Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

QUẢN lý NHÀ TRƯỜNG THỰC HIỆN xã hội hóa GIÁO dục của HIỆU TRƯỜNG các TRƯỜNG mầm NON TRÊN địa bàn THÀNH PHỐ bắc GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.8 KB, 100 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
----------------

NGUYN TH DUYấN

Quản lý nhà trờng thực hiện xã hội hóa giáo dục
của Hiệu trờng các trờng mầm non
trên địa bàn thành phố Bắc Giang

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC
H NI - 2016

1


B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
----------------

NGUYN TH DUYấN

Quản lý nhà trờng thực hiện xã hội hóa giáo dục
của Hiệu trờng các trờng mầm non
trên địa bàn thành phố Bắc Giang
Chuyờn ngnh : Qun lý giỏo dc
Mó s

: 60.14.01.14

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC



Ngi hng dn khoa hc: TS. Nguyn Th Thu Hng

2


HÀ NỘI - 2016

LỜI CẢM ƠN
Với tất cả sự thành kính và tình cảm chân thành của người học trò, tác
giả xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
trường Đại học sư phạm Hà Nội. Đặc biệt, tác giả xin trân trọng cảm ơn sự
quan tâm chỉ dạy, sự giúp đỡ tận tình, thân thiện của TS.Nguyễn Thị Thu
Hằng, người thầy đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu chưa nhiều, mặc dù bản thân đã có nhiều cố
gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót trong nội dung trình bày luận
văn. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn và góp ý chân thành của các thầy
giáo cô giáo trong hội đồng khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà Nội, tháng 06năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Duyên

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


NXB

: Nhà xuất bản

XHHGDMN : Xã hội hóa giáo dục mầm non

4

XHHGD

: Xã hội hóa giáo dục

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

5


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. Danh mục bảng

6


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Mục tiêu giáo dục nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp nhằm hình
thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ, có đạo đức, lý tưởng, có kiến
thức - tư duy và trí tuệ, là người làm chủ tương lai. Muốn đạt được mục tiêu
trên thì phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. Giáo dục mầm
non có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trẻ em hôm nay sẽ
là chủ nhân đất nước ngày mai, vì thế cần phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo
dục trẻ em tuổi mầm non và trách nhiệm này thuộc về toàn xã hội.
Chiến lược giáo dục, chiến lược con người là bộ phận quan trọng của
chiến lược kinh tế - xã hội. Thời đại mới đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với
giáo dục. Giáo dục đang đứng trước những thời cơ phát triển cực kỳ thuận lợi,
nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Chức năng chủ yếu của
giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ, Phát triển giáo dục
không chỉ quan tâm đến qui mô, tốc độ, số lượng mà đặc trưng chủ yếu là tổ
chức các quá trình giáo dục thông qua việc tổ chức hoạt động dạy và học dưới
nhiều hình thức tổ chức nhằm đạt được chất lượng tốt nhất chuẩn bị cho thế
hệ trẻ đi vào cuộc sống xã hội. Nhất là đối với giáo dục mầm non mà đặc
trưng của nó là mang tính giáo dục gia đình và tính tự nguyện cao. Trẻ em
hôm nay sẽ là chủ nhân đất nước những thập niên đầu thế kỷ XXI, vì thế cần
phải bắt đầu từ việc chăm sóc, giáo dục trẻ em tuổi mầm non và trách nhiệm
này không chỉ thuộc về các nhà trường mầm non, mà còn là trách nhiệm của
gia đình và của toàn xã hội để thực hiện được việc đặt nền móng cho sự hình
thành và phát triển nhân cách trẻ thơ.
Luật giáo dục sửa đổi năm 2005 đã khẳng định “công tác quản lý chỉ
đạo, phát triển giáo dục mầm non cần phải gắn với công tác vận động xã hội
7


mới đem lại hiệu quả cao. Phát triển giáo dục luôn đi liền với xã hội hóa giáo
dục”. Đối với giáo dục mầm non, xã hội hóa để phát triển luôn là quy luật tồn

tại và phát triển. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xã
hội hóa giáo dục mầm non là một trong những nhân tố hàng đầu để thực hiện
phát triển giáo dục mầm non có chất lượng, phục vụ cho mục tiêu hình thành
nhân cách trẻ em, tạo điều kiện thực hiện phổ cập giáo dục ở các bậc học khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của xã hội hóa giáo dục và xã hội hóa
giáo dục mầm non, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản chỉ đạo
thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục. Thực tiễn về giáo dục mầm non và
quản lý giáo dục mầm non ở thành phố Bắc Giang đã đạt những kết quả nhất
định, trong đó công tác quản lý thực hiện xã hội hóa giáo dục có chuyển biến
tích cực. Tuy nhiên giáo dục mầm non tại các trường mầm non trên địa bàn
thành phố Bắc Giang còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Việc thực hiện các chủ
trương, chính sách xã hội hóa giáo dục còn chung chung, chưa khuyến khích,
huy động các lực lượng trong xã hội tham gia phát triển giáo dục mầm non.
Để tiếp tục thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ
giáo dục và đào tạo về công tác xã hội hóa giáo dục mầm non, tôi xin chọn đề
tài: “Quản lý nhà trường thực hiện xã hội hóa giáo dục của Hiệu trường
các trường mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Giang”, góp phần thực
hiện mục tiêu phát triển giáo dục mầm non.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý và thực trạng quản lý, đề tài
đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục cho Hiệu trưởng các trường mầm
non tham gia vào xã hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố Bắc Giang.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động quản lý của Hiệu trưởng các
trường mầm non.
8


