Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Công tác quản lý nhà nước về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.61 KB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

.........../...........

.........../...........

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG QUANG TRUNG

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TUYÊN TRUYỀN PHỔ BIẾN GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI THANH THIẾU NIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số

: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

THỪA THIÊN HUẾ - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Cao học Hành chính công “Công tác quản


lý nhà nước về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh
thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế” là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi.
Các số liệu và thông tin được sử dụng trong Luận văn có xuất xứ rõ ràng
và kết quả nghiên cứu là do quá trình lao động trung thực của bản thân tôi.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và lãnh đạo Học
viện Hành chính về Luận văn cao học này.
Học viên

Trương Quang Trung


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới TS. Trần Thị Diệu Oanh, Học viện Hành chính đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn
Cao học Hành chính công: “Công tác quản lý nhà nước về tuyên truyền phổ
biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế”
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy giáo, cô giáo của Học
viện Hành chính đã tận tình, chu đáo trong quá trình tham gia giảng dạy và
truyền đạt kiến thức cho tác giả. Xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến
toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của Học viện Hành chính và Phân
viện Học viện Hành chính khu vực Miền Trung đã tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho tác giả trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương
trình cao học cũng như hoàn thành Luận văn này.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo UBND Thành phố
Huế, Phòng Nội vụ Thành phố Huế, cán bộ, công chức, nhân dân phường
trong địa bàn Thành phố Huế mà tác giả đã đến khảo sát, lấy số liệu phục vụ
cho việc hoàn thành Luận văn này.
Kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy giáo, cô giáo, đồng

nghiệp và các học viên cao học - Học viện Hành chính và quý bạn đọc để
Luận văn được hoàn thiện và hữu ích hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên

Trương Quang Trung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu
Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi
thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững..........................................................31


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐTS

: Chiếm đoạt tài sản

GTĐB

: Giao thông đường bộ

HĐND


: Hội đồng nhân dân

LHTNVN

: Liên hiệp Thanh niên Việt Nam

PBGDPL

: Phổ biến giáo dục pháp luật

QLNN

: Quản lý nhà nước

THCV

: Thi hành công vụ

TP

: Tội phạm

TS

: Tài sản

TTTP

: Thanh tra thành phố


TTĐT-ATGT

: Trật tự đô thị – An toàn giao thông

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN

: Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG
Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi
thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững..........................................................31


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong bất cứ thời kỳ nào, thanh niên luôn có vai trò đặc biệt quan trọng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh số đông thanh thiếu
niên sống có lý tưởng, có ước mơ, hoài bão tốt đẹp, ít nhất là cho bản thân họ,
sau nữa là bổn phận với gia đình, xã hội, thì cũng có một bộ phận lớp trẻ đua
đòi, thiếu bản lĩnh, ham hưởng thụ, trở thành nỗi bức xúc của xã hội. Trong
âm mưu thâm độc “Diễn biến hòa bình” của bọn phản động, thanh thiếu niên
còn là đối tượng để các thế lực thù địch với nhân dân ta lôi kéo, kích động các

hành động gây rối loạn xã hội…làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh
chính trị trên địa bàn, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Mặt khác, tác động của của cơ chế thị trường đã làm một bộ phận TTN
có lối sống thực dụng, buông thả, ngại tham gia các hoạt động xã hội, có biểu
hiện thiếu niềm tin, tự ti, bản lĩnh chính trị non kém, dao động về lập trường,
dễ bị kích động, lôi kéo…Đặc biệt, những thông tin phản động và phản văn
hóa trên Internet ngày càng nhiều đã có những tác động tiêu cực đến tâm
trạng, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên, dẫn đến
thanh thiếu niên tham gia vào các tệ nạn xã hội, thanh thiếu niên vi phạm
pháp luật gia tăng. Một vấn đề nổi lên trong thời gian qua khiến nhiều người
rất quan tâm, đó là tình trạng vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên gia
tăng. Theo thống kê chưa đầy đủ, có trên 60% người phạm tội trong độ tuổi từ
15-30. Cá biệt có một số vụ án nghiêm trọng mà người phạm tội dưới 15 tuổi.
Nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật trong thanh, thiếu niên
trước hết là do thiếu hiểu biết về pháp luật; do vốn sống và hiểu biết xã hội
của thanh, thiếu niên còn hạn chế; khả năng tiếp nhận thông tin nhanh nhưng
ít chọn lọc và dễ bị lôi kéo, lợi dụng. Mặt khác, tình trạng thanh niên khó
khăn trong cuộc sống, thất nghiệp, chưa có việc làm, lao động nhàn rỗi thành
phố kiếm sống, quá trình đô thị hóa phát triển nhanh nhưng không đồng bộ ở


