức cách mạng” mà toàn Đảng, toàn dân đang có phong
trào thi đua “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Phải khẳng
định lý luận về đạo đức cách mạng của Người là những cống hiến vĩ đại, đặt nền
móng cho phương pháp luận để nghiên cứu và tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức
cho toàn Đảng, toàn dân, cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức của con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, trong đó có giáo
dục đạo đức cho học sinh trong các trường học.
Bàn về đạo đức, phải kể đến Vũ Khiêu, Phạm Hưu, Phan Văn Diễn, song
tiêu biểu nhất là Vũ Khiêu với tư cách là đạo đức học, ông đã làm sâu sắc nguồn
gốc của đạo đức xã hội chủ nghĩa, bản chất và đặc điểm của đạo đức xã hội chủ
nghĩa và các con đường hình thành, phát triển của đạo đức xã hội chủ nghĩa. Những
7
quan điểm của ông được thể hiện trong tác phẩm “Đạo đức mới” (Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội – 1974);
Bàn về giáo dục đạo đức thì tiêu biểu nhất là GS Nguyễn Lân; Hà Thế Ngữ;
Nguyễn Thị Đoan; Nguyễn Khánh. Đó là những cán bộ giảng dạy của trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, đã viết giáo trình về lý luận giáo dục đạo đức, giáo dục đạo
đức cho học sinh, sinh viên, giáo dục gia đình từ những năm 60, 70 của thế kỷ XX.
Trong những công trình nghiên cứu của các cán bộ nghiên cứu ở thời kỳ này cũng
đã bàn về mục tiêu, nội dung, phương pháp, các nguyên tắc của quá trình giáo dục

đạo đức, đã quan tâm tới đặc điểm của giáo dục đạo đức và xác định sự cần thiết kết
hợp các lực lượng trong giáo dục (thường gọi là ba kết hợp, đó là kết hợp gia đình,
nhà trường, xã hội), phân tích vai trò của Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên tiền
phong trong hoạt động giáo dục đạo đức.
Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước và chuẩn bị cuộc “cách mạng” giáo
dục nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, yêu cầu nghiên cứu đạo đức và
đổi mới giáo dục đạo đức trở thành một vấn đề cấp thiết trong mô hình nhân cách
và phát triển nhân cách con người Việt Nam. Trong giai đoạn này có rất nhiều
người nghiên cứu, nhưng tiêu biểu nhất là GS Phạm Minh Hạc và đội ngũ cán bộ
của “Trung tâm nghiên cứu giáo dục đạo đức và công dân” ở Viện Khoa học Giáo
dục. Tiêu biểu nhất cho kết quả nghiên cứu về giáo dục đạo đức ở thời kỳ này tập trung
trong công trình nghiên cứu cấp nhà nước “Phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” do giáo sư Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm kéo dài mười
năm (1990 – 2000) chia làm hai chu kỳ. Kết quả xác định mục đích giáo dục đạo đức
và nêu lên trên bốn mươi giá trị, dựa trên năm quan hệ của chủ thể (quan hệ với bản
thân, với người khác, với công việc, với môi sinh và với lý tưởng của cộng đồng dân
tộc) là cơ sở xây dựng mục tiêu và các phương thức giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một trong những công trình nghiên cứu giáo dục đạo đức cho học sinh phổ
thông có giá trị thức tiễn nhất là công trình nghiên cứu xây dựng chương trình giáo
dục thể hiện qua môn “Đạo đức” ở tiểu học, “Giáo dục công dân” ở trung học cơ
sở, trung học phổ thông và thông qua chương trình hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
8
lớp được thiết kế hệ thống từ lớp 1 đến lớp 12 do PGS. TS Hà Nhật Thăng làm
trưởng tiểu ban xây dựng.
Lần đầu tiên trong chương trình giáo dục phổ thông, vấn đề giáo dục đạo đức
cho học sinh phổ thông được xây dựng một cách hệ thống, liên thông, đồng tâm
phát triển giữa ba cấp học, bao gồm:
- Mục tiêu giáo dục đạo đức.
- Hệ thống chuẩn mức đạo đức được thể hiện qua hệ thống bài (từ lớp một