3.2. Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp quản lý trường mầm non
tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố Bắc Giang.

4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Công tác xã hội hóa giáo dục tại các trường mầm non trên địa bàn
thành phố Bắc Giang đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên
trước yêu cầu đổi mới giáo dục thì vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác quản
lý. Nếu thực hiện một cách phù hợp và đồng bộ một số biện pháp quản lý
công tác xã hội hóa giáo dục mầm non mà đề tài đề xuất thì sẽ nâng cao hiệu
quả công tác xã hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Giang.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác xã hội hóa giáo dục
mầm non.
5.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý trường mầm non tham gia
vào công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố Bắc Giang.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm thực hiện hiệu quả công
tác xã hội hóa giáo dục mầm non.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong điều kiện thời gian và khả năng, đề tài tập trung nghiên cứu thực
trạng quản lý trường mầm tham gia vào công tác xã hội hóa giáo dục của Hiệu
trưởng các trường mầm non công lập trên địa bàn thành phố Bắc Giang. Đi sâu
vào các lĩnh vực: Nhận thức về xã hội hóa giáo dục mầm non; sự phối hợp với
chính quyền địa phương và cộng đồng trách nhiệm; cơ chế chính sách để phát
triển giáo dục tại các trường mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Giang.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện nhiệm vụ đề tài, tôi xin tiến hành ba nhóm phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Dựa vào các văn bản pháp quy, các công trình nghiên cứu khoa học,
các tài liệu lý luận về công tác xã hội hóa giáo dục để phân tích, tổng hợp khái
9


quát, xác định cơ sở lý luận của việc phối hợp hoạt động của các lực lượng

giáo dục trong công tác xã hội hóa giáo dục mầm non.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Trò chuyện phỏng vấn, quan sát, tổng kết kinh nghiệm các hoạt động
xã hội hóa giáo dục ở các trường mầm non công lập trên địa bàn thành phố
Bắc Giang để thu thập số liệu và phát hiện vấn đề mới.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi với đối tượng là giáo viên các
trường mầm non, cha mẹ học sinh để đánh giá thực trạng về quản lý công tác
xã hội hóa giáo dục mầm non.
- Phương pháp chuyên gia nhằm kiểm chứng tính khả thi của các biện
pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non đã đề xuất trong đề tài.
7.3. Phương pháp thông kế toán học.
Sử dụng các công thức thống kê để xử lý kết quả khảo sát; phân tích kết
quả về công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường mầm non công lập trên địa
bàn thành phố Bắc Giang.
8. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài được
chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường
mầm non.
Chương 2:Thực trạng quản lý nhà trường thực hiện xã hội hóa giáo dục
của hiệu trưởng các trường mầm non trên địa bàn thành phố BắcGiang.
Chương 3: Biện pháp quản lý trường mầm non tham gia vào công tác
xã hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố Bắc Giang.

10


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1

1.1.1

Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Lịch sử nghiên cứu vấn đề xã hội hóa giáo dục
Nhìn từ bản chất vấn đề, xã hội hóa giáo dục không phải là vấn đề hoàn
toàn mới. Đó là bước phát triển mới của một chủ trương giáo dục được thực
thi từ nhiều năm qua: Giáo dục là sự nghiệp quần chúng. Lật lại những trang
sử dựng nước giữ nước của dân tộc, chân lý về vai trò của quần chúng nhân
dân đã được khẳng định. Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã từng tổng
kết rằng: “Dâng thuyền lên cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Tư tưởng
“lấy dân làm gốc” đã thể hiện sâu sắc trong quá trình phát triển lịch sử dân tộc
và trở thành bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam. Những tư tưởng đó đã
được vận dngj có hiệu quả trong công tác giáo dục và trở thành sức sống tiềm
tàng trong truyền thống giáo dục Việt Nam.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, sự nghiệp
giáo dục vẫn phát triển mạnh mẽ. Đó là một kỳ tích hiếm có trong lịch sử
nhân loại. Bài học là nếu biết phát huy được lực lượng của toàn xã hội thì sự
nghiệp giáo dục vẫn phát triển, ngay trong những điều kiện khó khăn nhất.
Khi đất nước hoàn toàn thống nhất. Ở giai đoạn này, giáo dục nước ta
cũng đã đạt được những thành tựu nhất định, thống nhất được hệ thống giáo
dục của hai miền Nam – Bắc. Bên cạnh đó do một phần cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, nền giáo dục của chúng ta đã không khai thác triệt để bài học
cực kỳ quý giá đó. Thay vì thực hiện “sự quản lý giáo dục của nhà nước”,
chúng ta đã “Nhà nước hóa giáo dục”, làm cho ngành giáo dục rơi vào thế
đơn độc, không thu hút các nguồn lực của toàn xã hội. Do đó, cơ sở vật chất
của giáo dục xuống cấp và lạc hậu, động lực của người dạy và người học