2

nhiều nơi; quá trình hội nhập, giao lưu kinh tế - văn hóa - xã hội không
ngừng được tăng cường nhưng chưa có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt đã có
tác động xấu đến lối sống của một bộ phận thanh, thiếu niên trong việc chấp
hành pháp luật... Tất cả những vấn đề đó đang trở nên bức xúc, đòi hỏi sự
quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành, toàn xã hội và mỗi gia đình
trong nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên.
Trong những năm qua, cùng với cả nước và các địa phương trong tỉnh

Thừa Thiên Huế, Đảng bộ và chính quyền thành phố Huế đã huy động toàn
bộ sức mạnh hệ thống chính trị vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật
của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, các đề án của Thủ tướng về tuyên
truyền giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên. Qua quá trình triển khai đảm
bảo, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định; các cơ quan chuyên môn,
các phòng, ban và các đoàn thể chính trị - xã hội đã tích cực, chủ động triển
khai một cách đồng bộ từ thành phố đến cơ sở từ đó đã góp phần giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho thanh thiếu niên. Trong đó, đáng chú ý là việc
triển khai thực hiện đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015.
Ðây là đề án quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 2160/QÐ-TTg phê duyệt vào ngày 26/11/2010.
Vụ trưởng Phổ biến, Giáo dục pháp luật (Bộ Tư pháp) Nguyễn Duy
Lãm cho biết: “Ðề án phấn đấu 80% số thanh, thiếu niên tự do, sinh sống,
lao động tại địa bàn cư trú được tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật
trong các lĩnh vực liên quan đến quyền, nghĩa vụ và đời sống, công việc của
từng đối tượng, từng địa bàn; 100% số thanh, thiếu niên trong trường học
được phổ biến chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp
đến đời sống, công việc, học tập phù hợp với lứa tuổi của các em; 80% số
thanh, thiếu niên vi phạm pháp luật được tuyên truyền, phổ biến chính sách,
pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, hạn chế tái vi phạm pháp luật


3

và tạo điều kiện hòa nhập tốt với cộng đồng..” Ðây là những con số, mục tiêu
mà nếu đạt được một cách thực chất thì tình hình vi phạm pháp luật trong thanh,
thiếu niên sẽ được cải thiện rõ nét.
Tuy nhiên, để có thể đạt được những kết quả như mong muốn, công tác
giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho thanh, thiếu niên cần nhận

được sự quan tâm, đầu tư và tham gia tích cực, chủ động của toàn xã hội. Các
hoạt động liên quan công tác này cần được triển khai thực chất, có kế hoạch
riêng và thước đo sự thành công phải được thể hiện bằng ý thức chấp hành
pháp luật của thanh, thiếu niên trong thực tế cuộc sống...
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài luận văn “Công tác quản lý nhà
nước về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên
trên địa bàn thành phố Huế”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Công tác quản lý nhà nước về tuyên truyền phổ biến giáo dục là một
vấn đề mang tính cấp thiết của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là
vấn đề có rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu đã
được công bố như:
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ (2014), Giáo dục nếp sống văn hóa cho học
sinh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. Nội dung cuốn sách là
những phân tích cơ bản xung quanh vấn đề giáo dục nếp sống văn hóa cho
học sinh và trích một số quy định về pháp luật liên quan đến lứa tuổi học sinh
trong Bộ luật Hình sự, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ
em. Từ đó cuốn sách đưa ra những biện pháp tốt cho các nhà quản lý, các thầy
cô giáo, các bậc cha mẹ học sinh, đặc biệt là các em học sinh trong việc giáo
dục, rèn luyện lối sống văn hóa, để các em ngày càng trưởng thành và hoàn
thiện hơn về cả tri thức và nhân cách lối sống.
Đề tài cấp bộ do TS. Lương Khắc Hiếu làm chủ nhiệm (2006), Tư
tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về một số suy nghĩ về công tác tuyên truyền


