Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở thừa thiên huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.12 KB, 120 trang )

1

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Lê Thị Thu Hà


2

2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Văn Hòa đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn
tôi tìm ra hướng nghiên cứu, tiếp cận thực tế, tìm kiếm tài liệu, xử lý và phân
tích số liệu, giải quyết vấn đề v.v. nhờ đó tôi mới có thể hoàn thành luận văn
cao học của mình.
Đồng thời xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo khoa Lý luận
chính trị - Trường Đại học Khoa học Huế đã tận tình giảng dạy và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến bạn bè, gia đình đã luôn
động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành khóa học.
Huế, Tháng 9 năm 2015
Tác giả
Lê Thị Thu Hà




3

3

MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4

Tên bảng

Trang

Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành phân
theo thành thị, nông thôn, nguồn thu và phân theo nhóm thu nhập
Tỷ lệ hộ nghèo
Cơ cấu chi ngân sách địa phương


47
63
65
67

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1

Số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc

65


5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội không chỉ là mục tiêu mà còn là khát vọng của toàn nhân loại
trong mọi thời đại. Tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu đặt ra hàng đầu của
các quốc gia trên thế giới và các địa phương trong một quốc gia. Một yêu cầu
tối thiểu của một quốc gia phát triển đó là chất lượng cuộc sống vật chất của
quốc gia đó phải cao và được phân phối một cách đồng đều thay vì chỉ giới
hạn một cách bất hợp lý cho một bộ phận tối thiểu giàu có trong xã hội. Cao
hơn yêu cầu tối thiểu đó, một quốc gia phát triển còn đề cập đến các quyền và
sự tự do của con người về mặt chính trị, sự phát triển về văn hoá và tri thức,
v.v. Mặc dù trong quá trình phấn đấu đạt tới bức tranh toàn diện nói trên, mỗi
nước có sự lựa chọn con đường đi khác nhau, song vấn đề trung tâm trong sự
lựa chọn đó luôn là quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Xuất phát từ nhận thức và tư duy đổi mới, Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Phải coi trọng việc
kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt
là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát
triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại,
thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [10,
tr.316].
Quán triệt đường lối sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết
Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế nhấn mạnh: “Gắn kết


6

nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, bảo đảm an sinh xã hội,
xoá đói, giảm nghèo, phát triển bền vững và bảo vệ môi trường cảnh quan
sinh thái” [11, tr.155]. Tuy nhiên, ở Thừa Thiên Huế hiện nay, không khó để
nhận ra một thực tế: việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
còn chưa đồng bộ và triệt để. Trong khi quy hoạch và xây dựng các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, nhiều nơi mới chỉ tập trung vào lợi ích
kinh tế, chưa chú ý đúng mức đến phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã
hội v.v. Thực trạng nói trên đã chỉ cho chúng ta thấy rằng: việc đạt được
mong muốn kép này là hết sức khó khăn, và trong thực tiễn đã có những ý
kiến cho rằng có sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Những chính sách dựa trên mục tiêu
phát triển văn hóa, tiến bộ, công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động
lực tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng

kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng, xã hội suy thoái về mặt
đạo đức, lối sống, xuống cấp về văn hóa và đời sống tinh thần của con người,
của cộng đồng.
Chính vì lẽ đó, luận văn khẳng định sự cần thiết khách quan phải
nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề tăng trưởng kinh tế, của vấn đề
giữ gìn phát triển văn hóa, vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội và sự cần thiết
phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy mà tác giả đã chọn đề tài:
“Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế hiện nay” làm luận văn nghiên cứu
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, vấn đề tăng trưởng kinh tế với phát triển văn


7

hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được nhiều nhà khoa học quan tâm
và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị, đã công bố rộng
rãi dưới dạng sách tham khảo, bài báo cáo khoa học v.v. Để đảm bảo tính kế
thừa và khẳng định những đóng góp của luận văn, tác giả tiến hành chọn lọc
và thực hiện tổng quan những công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
luận văn như sau:
- Phạm Xuân Nam (2007), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản
điện tử, cập nhập ngày 22/01/2007. Về quan điểm, tác giả cho rằng quan điểm
tổng quát của Đảng Cộng sản Việt Nam “tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” cần phải cụ
thể hoá thành những nội dung chủ yếu như tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội phải làm tiền đề và điều kiện cho nhau, cần khắc phục tàn dư của chủ