11



giảm sút, sự phát triển giáo dục cả về số lượng và chất lượng đều không đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Từ Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đất nước chuyển
sang thời kỳ đổi mới, trong đó có giáo dục đã bước vào một giai đoạn phát
triển thuận lợi. Đường lới đổi mới đã mở đầu cho sự phát triển mới trong tư
duy giáo dục. Giáo dục đứng trước thử thách buộc phải phát triển với một
trình độ mới để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Bài học lịch sử của
sự phát triển giáo dục được khơi dậy và nâng cao trên tầm tư duy mới. Đến
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử
xây dựng và phát triển giáo dục Việt Nam. Đây là lần đầu tiên hội nghị toàn
thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận và ra Nghị quyết về sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. Cũng từ sau Đại hội lần thứ VII, trên các văn kiện của
Đảng và Nhà nước, các tài liệu khoa học giáo dục, trên sách báo chúng ta
thường gặp thuật ngữ “xã hội hóa” đối với các lĩnh vực hoạt động như chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, dân số-kế hoạch hóa gia đình, thể dục thể
thao, giáo dục và đào tạo…. Có thể dẫn ra một số sự kiện và Nghị quyết quan
trọng sau đề cập đến xã hội hóa giáo dục:
-Tháng 6/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định “xã hội hóa” là một trong những quan điểm để hoạch
định hệ thống các chính sách xã hội.
- Ngày 21/8/1997, Chính phủ ra Nghị quyết số 90/NQ-CP về “phương
hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa.
- Ngày 11/12/1998 Chủ tịch nước công bố Luật giáo dục đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua, ở chương I
những quy định chung, điều 11 ghi rõ: Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục.

12



- Ngày 19/8/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về
“Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao”.
- Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng
sản Việt Nam chỉ rõ: giáo dục và đào tạo phải thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa”.
- Ngày 4/10/2004, Nghị quyết số 12/2004/NQ-CP phiên họp Chính phủ
thường kỳ tháng 9/2004 đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số
90/NQ-CP và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP.
- Ngày 18/4/2005, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQCP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể
dục thể thao.
Cũng trong thời kỳ đổi mới này, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo
dục đã bàn luận nhiều về xã hội hóa giáo dục. Đặc biệt tác giả Phan Minh Hạc
đã viết nhiều tài liệu về xã hội hóa giáo dục, nhiều bài phát biểu chỉ đạo
phong trào xã hội hóa giáo dục. Trong cuốn “xã hội hóa công tác giáo dục”
xuất bản năm 1997 do ông làm tổng chủ biên đã khẳng định “xã hội hóa công
tác giáo dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục,
một con đường phát triển giáo dục nước ta. Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam
trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, tác giả Phan Minh Hạc một lần nữa khẳng
định “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ của là nhà nước mà là của toàn xã
hội: mọi người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, trung ương và địa
phương cùng lam giáo dục, tạo nên một cao trào học tập toàn dân”.
Tác giả Phan Tất Dong trong cuốn “xã hội hóa công tác giáo dục” đã
làm rõ khái niệm về xã hội hóa công tác giáo dục và coi xã hội hóa là một
khái niệm đã vận động trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, qua
mỗi giai đoạn, khái niệm đó lại được phát triển thêm, nội hàm phong phú hơn.
13