4

hiện nay”. Đề tài đã nêu được một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác tuyên tuyền, làm rõ hơn phong cách sử dụng ngôn ngữ văn bản trong
khi nói, viết của Hồ Chí Minh và nêu ra một số giải pháp nhằm đổi mới công

tác tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay.
Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Mai (1996), Công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng và giải pháp. Tác giả đã đi sâu
phân tích công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta; đặc biệt là trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật giữ vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội đây là khâu đầu tiên rất quan trọng trong hoạt động thực thi pháp
luật, là cầu nối giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật. Tác
giả đã đưa ra những mặt hạn chế trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
đặc biệt là trong việc xác định và phân công trách nhiệm của các bộ, ngành,
địa phương, chưa có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan,
ban ngành trong việc phổ biến, tuyên truyền các đạo luật hoặc văn bản pháp
luật cụ thể dẫn đến cơ chế phối hợp và chịu trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức trong công tác này còn nhiều bất cập, đôi khi có sự chồng chéo hoặc
ngược lại tồn tại những “khoảng trống” trong công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật mà chưa có biện pháp hiệu quả để khắc phục. Từ đó, tác giả đã đưa
ra một số giải pháp nhằm làm tốt công tác giáo dục pháp luật ở nước ta.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Ba đã nghiên cứu “Nâng cao
chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công nhân tại các doanh
nghiệp ở Tỉnh Đồng Tháp giai đoạn hiện nay (2012)”. Tác giả đã đánh giá
thực trạng về chất lượng tuyên tuyền pháp luật cho công nhân tại các doanh
nghiệp ở Tỉnh Đồng Tháp; phân tích nguyên nhân của những ưu điểm, nhược
điểm và nhận thức những yêu cầu đặt ra trong các vấn đề nêu trên, đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
công nhân tại các doanh nghiệp cho phù hợp với quy định của pháp luật hiện


5

nay ở nước ta.

Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng đã nghiên cứu “Một số vấn đề về
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay (1997)”. Tác giả đã tiếp cận, tìm
hiểu công tác giáo dục pháp luật, từ đó thấy được những khó khăn, thách thức
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, từ đó nghiên cứu, phân tích đề
xuất một số giải pháp giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức của nhân
dân trong việc thi hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp của Mai Bá Hoàng “Xử lý vi phạm hành chính về
trật tự an toàn giao thông đường bộ đối với người chưa thành niên trên địa
bàn Thành phố Huế”. Tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xử
lý vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ đối với người
chưa thành niên , từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đề xuất giải pháp về xử
lý vi phạm hành chính trên lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ đối
với người chưa thành niên.
Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Ngọc Hà “Tìm hiểu pháp luật về huy
động vốn trong công ty cổ phần”. Nội dung đề tài đã vận dụng và tìm hiểu
những quy định pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, từ đó phân tích và đánh giá một số quy định của
pháp luật về huy động vốn đáp ứng tối đa nhu cầu và lợi ích của các chủ thể
tham gia quan hệ.
Những công trình khoa học trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về
cơ sở lý luận, kiến thức, kinh nghiệm đối với công tác quản lý nhà nước trên
nhiều góc độ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về công tác quản lý nhà nước về tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành
phố Huế. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề này
trên địa bàn Thành phố Huế.


6


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên, đề tài đánh giá thực trạng
công tác quản lý nhà nước đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế để từ đó có cơ sở
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên
địa bàn thành phố Huế
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
+ Phân tích cơ sở lý luận về QLNN đối với công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên cơ sở hệ thống hóa quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định
của Nhà nước ta.
+ Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên của thành phố Huế trong
những năm gần đây qua đó rút ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra
những nguyên nhân hạn chế đó
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu
niên của thành phố Huế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước đối với công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn
thành phố Huế.


7


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Công tác quản lý nhà nước về tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế.
Công tác quản lý nhà nước về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
đối với thanh thiếu niên được tiếp cận từ nhiều góc độ với nhiều nội dung
khác nhau, đề tài này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hai vấn đề:
+ Thực trạng quản lý nhà nước về phổ biến giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên tại thành phố Huế.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý nhà nước về phổ biến giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên thành phố Huế.
- Về khách thể nghiên cứu: Đề tài đi sâu vào nghiên cứu đối tượng là
thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành
phố Huế.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn
thành phố Huế giai đoạn từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
về công tác thanh thiếu niên; những quy định pháp luật về quản lý nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu để làm sáng
tỏ, trong đó tập trung một số phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo cứu tài liệu: Tài liệu được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu các tài liệu đã được giới thiệu tại Phần mở đầu, tình hình nghiên