đến lớp mười hai); dựa trên năm quan hệ của chủ thể (với bản thân, người khác,
công việc, môi sinh, và lý tưởng cộng đồng).
- Xác định những phương pháp dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung giáo
dục đạo đức cho học sinh phổ thông.
- Xây dựng được một hệ thống đồ dùng dạy học cho mỗi bài .
Cho đến nay những công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức chủ yếu là
nghiên cứu: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, điều kiện, chức năng nhiệm vụ của
các chủ thể tham gia quá trình giáo dục đạo đức (giáo viên, giáo viên chủ nhiệm,
cha mẹ học sinh, con cái…).
Chưa có công trình nào bàn luận về việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
nhằm tạo ra sự thống nhất hoạt động toàn trường trong quá trình tổ chức giáo dục
đạo đức ở các cấp học. Đặc biệt nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu
trưởng các trường trung học phổ thông ở Nam Định nói chung, ở huyện Nghĩa
Hưng nói riêng.
Tác giả luận văn hy vọng nghiên cứu đề tài “Biện pháp quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Nghĩa Hưng - tỉnh Nam Định” sẽ
góp phần làm phong phú thêm lý luận quản lý giáo dục đạo đức - một mặt của quản
lý giáo dục toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo đức nói riêng, hiệu
quả giáo dục ở trường trung học phổ thông nói chung.
Tóm lại, từ những nội dung đã trình bày, có thể nhận thấy vấn đề quản lý đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Nghĩa Hưng góp phần vào việc quản
lý đạo đức cho học sinh trong tỉnh Nam Định và học sinh trong cả nước là một việc
làm cấp bách và thiết thực, thu hút sự nghiệp nghiên cứu của các nhà khoa học,
9
nhiều cán bộ quản lý. Đã có một số tác giả nghiên cứu về biện pháp quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông nhưng mới chỉ chuyên sâu vào một
lĩnh vực nhất định hoặc một khu vực địa lý nhất định; chưa có tác giả nào nghiên
cứu về biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định hoặc ở một địa bàn Huyện có vị trí địa lý, điều
kiện kinh tế - xã hội tương tự như ở huyện Nghĩa Hưng. Đó là nội dung chính mà

đề tài tiếp tục nghiên cứu để đưa vào áp dụng.
1.2. Một số khái niệm công cụ nghiên cứu đề tài
1.2.1. Quản lý
Định nghĩa quản lý có thể xét từ nhiều góc độ và các quan điểm tiếp cận khác
nhau.
- Quản lý là sự đảm bảo hoạt động của hệ thống trong điều kiện có biến đổi
liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích
ứng với hoàn cảnh mới;
- Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm
việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã
định;
- Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, của chủ thể quản
lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng). Quản lý
về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, các nguyên tắc, các phương pháp, các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, 1998, thuật ngữ quản lý
được định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển của một đơn vị, cơ quan”.
Nghiên cứu về mặt quản lý có rất nhiều quan niệm khác nhau. Các quan niệm
này phản ánh những mặt, những chức năng cơ bản của quá trình quản lý, song về cơ
bản các quan niệm đều khẳng định đến chủ thể, đối tượng quản lý, nội dung phương
thức và mục đích của quá trình quản lý. Từ điển tiếng Việt “Quản lý là trông coi và
giữ gìn theo những yêu cầu nhất định”. Trong khía cạnh khác “Quản lý là tổ chức
và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. [20,tr .326].
10
Thuật ngữ quản lý (từ Hán Việt) nêu bản chất của hoạt động này trong thực
tiễn. Nó gồm hai mặt tích hợp vào nhau, quá trình “quản” gồm sự trông coi , giữ
gìn, duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đưa vào thế
hệ “phát triển”.
Theo C.Marx: “Quản lý là lao động điều khiển lao động”.[20,tr.326] . C.Mác