Trong lời giới thiệu cuốn sách “Những nhân tố mới về giáo dục công cuộc đổi

mới” Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh “phát triển giáo dục theo tinh thần xã hội
hóa”. Ông đề cao việc huy động toàn dân vào sự nghiệp cách mạng, coi đó là
một tư tưởng chiến lược của Đảng, tư tưởng đó được tổng kết lại không chỉ là
một bài học kinh nghiệm tầm cỡ lịch sử mà trở thành nguyên lý cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng xã hội hóa giáo dục được thừa nhận như một nhân tố mới
trong sự phát triển giáo dục hiện nay. Hơn thế, với tư cách là nhân tố mới của
sự phát triển giáo dục, tư tưởng xã hội hóa công tác giáo dục lại tạo ra những
điều kiện để xuất hiện những nhân tố mới khác trong quá trình vận động đi
lên của các phong trào giáo dục. Những điều kiện đó chính là những kinh
nghiệm rút ra từ thực tế sinh động của giáo dục, trên cơ sở đó tư duy giáo dục
trở lên sâu sắc, nhờ đó nhiều bài toán giáo dục- đào tạo đã được giải một cách
hợp lý.
Việ khoa học giáo dục đã triển khai khá nhiều năm một hệ thống đề tài
về xã hội hóa giáo dục, tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận, đề xuất cơ chế
xã hội hóa giáo dục. Năm 1999, cuốn sách “Xã hội hóa công tác giáo dục-Nhận
thức và hành động” của viện khoa học giáo dục do tập thể tác giả Bùi Gia
Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình là một bước hoàn thiện về nhận
thức lý luận và hướng dẫn thực tiễn. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có “Đề
án xã hội hóa giáo dục và đào tạo” đánh giá thực trạng và đưa ra những giải
pháp xã hội hóa giáo dục ở tầm vĩ mô, nhằm tạo ra những chuyển biến cơ bản
trong giáo dục-đào tạo, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong hai chục năm đầu thế kỷ XXI. Nhân dịp kỷ
niệm 40 năm thành lập Viện khoa học giáo dục-năm 2011, từ góc độ giáo dục
học, cuốn sách “Xã hội hóa giáo dục” do Võ Tấn Quang chủ biên cùng tập thể
các tác giả Trần Kiểm, Nguyễn Thanh Bình, Lê Đức Phúc, Thái Duy Tuyên,
Đào Huy Ngận, Nguyễn Văn Đản đã khẳng định: Xã hội hóa công tác giáo
14


dục-một phương thức thực sự giáo dục nhằm xã hội hóa cá nhân. Lần đầu tiên

cuốn sách với ý nghĩa một chuyên khảo đã đề cập đến đặc trưng của xã hội hóa
giáo dục ở các cấp học, bậc học và ở địa bàn nông thôn, vấn đề quản lý nhà
nước trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục để có sự định hướng đúng đắn
hoạt động xã hội hóa giáo dục ở các nhà trường và địa phương.
Bàn về xã hội hóa giáo dục còn có nhiều tài liệu, bài viết của các tác
giả: Vũ Văn Thảo, Nguyễn Thanh Phong, Lê Khanh, Nguyễn Nghĩa Dân, Hà
Nhật Thăng…
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề xã hội hóa giáo dục mầm non
Trước năm 1945, dưới thời Pháp thuộc ở Việt Nam không có nền giáo
dục trước tuổi đi học. Trong cả nước chỉ có vài trại tế bần nuôi trẻ mồ côi, sau
cách mạng Tháng Tám, cùng với việc hình thành chế độ mới, lần đầu tiên ở
Việt Nam có bậc giáo dục trước tuổi đi học chính thức ra đời. Nghị định số 05
ngày 10/9/1945 của Bộ Cứu tế xã hội đã ghi: “Khuyến khích các nhà bảo anh,
dục anh, ấu trĩ viên…”. Sắc lệnh số 146/SL ngày 10/8/1946 điều 3 đã khẳng
định: “Bậc học ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em dưới 7 tuổi và sẽ tổ chức tùy theo
điều kiện do Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau”.
Trải qua những tháng năm gian khổ của hai cuộc kháng chiến, vượt qua
thời kỳ chao đảo trong sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ thực hiện chủ trương xã hội hóa, giáo dục mầm
non từ chỗ còn rất khó khan đã khắc phục được tình trạng suy giảm, giữ được
sự ổn định trên diện rộng, phát triển ở những khu vực có điều kiện, tạo nên sự
chuyển biến rõ rệt.
Nhìn vào các hình thức giáo dục mầm non có thể khẳng định là bậc học
được xã hội hóa cao hơn bất kỳ bậc học nào. Giáo dục mầm non là sự thể hiện
sinh động nguyên tắc nhà nước, xã hội hóa và nhân dân cùng làm. Song việc
nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục mầm non còn hạn chế. Trong báo cáo tổng
15