8

cứu liên quan đến đề tài (mục 2, phần mở đầu) và được tác giả sử dụng để
thực hiện Chương 1 của luận văn. Phương pháp này cung cấp cơ sở lý luận,
những luận cứ cho việc đánh giá công tác quản lý nhà nước về tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên và cơ sở đề ra giải pháp
cho việc quản lý nhà nước về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đối
với thanh thiếu niên trên địa bàn Thành phố Huế.
+ Phương pháp chuyên gia: Tác giả đã trao đổi với đồng chí Phó chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế và đồng chí Trưởng phòng Tư pháp
thành phố Huế về công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn Thành
phố Huế.
+ Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Thông qua lĩnh vực công tác trực
tiếp của mình, tác giả đã trực tiếp trao đổi với các đồng chí Bí thư Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp cơ sở về nội dung, những thuận lợi và khó
khăn trong việc tổ chức phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên.
+ Phương pháp kiểm tra, khảo sát: Thông qua chương trình công tác
hàng năm, tác giả đã xây dựng chương trình công tác để định kỳ cuối năm
tiến hành kiểm tra, khảo sát để đánh giá việc tổ chức triển khai phổ biến giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần vào hệ thống hoá cơ sở lý luận về QLNN đối với công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên trên địa bàn
thành phố Huế; hệ thống hoá và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên; làm rõ
những đặc điểm của thanh thiếu niên và điều kiện khách quan của việc tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên trên địa bàn thành
phố Huế trong thời kỳ mới.
- Qua phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng, rút ra những mặt mạnh;
những hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Từ đó, làm tiền đề để tuyên



9

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên trong những năm
tiếp theo.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu
liên quan sau này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, thì đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về phổ biến giáo dục
pháp luật.
Chương 2: Thực trạng về công tác quản lý nhà nước về phổ biến giáo dục
pháp luật cho thanh niên trên địa bàn thành phố Huế.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước
về pháp luật đối với thanh niên trên địa bàn thành phố Huế.


10

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật.
1.1.1 Quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1.1. Khái niệm, mục đích, yêu cầu và nguyên tắc về phổ
biến, giáo dục pháp luật.
a. Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật.
Theo cách hiểu chung nhất về phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:

- Theo nghĩa hẹp: Phổ biến, giáo dục pháp luật là giới thiệu tinh thần
văn bản pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó phổ biến, giáo dục pháp luật
là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm,
niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Theo nghĩa rộng: Phổ biến, giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ
định thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục
đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù
hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức,
phương tiện, phương pháp đặc thù.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động thường xuyên, liên
tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối để chuyển tải
pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước, phổ biến, giáo dục
pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một công việc trọng
tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành. (TL
PBGD PL 2012).


11

b. Mục đích của việc phổ biến, giáo dục pháp luật.
Một là, nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng. Pháp luật của Nhà
nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm
hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng bản chất pháp
luật của Nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong
muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Những quy định pháp
luật đó dù tốt đẹp bao nhiêu chăng nữa mà không được nhân dân biết đến thì
vẫn là lý thuyết.
Pháp luật của Nhà nước có thể được một số người tìm hiểu, quan tâm

và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất
kinh doanh của họ. Những người này luôn theo sát những quy định pháp luật
mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số
lượng đối tượng này không phải là nhiều. Trong điều kiện trình độ dân trí còn
chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn cho nên
các đối tượng nằm trong sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật, nghĩa là số
đông nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những
thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người
dân, giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất
quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là
phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân.
Hai là, hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng.
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin
tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo
vệ cho quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng,
đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Khi nào người dân nhận thức đầy đủ
được như vậy thì pháp luật không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi
người vẫn tự giác thực hiện. Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và


12

cả cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong các yếu tố đóng
vai trò quan trọng là phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu biết về
pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, tuyên truyền
về những mặt thuận lợi và khó khăn phức tạp của việc thực hiện và áp dụng
pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội bao giờ cũng có
hai mặt, không phải lúc nào nó cũng thoả mãn hết, phản ánh được đầy đủ

nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình điều
chỉnh pháp luật sẽ lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí,
thước đo, do đó sẽ có một số ít không thoả mãn được. Chính các yếu tố hạn
chế và mặt trái của các quy định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình
ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông
đảo nhân dân trong xã hội.
Ba là, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng.
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó là tri
thức pháp luật và tình cảm pháp luật.
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua
việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến thức của hoạt
động thực tiễn và công tác.
Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực
hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực
hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng
cao khi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân được tiến hành
thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục. Phổ biến, giáo dục pháp luật
không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà
còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực


13

hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ với hành
vi hợp pháp, lên án các hành vi phi pháp.
Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp
của con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của
con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời

sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
c. Yêu cầu đối với việc phổ biến giáo dục pháp luật.
Một là, đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
Pháp luật và đường lối chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự thể chế hoá đường lối chính sách của
Đảng, đường lối chính sách của Đảng là "linh hồn" của pháp luật. Do đó, phổ
biến, giáo dục pháp luật cũng chính là việc phổ biến, giáo dục đường lối,
chính sách của Đảng.
Thực hiện không đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật đều làm tổn hại
tới Nhà nước và xã hội, tổn hại tới vai trò lãnh đạo của Đảng. Pháp luật được
thực hiện nghiêm minh, chính xác và đầy đủ thì uy tín lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội được khẳng định. Do đó, công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật bao giờ cũng phải đề cao tính Đảng.
Phổ biến, giáo dục pháp luật có thể là phổ biến các văn bản quy phạm
pháp luật, có thể tuyên truyền về việc thực hiện và áp dụng pháp luật, phổ
biến từ cái chung đến cái cụ thể đều phải đề cao đến tính Đảng. Sự lơ là, coi
thường và không quán triệt đầy đủ tính Đảng sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí,
phiến diện. Bởi vì đường lối chính sách của Đảng bao giờ cũng phản ánh quy
luật khách quan của quá trình vận động xã hội, nêu lên những yêu cầu, đòi hỏi
và đường lối phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Pháp luật cụ thể hoá đường lối
đó, nhưng không phải là cụ thể hoá tất cả, chi tiết hoá đầy đủ thành các quy
định để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặt khác, các quan hệ xã hội luôn biến
đổi vận động, do đó việc thực hiện và áp dụng pháp luật và việc tuyên truyền


14

phổ biến, giáo dục pháp luật phải lấy đường lối chính sách của Đảng là kim
chỉ nam cho các hoạt động đó.
Muốn đề cao tính Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì

phải hiểu biết, quán triệt đầy đủ đường lối chính sách của Đảng đối với từng
thời kỳ, từng vấn đề và đường lối chung xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đường lối chính sách của Đảng cũng như pháp luật là những hiện tượng
thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, phản ánh cơ sở kinh tế, do đó nó cũng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và có quá trình vận động như các hiện
tượng khác. Chính vì thế, phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền đường
lối chính sách của Đảng phải luôn bắt nhịp được với những thay đổi trong đời
sống chính trị - pháp luật của đất nước.
Hai là, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành
văn bản.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không giống với việc tuyên truyền phổ
biến về văn hoá văn nghệ. Khi tuyên truyền, phổ biến về văn hoá văn nghệ,
người ta có thể nhân cách hoá, hư cấu thành những hình tượng nghệ thuật để
phục vụ cho mục đích của họ.
Phổ biến, giáo dục pháp luật khác với các loại hình phổ biến giáo dục
khác ở chổ nội dung được phổ biến, giáo dục là pháp luật, là những quy tắc
xử sự được Nhà nước ban hành, có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ tới nội dung
và yêu cầu của các quy định đó. Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật phải tuân
thủ các nguyên tắc nhất định, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền
đạt trung thành văn bản.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ thông tin cho người nghe về
pháp luật, truyền đạt cho họ biết được các văn bản pháp luật và những điều
luật mới được ban hành mà còn phải giải thích về các văn bản pháp luật và
các điều luật đó. Một trong những yêu cầu đã trở thành nguyên tắc trong giải
thích pháp luật là phải bảo đảm tính khoa học. Tính khoa học trong giải thích