đã coi việc xuất hiện quản lý như là kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình
lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội được phối
hợp lại. C.Mác đã viết: “Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên
một quy mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt
động cá nhân… Một nhạc sỹ độc tấu thì điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc
thì phải có nhạc trưởng”. [20, tr .326].
Theo W.Taylor (1856 – 1915) thì “Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm ,và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một
cách tốt nhất và rẻ nhất”. Theo ông có bốn nguyên tắc quản lý khoa học:
1. Nghiên cứu một cách khoa học mỗi yếu tố của một công việc và xác định
phương pháp tốt nhất để hoàn thành;
2. Tuyển chọn người và huấn luyện họ hoàn thành nhiệm vụ bằng phương
pháp khoa học;
3. Người quản lý phải hợp tác đầy đủ, toàn diện với người bị quản lý để đảm
bảo chắc chắn rằng họ làm theo phương pháp đúng đắn;
4. Có sự phân công trách nhiệm rõ ràng giữa người quản lý và người bị quản
lý. [20, tr. 327]
Theo Henry Fayol (1841 – 1925) thì “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh
đạo) và kiểm tra”. Ông còn khẳng định “Khi con người lao động hợp tác thì điều tối
quan trọng là họ cần phải xác định rõ công việc mà họ phải hoàn thành và các
nhiệm vụ của mỗi cá nhân phải là mặt lưới dệt nên mục tiêu của tổ chức”[15,tr. 10].
Ông đã xuất phát từ nghiên cứu các loại hình hoạt động quản lý và phân biệt thành
năm chức năng cơ bản: “Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ huy, phối hợp, kiểm tra” và sau
này được kết hợp thành bốn chức năng cơ bản của quản lý: Kế hoạch, tổ chức, chỉ
11
đạo, kiểm tra. Ông đã đưa ra mười bốn nguyên tắc trong quản lý là: Phân công lao
động, quyền hạn, kỷ luật, thống nhất chỉ huy, thống nhất chỉ đạo, quyền lợi cá nhân
phải phục tùng quyền lợi chung, tiền lương xứng đáng, tập trung hoá, sợi dây quyền
hạn, trật tự, bình đẳng, ổn định đội ngũ, sáng kiến và tinh thần đồng đội… Những

cống hiến cảu ông về quản lý đã mang tính phổ quát cao và nhiều luận điểm đến
nay vẫn còn giá trị khoa học và thực tiễn [20, tr .327]
H.Koontz thì lại khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm
bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của
nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó
con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [20, tr. 327- 328]
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì định nghĩa kinh
điển nhất về quản lý là: tác động có chủ hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ chức -
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt đuợc mục đích của tổ chức. [10,tr .1]
Cũng theo tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc, hiện nay, hoạt
động quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức,
chỉ đạo, (lãnh đạo) và kiểm tra. [10,tr .1]
Từ quan niệm của các học giả đã nêu, chúng ta có thể khái quát lại: “Quản lý
là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các nguồn
lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng người để đạt
được mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất. [20, tr. 328]
Các chức năng cơ bản của quản lý: Chức năng quản lý là một dạng hoạt
động quản lý chuyên biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể
quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. [27, tr. 66].
Có bốn chức năng quản lý cơ bản: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Kế hoạch hoá: Kế hoạch hoá có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với
thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được
mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá: (a)
12
xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức; (b) xác định và đảm
bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức để đạt được
các mục tiêu này và; (c) quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt

được các mục tiêu đó.
Tổ chức: Là quá trình hình thành nên cấu trúc quan hệ giữa các thành viên,
giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế
hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức.
Lãnh đạo (chỉ đạo): Lãnh đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác
và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ
chức.
Kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng của quản lý, thông qua đó một cá nhân,
một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết.
1.2.2. Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục
Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, thực hiện các chức năng kiến
tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư nhất định của xã hội đó.
Trường học là tổ chức mang tính quyền lực Nhà nước – xã hội, trực tiếp làm
công tác giáo dục, đào tạo, thực hiện việc giáo dục cho thế hệ đang dần lớn lên.
Ngày nay nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một thiết chế chuyên biệt của xã
hội để Giáo dục – Đào tạo thế hệ trẻ thành những người có tri thức, sức khoẻ, phẩm
chất chung của hệ thống giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò trọng yếu tạo ra
sức lao động mới cho xã hội, đặc biệt là đòi hỏi lượng chất xám trong lao động
ngày càng cao.
Nhà trường, theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo : “Trường học là một thiết chế xã
hội trong đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai
nhân tố Thầy – Trò. Trường học là một bộ phận cộng đồng và trong guồng máy của
hệ thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở.” [3, tr 63]
Nhà trường trong nền kinh tế công nghiệp không chỉ là thiết chế sư phạm
đơn thuần. Công việc diễn ra trong nhà trường có mục tiêu cao nhất là hình thành
“Nhân cách - Sức lao động”, phục vụ phát triển cộng đồng làm tăng cả nguồn vốn
13
con người (human capital), vốn tổ chức (organizational capital) và vốn xã hội
(social capital).“Nhà trường là vầng trán của cộng đồng” và đến lượt mình “cộng