quan về tình hình nghiên cứu xã hội hóa giáo dục của Ban Khoa giáo Trung

ương đã nhận định: Có thể thấy đã có một số nghiên cứu chuyên đề về xã hội
hóa sự nghiệp giáo dục. Các nghiên cứu này góp phần làm rõ, bổ sung thêm
những nghiên cứu chung. Tuy nhiên vẫn còn có những vấn đề chưa được
nghiên cứu sâu như xã hội hóa đối với giáo dục mầm non, dậy nghề…. Đó là
những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu.
Trong nhánh Đề án xã hội hóa giáo dục và đào tạo năm 1998, Vụ Giáo
dục mầm non-Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đánh giá những thành tựu và hạn
chế, thiếu sót của hơn mười năm qua trong hoạt động xã hội hóa giáo dục và
đào tạo, trên cơ sở đó xã định mục tiêu, nhiệm vụ xã hội hóa đối với giáo dục
mầm non. Năm 1999-2000, Ban nghiên cứu mầm non, viện nghiên cứu phát
triển giáo dục đã có đề tài: Nghiên cứu các giải pháp phát triển giáo dục mầm
non nông thôn, trong đó xã hội hóa giáo dục cũng chỉ được đề cập là một
trong những giải pháp của hệ thống, chưa đi sâu nghiên cứu riêng giải pháp
xã hội hóa giáo dục mầm non. Năm 2001, cuốn sách Xã hội hó giáo dục của
viện Khoa học giáo dục ra đời mới đề cập một cách hết sức khái quát đến một
số điểm xuất phát của việc định hình xã hội hóa giáo dục mầm non và vận
dụng phương thức xã hội hóa trong hoạt động giáo dục mầm non.
Đứng trước những yêu cầu và thách thức của việc thực hiện chiến lược
phát triển giáo dục mầm non, nhằm phát triển giáo dục mầm non theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, ngày 25/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị
bàn về công tác giáo dục mầm non. Hội nghị đã đề ra những giải pháp cơ bản
trong đó nhấn mạnh: Tiếp tục đẩy mạnh biện pháp xã hội hóa giáo dục mầm
non, đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non. Ngày 15/11/2002 Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg về một số chính sách
phát triển giáo dục mầm non đã khẳng định rõ ở điều 1 nhiệm vụ phát triển
16


giáo dục mầm non đến năm 2010: Nhà nước tiếp tục đầu tư phát triển giáo

dục mầm non, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non,
mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường, lớp mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư…
Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg được coi như chiếc chìa khóa vàng để mở
cánh cửa cho giáo dục mầm non phát triển đến năm 2010. Để việc thực hiện
Quyết định số 161/QĐ-TTg có hiệu quả, liên tịch Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Nội vụ, Bộ Tài chính
1.2
1.2.1

Hệ thống khái niệm cơ bản
Xã hội hóa
Xét theo góc độ từ nguyên học, xã hội hóa là làm cho trở thành của
chung của xã hội.
Trong kinh tế - chính trị học, khi nói “xã hội hóa” người ta hiểu đó là
quá trình phát triển của lực lượng sản xuất từ trình độ hợp tác giản đơn lên
trình độ hợp tác có phân công, chuyên môn hóa cao trên phạm vi toàn xã hội.
Trong tâm lý học và xã hội học, thuật ngữ “xã hội hóa” được dùng để
chỉ quá trình cá nhân trẻ ( đứa trẻ lúc sơ sinh ) tiếp thu những kinh nghiệm xã
hội – lịch sử loài người đã tích lũy được, biến nó thành kinh nghiệm riêng, từ
đó hình thành những năng lực người, đảm bảo mỗi người có thể sống và hoạt
động với tư cách là một thành viên tích cực của xã hội. Với ý nghĩa đó, có thể
định nghĩa xã hội hóa như sau:
- Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội (tập thể),
trong đó cá nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ năng và những
phương thức cần thiết để hội nhập xã hội.

-

Xã hội hóa được định nghĩa như một quá trình, trong đó suốt cả đời cá nhân
con người học hỏi và biến thành của mình những yếu tố xã hội – văn hóa của

môi trường của mình, thu nhận chúng vào cơ cấu nhân cách của mình dưới
ảnh hưởng của những kinh nghiệm và những tác nhân xã hội quan trọng, và
do đó mà thích nghi với môi trường xã hội mà mình phải sống trong đó.
17


Cho dù các định nghĩa có khác nhau nhưng cốt lõi của xã hội hóa là sự
tương tác, mối liên hệ, thuộc tính vốn có của con người, của cộng đồng nhằm
đáp ứng lại xã hội và chịu ảnh hưởng của xã hội. Hoạt động của con người,
của cộng đồng diễn ra trên tất cả lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Có thể hiểu xã hội hóa một cách
đầy đủ nhất theo định nghĩa sau:
Xã hội hóa là quá trình cá nhân nhờ hoạt động, tiếp thu giáo dục, giao
lưu… mà học hỏi được cách sống trong cộng đồng, trong đời sống xã hội và
phát triển được khả năng đảm nhiệm các vai trò xã hội với tư cách vừa là cá
thể vừa là một thành viên của xã hội.
Khái niệm xã hội hóa (socialization) đã được các nhà xã hội học sử
dụng để mô tả những phương cách mà con người học hỏi, tuân thủ theo các
chuẩn mực, các giá trị, các vai trò mà xã hội đã đề ra và chính quá trình xã hội
hóa này tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Khái
niệm “xã hội hóa” chủ yếu được xem xét và hiểu biết ở bình diện xã hội học.
Đây là một lý thuyết khoa học về sự hình thành và phát triển nhân cách con
người. Lý thuyết này được đề xuất từ những năm cuối thế kỳ XIX, mà người
dùng thuật ngữ này đầu tiên là là Emili Durkheim (1858-1917) – nhà xã hội
học Pháp.
Từ khái niệm xã hội hóa cá nhân, ngày nay chúng ta mở rộng khái niệm
xã hội hóa một loại hình hoạt động, một lĩnh vực hoạt động, ví dụ: xã hội hóa
hoạt động giáo dục – thường gọi tắt là xã hội hóa giáo dục. Vấn đề này sẽ
được phân tích dưới đây.
1.2.2


Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục là quá trình tương tác giữa giáo dục và xã hội,
trong đó giáo dục gia nhập và hòa nhập vào xã hội, vào cộng đồng, đồng thời
xã hội tiếp nhận giáo dục như là công việc của mình, do mình và vì mình. Đó

18


là mối quan hệ biện chứng. Xã hội hóa giáo dục có tác dụng tích cực đến quá
trình xã hội hóa con người, xã hội hóa cá nhân.
Ở đây, cần phân biệt rõ khái niệm xã hội hóa cá nhân và xã hội hóa
giáo dục. Nội hàm xã hội hóa cá nhân và cá thể hóa trong lý thuyết này không
phải là nội dung chủ yếu của xã hội hóa giáo dục như chúng ta đang bàn, mặc
dù xét đến cùng cũng phải tiến tới một cách đúng hướng là xã hội hóa giáo
dục phải nhằm xã hội hóa cá nhân và cá thể hóa. Vì vậy, cần thấy nội hàm của
khái niệm xã hội hóa giáo dục của ta không tương đồng với nội hàm khái
niệm xã hội hóa của nhiều nước trên thế giới, nhất là trong khu vực.
Đặt vấn đề xã hội hóa giáo dục là tìm cách hoàn nguyên bản chất xã hội
của giáo dục, gắn giáo dục với xã hội, với cộng đồng. Cơ sở tư duy của xã hội
hóa giáo dục là đặt giáo dục vào đúng vị trí của nó. Giáo dục là bộ phận
không thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học và công
nghệ là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, xã hội hóa giáo dục là
thực hiện mối liên hệ phổ biến, có tính quy luật giữa giáo dục và cộng đồng
xã hội. Thiết lập được mối quan hệ này là làm cho giáo dục phù hợp với sự
phát triển xã hội. Nội dung quy luật này là ở chỗ: “Mọi người phải làm giáo
dục để giáo dục cho mọi người”. Xã hội hóa giáo dục gồm hai vế: mọi người
có nghĩa vụ chăm lo cho giáo dục để giáo dục phục vụ mọi người, để mọi
người được quyền đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Hai vế trên đã nêu
rõ hai yêu cầu của xã hội hóa giáo dục là phải xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa

vụ đối với giáo dục và phải xã hội hóa quyền lợi về giáo dục đối với mọi
người. Hai yêu cầu đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và
thực hiện kết hợp, đồng thời. Yêu cầu thứ hai là hệ quả của yêu cầu thứ nhất
và là biện pháp thúc đẩy yêu cầu thứ nhất. Yêu cầu thứ hai chính là đỉnh cao
của xã hội hóa giáo dục. Lâu nay chúng ta vẫn Nghị quyết 05/2005/NQ-CP
của Chính phủ: Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát
19


huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm
lo sự nghiệp giáo dục…, thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các
đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục… ở
mức độ ngày càng cao.
Chính vì lẽ đó, trong hoạt động thực tiễn cần phân biệt rõ tính chất xã
hội của giáo dục và xã hội hóa giáo dục, hai cái đó không phải là một và
không đồng nhất. Nếu không có định hướng rõ rang thì tự thân hoạt động giáo
dục vẫn có tính chất xã hội nhưng không bao giờ đạt tới trình độ xã hội hóa
đích thực theo ý nghĩa xã hội và nhân văn của nó. Và cũng phải nhận định
rằng: Nội hàm xã hội hóa giáo dục nói ở đây thuộc phương thức, phương
châm, cách làm giáo dục. Nó thuộc phương thức tổ chức và quản lý giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là: Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân đóng góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự
quản lý của Nhà nước để xây dựng một xã hội học tập.
Khi nói về những chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn, Nghị
quyết 04-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã ghi: “Huy động
các nguồn đầu tư trong nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể cả vay
vốn của nước ngoài để phát triển giáo dục.”
“ Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia
đình và mọi người cùng với ngành giáo dục – đào tạo chăm lo xây dựng sự

nghiệp giáo dục theo phương châm: “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây
dựng môi trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội”.
Quan điểm này đã được thể chế hóa ở Điều 11 của Luật giáo dục về Xã
hội hóa sự nghiệp giáo dục”