15

pháp luật trước hết đòi hỏi có trình độ pháp lý, chẳng hạn hiểu rõ thành phần
của quy phạm pháp luật để hiểu được quy phạm, hiểu nội dung quan hệ pháp

luật để phân biệt rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, từ đó nêu lên được ý
nghĩa của quy phạm trong việc điều chỉnh những quan hệ xã hội. Tính khoa
học trong giải thích pháp luật còn được thể hiện khi giải thích một văn bản
pháp luật hay một điều luật không chỉ đơn thuần giải thích về văn bản hay
điều luật đó, mà cần phải đặt một văn bản hay điều luật đó trong bối cảnh ban
hành pháp luật, những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội quy định nội dung,
hình thức pháp luật trong tổng thể của một hệ thống pháp luật hay của một
ngành luật, thấy được mối liên hệ giữa các văn bản pháp luật và các điều luật
với nhau. Phổ biến, giáo dục pháp luật bảo đảm tính lôgíc, tính chặt chẽ của
các văn bản pháp luật và các điều luật.
Ba là, bảo đảm tính đại chúng: phù hợp với đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ,
dễ áp dụng.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không những phải xuất phát từ đối tượng
được phổ biến, họ đang thiếu và cần cái gì mà còn phải phù hợp với trình độ
văn hoá, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, dân tộc... và sử dụng ngôn ngữ đại
chúng, hành văn giản dị, ngắn gọn.
Bốn là, chọn được hình thức phù hợp.
Có nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác nhau, mỗi hình
thức có sự phù hợp với một hoặc một số đối tượng nhất định, do đó khi phổ
biến, giáo dục pháp luật phải xuất phát từ đối tượng được phổ biến, giáo dục
pháp luật để chọn hình thức tối ưu.
Ngoài ra, hình thức giáo dục pháp luật còn phải phù hợp với từng địa
bàn, điều kiện kinh tế xã hội nhất định, do đó khi phổ biến, giáo dục pháp luật
cũng phải xuất phát từ địa bàn, điều kiện kinh tế của nơi tiến hành phổ biến,
giáo dục pháp luật.


16

Bảo đảm tính liên tục, tính hệ thống trong việc phổ biến, giáo dục pháp

luật. Bảo đảm tính hệ thống tức là đặt văn bản vào vị trí của nó trong hệ thống
pháp luật, trong ngành luật hoặc lĩnh vực pháp luật có liên quan tới văn bản.
Điều đó giúp cho đối tượng hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Bảo đảm tính liên tục nghĩa
là theo phương châm: mưa dầm thấm lâu; việc phổ biến, giáo dục pháp luật phải
được tiến hành liên tục, có hệ thống, tránh hình thức, làm theo phong trào.
Gắn việc phổ biến, giáo dục pháp luật với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị trong địa bàn. Điều đó, một mặt phát huy tác dụng của phổ biến, giáo
dục pháp luật, mặt khác làm tăng hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tóm lại, trong rất nhiều hình thức như vậy khi tiến hành phổ biến, giáo
dục pháp luật cần chọn một hình thức phù hợp cho đối tượng được phổ biến
hoặc kết hợp đan xen các loại hình thức.
d. Yêu cầu đối với người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Một là, có kiến thức pháp lý nhất định: bởi vì hoạt động tuyên truyền
giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu
nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống, quá trình đưa pháp luật vào
cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, bởi vì
thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào tuân theo pháp luật, thi hành
(chấp hành) pháp luật, sử dụng (vận dụng) pháp luật hay áp dụng pháp luật
trước hết đều phải có hiểu biết pháp luật. Nếu không nhận thức đầy đủ vị
trí quan trọng và không thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật thì dù
công tác giáo dục pháp luật tốt đến mấy cũng không đạt hiệu quả thực thi
pháp luật.
Hai là, có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang tính chất xã hội,
đối tượng phục vụ của phổ biến, giáo dục pháp luật là quản đại quần chúng
nhân dân, do đó một trong các yêu cầu đầu tiên và hết sức quan trọng của


17


người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là có tinh thần nhiệt tình, tận
tuỵ với công tác.
Tinh thần nhiệt tình trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được thể
hiện là không quản ngại khó khăn, gian khổ, luôn phấn khởi, hăng say trong
công tác, lấy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật làm niềm vui, là niềm say
mê; nó không đơn thuần là trách nhiệm được giao phó mà việc phổ biến, giáo
dục pháp luật được cho nhiều người, nhiều đối tượng với chất lượng và hiệu
quả là niềm vui của người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn cần phải tận tuỵ
với công việc, luôn phấn khởi phục vụ cho mọi đối tượng, không quản ngại
đối với những vấn đề mới, văn bản pháp luật mới; bản thân luôn phải cố gắng
học tập, phấn đấu vươn lên; tích luỹ kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội,
kiến thức chuyên ngành, tài liệu, số liệu, dẫn chứng, minh hoạ để hoàn thành
công việc được giao.
Ba là, có khả năng nói và viết.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là truyền đạt thông tin pháp luật và giải
thích pháp luật cho người khác, chính vì thế ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành công của người làm công tác phổ
biến giáo dục pháp luật.
Sự kết hợp giữa khả năng nói và viết trong người làm công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác.
Bốn là, có khả năng hoà đồng và giao tiếp.
Làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là làm công tác vận động
quần chúng, nó không thuần tuý là đi thông tin và giải thích pháp luật cho các
đối tượng được tuyên truyền.
Trước khi thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, người làm
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải biết đối tượng được phổ biến,