đồng là trái tim của nhà trường”.[24, tr.210].
Quản lý nhà trường:GS.VS Phạm Minh Hạc đã đưa ra nội dung khái quát về
khái niệm quản lý nhà trường: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục
của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành
theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”.[20,tr. 373]
Quản lý nhà trường chính là những công việc mà người cán bộ quản lý nhà
trường thực hiện những chức năng quản lý để thực hiện các nhiệm vụ công tác của
mình. Đó chính là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ
thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ mà tiêu điểm là quá trình dạy và học.
Bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy, điều khiển
vận động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành tố. Mối quan hệ
đó là do quá trình sư phạm trong nhà trường qui định.
Quản lý nhà trường là tổ chức, chỉ đạo và điều hành quá trình giảng dạy của
thầy và hoạt động học tập của trò, đồng thời quản lý những điều kiện cơ sở vật chất
và công việc phục vụ cho dạy và học nhằm đạt được mục đích của giáo dục và đào
tạo.
Quản lý trực tiếp nhà trường bao gồm quản lý quá trình dạy học, giáo dục, tài
chính, nhân lực, hành chính và quản lý môi trường giáo dục. Trong đó quản lý dạy
học – giáo dục là trọng tâm. [20,tr .373]
Trong tác phẩm Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục, M.I.Kônđacốp
đã viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà
trường (công việc nhà trường) là một hệ thống xã hội – sư phạm chuyên biệt. Hệ
thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể
quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối
ưu về các mặt xã hội – kinh tế, tổ chức – sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục
thế hệ đang trưởng thành”. [20, tr. 373]
14
Trong quản lý và thực tiễn quản lý nhà trường gồm hai loại quản lý:

Một là: Quản lý của chủ thể bên trên và bên ngoài nhà trường nhằm định
hướng cho nhà trường, tạo điều kiện cho nhà trường hoạt động và phát triển (các
cấp quản lý nhà trường và sự hợp tác, giám sát của xã hội/cộng đồng).
Hai là: Quản lý của chính chủ thể bên trong nhà trường, hoạt động tổ chức
các chủ trương, chính sách giáo dục thành các kế hoạch hoạt động, tổ chức chỉ đạo
và kiểm tra để đưa nhà trường đạt tới những mục tiêu đã đề ra (thực hiện các chức
năng quản lý của một tổ chức).
Mục tiêu đề ra của nhà trường được cụ thể hoá trong kế hoạch năm học. Hiện
nay các nhà quản lý trường học quan tâm nhiều đến các thành tố mục tiêu, nội
dung, phương pháp, tổ chức quản lý và kết quả. Đó là các thành tố trung tâm của
quá trình sư phạm, nếu quản lý và tác động hợp quy luật sẽ đảm bảo một chất lượng
tốt trong nhà trường.
Quản lý giáo dục: P.V Khuđôminxky cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động
có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ GD – ĐT đến trường học) nhằm
đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển
toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật về giáo
dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ em”. [20, tr .341]
Theo GS.VS Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục nói
chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ trẻ và đối với từng học
sinh”.
Theo GS.TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc, TS Nguyễn Quốc Chí thì: “Quản lý giáo
dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan của các cấp
quản lý giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống đạt
được mục tiêu của nó”. [8, tr.12]
Quản lý giáo dục theo hướng tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các
lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển
15

xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục
không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người; tuy nhiên trọng tâm vẫn là giáo
dục thế hệ trẻ cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân. [27, tr .65]
Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, có tổ
chức được hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ
thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục; tức là cụ thể hoá
đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu
của nhân dân, của đất nước. [27, tr. 65]
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ
thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng. [27, tr. 65].
Theo GS –TS Nguyễn Ngọc Quang, quản lý giáo dục là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống
vận hành theo đường lối giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy - học, giáo
dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
[20, tr .341].
Từ những quan điểm trên, ta có thể hiểu: Quản lý giáo dục là quá trình tác
động có tổ chức và mang tính hệ thống của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm đưa hoạt động của mỗi cơ sở giáo dục cũng như toàn bộ hệ thống giáo dục
đạt tới mục tiêu xác định. Đó là những tác động phù hợp quy luật khách quan,
hướng tới việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Đặc điểm của quản lý giáo dục:Quản lý giáo dục vừa có những đặc điểm của
quản lý nói chung và vừa có những đặc điểm của riêng lĩnh vực quản lý giáo dục:
+ 5 đặc điểm của quản lý nói chung:
- Quản lý bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý
- Quản lý bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin và đều có mối
liên hệ ngược lại.