20


“Mọi tổ chức, gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự
nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và mội trường giáo dục lành
mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực
hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến
khích huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự
nghiệp giáo dục”.
Như vậy, Luật giáo dục đã xác định vai trò chủ đạo của Nhà nước, vai
trò tham gia của xã hội, vai trò chủ động của giáo dục, nhà trường. Nội dung
cơ chế thể hiện ở chỗ: Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển giáo dục;
Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân đều có trách nhiệm góp phần xây dựng
giáo dục một cách đa dạng trên mọi mặt, từ việc mở các loại hình trường công
lập, bán công, dân lập, tư thục, đến việc xây dựng phong trào học tập và môi
trường giáo dục lành mạnh, từ Nhà nước ưu tiên đầu tư và giữ vai trò chủ yếu
trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục, đến khuyến khích mọi nguồn đầu
tư phi nhà nước trong và ngoài nước. Giáo dục nói chung và nhà trường nói
riêng luôn giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp với các lực lượng xã hội,
với gia đình thực hiện phát triển giáo dục về các mặt: quy mô, chất lượng và
hiệu quả giáo dục; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Sự kết hợp ba yếu tố: “Nhà nước – Xã hội – Giáo dục” trong mọi hoạt
động của sự nghiệp giáo dục đã được thể chế hóa ở Luật giáo dục, trở thành
một quy định pháp lý mang tính động lực, chỉ đạo hành động “liên kết đồng

bộ” ba yếu tố đó, tạo nên tác động tổng hợp cho sự phát triển giáo dục và cho
việc giải quyết các mâu thuẫn của giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là một quan điểm cơ bản, có tính chiến lược trong
việc xây dựng và phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đó là
sự thể hiện đường lối vận động quần chúng, huy động sức mạnh của toàn xã
21


hội vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng ta luôn coi trọng trong
suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng. Tùy từng thời kỳ cách mạng và
tùy từng lĩnh vực công tác, tư tưởng đó được thể hiện trong những nội dung
khác nhau. Khi bàn về công tác giáo dục, Hồ chủ tịch đã chỉ rõ: “Giáo dục là
sự nghiệp của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ
nghĩa. xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa
thầy và trò, giữa trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân
dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó.
Xã hội hóa giáo dục không phải là một ý đồ chiến thuật được vận dụng
một cách nhất thời cho một giải pháp tình thế, mà là một tư tưởng chiến lược,
có sức mạnh của toàn xã hội là điều kiện “cần” và “đủ” để giáo dục phát triển
có chất lượng và hiệu quả. Bộ trưởng Bộ giáo dục đào tạo Nguyễn Minh Hiển
nhấn mạnh: “Nếu giáo dục là chìa khóa đi vào công nghiệp hóa hiện đại hóa
thì việc thực hiện chủ trương xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là chìa khóa góp
phần mở cánh cửa của giáo dục trên các bình diện quy mô, chất lượng, hiệu
quả và công bằng xã hội”
Từ định hướng chiến lược này đòi hỏi phải làm chuyển biến hoạt động
giáo dục, vốn là hoạt động có tính chuyên môn, nghiệp vụ của một thiết chế
xã hội (ngành giáo dục), trở thành một hoạt động rộng lớn, thâm nhập và tác
động vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa
học kỹ thuật..) thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ không ngừng của xã hội.
Xã hội hóa giáo dục đòi hỏi phải huy động mọi nhân lực, vật lực, tài

lực, tiềm năng của xã hội tham gia giải quyết mọi nhiệm vụ, mọi vấn đề của
giáo dục. Có thể coi xã hội hóa giáo dục là một cách làm giáo dục được xác
định bởi những đặc điểm cơ bản sau đây:
-

Huy động sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan đến giáo dục vào
việc phát triển sự nghiệp giáo dục.
22


-

Huy động các lực lượng của cộng đồng tham gia vào công tác giáo dục.
Đa dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình nhà trường.
Huy động các nguồn đầu tư trong xã hội vào sự nghiệp giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục là cuộc vận động lớn trong xã hội có sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò nòng cốt của ngành giáo dục.
Để từ đó mọi người có cơ hội được hưởng quyền lợi về giáo dục, được
học tập, học tập suốt đời, xây dựng một xã hội học tập nhằm đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.2.3

Xã hội hóa giáo dục mầm non
Khái niệm xã hội hóa giáo dục mầm non được xây dựng từ khái niệm
xã hội hóa giáo dục và vận dụng vào đặc thù của ngành học mầm non.
Đó là việc huy động nhân lực, tài lực, vật lực của xã hội vào quá trình
chăm sóc giáo dục trẻ thơ (dưới 6 tuổi) và đưa mục tiêu giáo dục mầm non
vào đời sống cộng đồng để trẻ trong lứa tuổi này “Phát triển cơ thể cân đối
khỏe mạnh, nhanh nhẹn, biết kính trọng yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ,

thầy cô và người trên, yêu quí anh chị em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, hồn
nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học”
Xã hội hóa giáo dục mầm non là một tư tưởng giáo dục lớn của Đảng
và chủ trương của Nhà nước nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài để giáo dục tạo ra lớp người lao động mới phát triển toàn diện,
năng động, sáng tạo để đáp ứng đòi hỏi của nền công nghiệp hóa nước ta vào
năm 2020 vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và IX đã nêu ra.
Những năm qua, công tác xã hội hóa giáo dục mầm non đã trở thành
quan niệm phổ biến và rộng rãi trong toàn xã hội, nhất là những ai làm công
tác quản lý trực tiếp giáo dục trẻ thơ. Song trong thực tế, vẫn còn nhiều điều
phải bàn để làm sáng tỏ phạm trù khái niệm và cách tiếp cận thực tiễn cho