18

giáo dục pháp luật là ai, họ cần gì, công việc của họ ra sao, họ đang cần lĩnh
vực pháp luật nào và mình phải quan hệ công tác với họ như thế nào?
Phổ biến, giáo dục pháp luật là một hoạt động mang tính chất hai chiều,
không đơn thuần là sự truyền đạt thông tin và giải thích pháp luật của người
làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có mà sự phản hồi của đối tượng
được tuyên truyền.
Họ có lắng nghe thông tin về pháp luật không ? Đồng thời, họ có thể
đặt câu hỏi hay thể hiện chính kiến về việc giải thích pháp luật đúng hay
không đúng của người đi giải thích không ? Sự cọ sát hai chiều về cùng vấn
đề được trao đổi sẽ làm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đạt chất
lượng và hiệu quả cao.
Chính các yếu tố được nêu và phân tích trên đòi hỏi người làm công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật phải có khả năng hòa đồng và giao tiếp.
Năm là, biết tích luỹ tư liệu, kiến thức.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật vừa mang tính thời sự vừa
mang tính lâu dài. Chỉ có thể tham gia vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật khi có đủ kiến thức, trình độ, kinh nghiệm về công tác pháp luật. Để đạt
được các điều kiện đó thì người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần
phải tích luỹ tư liệu, kiến thức; bao gồm kiến thức pháp lý, pháp luật hiện
hành, đường lối chính sách của Đảng, kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã
hội, kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài.
Sáu là, có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền.
Hiểu được tâm lý học tuyên truyền chính là hiểu được các quy luật tâm
lý phát sinh, vận động trong quá trình tiếp nhận thông tin pháp luật của các
loại đối tượng được thể hiện trong tất cả các giai đoạn tiến hành phổ biến,
giáo dục pháp luật đối với các đối tượng. Trong quá trình phổ biến, giáo dục
pháp luật còn phải nắm bắt sự phản ứng, sự tiếp nhận của họ như thế nào về
nội dung được tuyên truyền.



19

Sau khi tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho một loại đối tượng,
chủ thể tuyên truyền còn phải biết nghe dư luận xã hội và sự phản ứng tích cực,
tiêu cực của các đối tượng được tuyên truyền về nội dung được phổ biến.
Tất cả những động thái như vậy, người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật đều cần phải nắm bắt để dự liệu, để chuẩn bị hành trang cho mình.
Sự chuẩn bị về kiến 'thức cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cần
thiết, đồng thời người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật còn phải hiểu
biết trạng thái tâm lý khác nhau của các đối tượng được tuyên truyền, đó
chính là tâm lý học tuyên truyền mà người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cần phải có.
Bảy là, tuỳ từng vị trí công tác, địa bàn hoạt động, cần phải có những hiểu
biết về xã hội, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền nhất định.
Pháp luật luôn gắn với đời sống xã hội, nó quan hệ mật thiết tới các
hiện tượng khác của xã hội như đạo đức, phong tục tập quán của mỗi dân tộc,
mỗi vùng miền.
Pháp luật thực chất là các quy tắc xử sự trong các quan hệ xã hội được
Nhà nước thừa nhận, do đó nó có mối liên hệ với các phong tục, tập quán
khác. Chính vì thế khi làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở từng vùng
miền, ở mỗi dân tộc của đất nước, người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cũng cần phải biết được phong tục tập quán của dân tộc đó và miền
vùng đó, để so sánh, để giải thích, để phân biệt.
Những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng sẽ
được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật để mọi người tôn trọng thực hiện,
mặt khác nhiều quy định của luật pháp khi ban hành đã bao hàm những phong
tục, tập quán tốt đẹp.
Ngược lại, những phong tục, tập quán còn lạc hậu, bảo thủ thì khi tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng cần phải lưu ý kết hợp giải thích có
ngọn ngành cho nhân dân để họ vừa tôn trọng pháp luật, vừa hiểu biết thêm


×