16
- Quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi).
- Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.
- Quản lý gắn với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
+ Một số đặc điểm, đặc thù của Giáo dục – Đào tạo.
- Đặc điểm kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt
động quản lý giáo dục.
- Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý.
- Đặc điểm kết hợp Nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lý nhà
nước về giáo dục. [27, tr .66].
1.2.3. Đạo đức, giáo dục đạo đức, quản lý giáo dục đạo đức
Đạo đức: Khái niệm đạo đức trong đời sống hàng ngày là để nhận xét nhân
phẩm của mỗi người so với những chuẩn mực đạo đức xã hội, thể hiện trong quan
hệ giao tiếp ứng xử với mọi người xung quanh và so với bổn phận, trách nhiệm xã
hội đòi hỏi.
Các nhà nghiên cứu Đạo đức học phân tích khái niệm đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội đặc trưng của xã hội loài người, nó có tính lịch sử xã hội, bị chế
ước, chi phối bởi những điều kiện khách quan của kinh tế xã hội, dân tộc, lịch sử.
Đạo đức có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển nhân cách con người trong các
thời kỳ lịch sử.
- “Đạo đức là quy tắc chung trong xã hội và hành vi của con người, quy định
những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội. Đạo đức là
hình thái của ý thức xã hội… Chủ nghĩa Mác – Lê nin xây dựng quan điểm về đạo đức
và những yêu cầu của đạo đức không phải trên những định nghĩa chung và trừu tượng
mà trên những điều kiện lịch sử cụ thể. Không có đạo đức nào ở ngoài xã hội loài
người. Trong một xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Những hình thức kết cấu
xã hội và cơ sở kinh tế mà biến đổi thì đạo đức cũng biến đổi theo”. [37, tr. 7]
Theo Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng trình bày trong cuốn Đạo đức
học – Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001 thì “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng hợp những quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh

17
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ
xã hội trong quan hệ với con người, giữa cá nhân và xã hội…”[37, tr. 7].
“Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lí, những quy định, những chuẩn mực ứng
xử trong quan hệ của con người.Nhưng trong điều kiện hiện nay chính quan hệ của
con người cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực
ứng xử của con người với con người, với công việc, với bản thân kể cả với thiên
nhiên và môi trường sống…
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính
trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ
mặt nhân cách đã được xã hội hoá. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần
lành mạnh, trong sáng, ở hành động góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những
mâu thuẫn trong cuộc sống. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội
thì đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội
cũng phản ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại”. [37, tr. 7]
“Chuẩn mực đạo đức là những phẩm chất đạo đức có tính chuẩn mực, được
nhiều người thừa nhận, được dư luận xã hội xác định như một đòi hỏi khách quan,
là thước đo giá trị cần có ở mỗi người, những chuẩn mực đạo đức ấy được coi như
mục tiêu giáo dục, rèn luyện ở mọi người ở nhiều bậc học, cấp học, lứa tuổi, ngành
nghề. Đồng thời chuẩn mực đạo đức lại có giá trị định hướng, chi phối, chế ước quá
trình nhận thức, điều chỉnh thái độ và hành vi của mỗi người”.[37,tr.8].
Giáo dục đạo đức : Giáo dục đạo đức là tổ chức tác động nhằm hình thành
cho con người những quan điểm cơ bản nhất, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức cơ bản của xã hội. Nhờ đó, con người sử dụng khả năng của mình để
lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội, cũng như tự đánh giá,
suy nghĩ hành vi của bản thân mình.
Giáo dục đạo đức là quá trình hoạt động làm biến hệ thống các chuẩn mực
đạo đức từ chỗ là những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân, thành những
đòi hỏi bên trong của cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen, của người được
giáo dục.