23


đúng nhằm biến chủ trương này của Đảng và Nhà nước thành hiện thực.
Ở đây, công tác xã hội hóa giáo dục mầm non cần được hiểu theo hai nghĩa:
Một là, giáo dục là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
tổ chức quản lý, mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức xã hội đều phải chăm sóc,
giáo dục trẻ em. Có như vậy trẻ em hôm nay mới trở thành người lao động
xây dựng và bảo vệ tổ quốc mai sau. Vì vậy phải huy động mọi nguồn lực của
xã hội để làm công tác giáo dục mầm non.
Hai là, trẻ em không chỉ được quyền nhận sự chăm sóc, giáo dục của
toàn xã hội mà còn phải biến sự chăm sóc giáo dục của toàn xã hội thành chất
lượng giáo dục của chính mình, phải có nghĩa vụ đối với xã hội mà trước hết
là đối với mình để trở thành con ngoan, trò giỏi; có như thế sau này mới trở
thành người công dân tốt của đất nước.
Đây là hai mặt của một vấn đề, vừa có tính nhân văn sâu sắc vừa có ý
nghĩa giáo dục to lớn khi quan niệm về công tác xã hội hóa giáo dục mầm

non. Trong hoàn cảnh nước ta chưa phải mọi trẻ em trong lứa tuổi mầm non
đều được ra lớp thì giáo dục mầm non phải phấn đấu giúp các bậc cha mẹ có
kiến thức và thái độ đúng đắn trong việc nuôi dưỡng các em theo mục tiêu mà
Luật Giáo dục đề ra.
Công tác xã hội hóa là:
- Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục
và vị trí, vai trò của giáo dục mầm non đối với việc xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực, chính là giai đoạn đầu tiên hết sức quan trọng để tạo ra
nguồn lực con người.
- Xây dựng, huy động và tổ chức cộng đồng trách nhiệm của từng
người dân, của từng gia đình, tập thể và các tổ chức Đảng, chính quyền các
cấp, của các đoàn thể quần chúng, của các tổ chức kinh tế, xã hội đối với việc
phát triển giáo dục mầm non và đối với việc xây dựng môi trường giáo dục
24


lành mạnh ở mọi lúc mọi nơi. Môi trường đó trước hết là sự kết hợp giữa các
trường mầm non với gia đình để giúp trẻ phát triển, là việc giúp các gia đình
có những kiến thức cần thiết để chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ ở ngay
tại gia đình.
- Đa dạng hóa các loại hình và hình thức giáo dục mầm non, củng cố
các trường công lập hiện có và mở rộng các loại, dân lập, tư thục. Tùy theo
hoàn cảnh của địa phương có thể có nhiều hình thức học tập khác nhau như: 1
buổi, 2 buổi/ ngày, cả ngày và phổ biến kiến thức cho các bậc cha mẹ để nuôi
dạy ở nhà nếu có điều kiện.
- Huy động và tổ chức các lực lượng xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào quá trình chăm sóc giáo dục trẻ:
+ Tham gia việc xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục mầm non tại địa
bàn phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn sinh sống của
người dân.

+ Tham gia vào việc tổ chức hoạt động tham quan, tìm hiểu môi trường
xung quanh theo kế hoạch của nhà trường.
+ Tham gia sưu tầm tài liệu, sách vở, tranh ảnh hoặc vẽ tranh ảnh phục
vụ cho từng chủ đề học và chơi của trẻ.
+ Tham gia cùng giáo viên lựa chọn các chủ đề mà họ cho là cần thiết
để tổ chức hoạt động vui chơi và học tập cho trẻ.
+ Tham gia các hội thi nấu ăn và các hội thi khác có sự phối hợp giữa
giáo viên, trẻ em và cha mẹ để giúp đỡ trẻ.
- Tổ chức sự phối hợp liên ngành trong khi triển khai thực hiện kế
hoạch phát triển giáo dục mầm non. Đây là một trong những yếu tố then chốt
của xã hội hóa giáo dục mầm non. Trong khi thực hiện sự phối hợp này, mỗi
ngành vẫn thực hiện đúng chức năng riêng có của mình, thông qua đó thực
hiện mục tiêu giáo dục mầm non. Sự phối hợp liên ngành để thực hiện mục
25


×