18
Giáo dục đạo đức là một quá trình tổ chức giáo dục xã hội và tự giáo dục rèn
luyện, trong đó mỗi cá nhân vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình giáo dục
đạo đức nói riêng và quá trình phát triển, hoàn thiện nhân cách nói chung. Tuyệt
nhiên không nên coi giáo dục đạo đức là việc riêng của nhà trường, của thầy cô giáo
và đối tượng của nó chỉ là thế hệ trẻ. Song, phải khẳng định rằng giáo dục đạo đức
trong nhà trường đối với thanh, thiếu niên học sinh, sinh viên có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Quản lý giáo dục đạo đức: Hiện nay chưa có một chuyên gia nghiên cứu đạo
đức nào đưa ra một khái niệm “Quản lý giáo dục đạo đức”.
Thực sự khó tìm được một công trình riêng về quản lý giáo dục đạo đức.
Thường các chuyên gia nghiên cứu về giáo dục đạo đức đặt vấn đề giáo dục đạo
đức như một mặt của giáo dục toàn diện.
Điển hình nhất là tập thể tác giả của công trình nghiên cứu về con người thời
kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá của hội đồng lý luận Trung ương do GSVS Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm. Chương trình mang mã số KHXH – 04 – 04 , kết quả
nghiên cứu tập thể tác giả đề xuất “Những giải pháp giáo dục đạo đức cho con
người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hoá”, tập thể tác giả xác định 06
nhóm giải pháp:
1. Tiếp tục đổi mới nội dung hình thức giáo dục đạo đức trong các trường
học
2. Củng cố, tăng cường giáo dục ở gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ
với giáo dục nhà trường trong việc giáo dục đạo đức cho mọi người (không chỉ thế
hệ trẻ).
3. Kết hợp chặt chẽ việc giáo dục đạo đức với việc thực hiện nghiêm minh
pháp luật của các cơ quan thi hành pháp luật.
4. Tổ chức thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn
luyện đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho các cán bộ, đảng viên, cho thầy
trò trong các trường học.
5. Xây dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về giáo

dục đạo đức.
19
Trong nhóm giải pháp thứ năm, tập thể đề nghị hình thành một tổ chức từ
Trung ương xuống cộng đồng, địa phương có sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và
chính quyền, xây dựng những quy định có tính pháp lý; xây dựng mục tiêu, kế
hoạch hoạt động chung cho toàn xã hội; đề xuất các phong trào thi đua cho các tổ
chức xã hội, các lĩnh vực hoạt động xã hội; xác định quy trình hoạt động giáo dục
đạo đức trong đó có kiểm tra đánh giá, khen thưởng, trách phạt…
6. Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi người.
Theo quan điểm của tập thể cán bộ nghiên cứu của chương trình nói trên,
chúng ta thấy việc quản lý giáo dục đạo đức được hiểu là những biện pháp đan xen
trong quá trình giáo dục đạo đức, nổi bật nhất là giải pháp thứ năm . [22, tr. 171].
Qua kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức
và quản lý giáo dục đạo đức, tác giả có thể rút ra định nghĩa quản lý giáo dục đạo
đức như sau:
Quản lý giáo dục đạo đức là một hoạt động nhằm xây dựng một cơ cấu
tổ chức và xác định một cơ chế chỉ đạo phối hợp hoạt động của tất cả các lực
lƣợng trong và ngoài ngành giáo dục (trong và ngoài trường) nhằm thống nhất
nhận thức, phát huy và sử dụng hợp lý mọi tiềm năng của xã hội (bao gồm tiềm
năng về người, ngân sách, cơ sở vật chất, các giá trị di sản văn hoá và tinh thần…);
xây dựng các loại hình hoạt động phù hợp với điều kiện cụ thể để thực hiện
mục tiêu giáo dục đạo đức (phát triển nhân cách) đối với các đối tƣợng xã hội
khác nhau (phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với ngành nghề và vị thế xã hội).
1.3. Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách của học sinh
Trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay
Nhân cách: Bách khoa toàn thư của Việt Nam định nghĩa:“Nhân cách là bộ
mặt tâm lý, tổ chức thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội
của cá nhân với tư cách chủ thể của hoạt động giao tiếp”. [2, tr. 17].
GS-VS Phạm Minh Hạc quan niệm:“Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc
tính riêng, trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới

đồ vật do con người sáng tạo ra với xã hội và với bản thân”. [2, tr.17].

×