nghĩa bình quân, đề cao vai trò của quản lý vĩ mô của Nhà nước và không thể
tách rời yếu tố văn hoá trong phát triển. Trên cơ sở quan điểm đó, tác giả kiến
nghị những giải pháp cơ bản nhằm thực hiện mục tiêu “kép”, đó là các chính
sách vĩ mô cần tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cơ hội tiếp cận một
cách công bằng với các đầu xuất kinh doanh, thực hiện phân phối theo lao
động, theo đóng góp và theo hiệu quả kinh tế, cần có chính sách điều tiết và
phân phối lại thu nhập, không chỉ qua phúc lợi xã hội mà cần mở rộng thành
hệ thống chính sách an sinh xã hội với nhiều tầng nấc khác nhau.
- Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2009), Phát triển văn hóa Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 những vấn đề phương pháp luận, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Tác giả đã phân tích, đánh giá thực tiễn 25 năm xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam; chỉ rõ mối quan hệ giữa văn hóa và các lĩnh vực
phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng văn hóa chính trị; đề xuất mục tiêu, quan
điểm, định hướng và các giải pháp có tính chất đột phá để phát triển văn hóa
dân tộc trong thập kỷ tới.


8

- GS.TS. Hoàng Đức Thân, TS. Đinh Quang Tỵ (đồng chủ biên) (2010), Tăng
trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và phương pháp
luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội; bài
học kinh nghiệm từ thực tiễn xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội ở một số nước trên thế giới; phân tích, đánh giá thực
trạng (thành công, hạn chế và nguyên nhân) của mối quan hệ gắn kết giữa
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam giai đoạn từ sau
đổi mới đến nay, đặc biệt là trong 10 năm gần đây; dự báo bối cảnh trong và
ngoài nước (trong 10 năm tiếp theo) tác động đến mối quan hệ gắn kết giữa
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta, từ đó đề xuất hệ

thống quan điểm, mục tiêu, giải pháp nhằm bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam; đề xuất và kiến nghị các giải
pháp nhằm đẩy mạnh gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng
xã hội giai đoạn 2011-2020.
- TS. Bùi Đại Dũng (2012), Công bằng trong phân phối cơ sở để phát
triển bền vững, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong phần đầu, tác giả trình
bày cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội, trong đó tập trung vào mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng trong thu nhập. Ở phần tiếp theo, tác giả phân tích, đánh giá
thực trạng tăng trưởng kinh tế và vấn đề bình đẳng trong thu nhập ở nước ta
trong giai đoạn năm 1986 đến nay. Một trong những đóng góp quý báu của
tác giả là đề xuất các định hướng và giải pháp điều chỉnh phân phối thu nhập
nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
- Phạm Hữu Hoành (2013), Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ,
Trường Đại học Khoa học Huế. Luận văn nghiên cứu, làm rõ một số quan


9

điểm của triết học Mác - Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
kinh tế - xã hội. Nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với việc giải
quyết vấn đề công bằng xã hội; thực trạng việc giải quyết mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với vấn đề công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đề xuất
một số giải pháp cơ bản có tính khả thi để gắn kết việc xây dựng và phát triển
kinh tế với việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội.
- GS.TS.Nguyễn Xuân Thắng, PGS.TS.Vũ Văn Phúc, PGS.TS. Phạm
Văn Đức, PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu (đồng chủ biên) (2013), Văn kiện Đại
hội XI của Đảng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội
Hà Nội. Trong phần thứ tư, nội dung của các bài tham luận đều đề cập nhiều

vấn đề phong phú cả về lý luận và thực tiễn, có giá trị tham khảo quý trong
việc làm rõ mối quan hệ cơ bản cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá
trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó, nổi bật là mối quan
hệ cơ bản giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Những kết luận và vấn đề đặt ra cho nghiên cứu tiếp theo của luận văn
Trên cơ sở tổng quan những nội dung và kết quả chính của các công
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bước đầu luận văn rút ra một số
kết luận sau:
Thứ nhất, trong thời gian qua, vấn đề tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những chủ đề
không chỉ thu hút nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, mà còn trở thành
chủ đề để các học viên cao học lựa chọn làm nội dung nghiên cứucho các luận
văn của mình.
Thứ hai,các công trình trên đều tập trung bảo vệ, làm sáng tỏ nhiều khía
cạnh về tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tăng trưởng kinh tế với


10

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, vấn đề gìn giữ và phát triển văn hóa
truyền thống, tiếp thu văn hóa hiện đại, vấn đề thu nhập, mức sống của các
tầng lớp xã hội, sự phân hóa giàu nghèo của dân cư, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm góp phần tạo ra sự công bằng trong xã hội, bảo tồn các giá trị văn
hóa, phát triển văn hóa lên tầm vóc toàn cầu.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trên mới chỉ nghiên cứu từng mặt
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, hoặc giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sự gắn kết giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

chưa được bàn một cách toàn diện. Đây là vấn đề rộng lớn liên quan đến cả
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Cần phải nghiên cứu trong tổng thể mới
giải quyết triệt để vấn đề. Những công trình được nêu trên đã giúp tác giả có
những định hướng quan trọng trong việc xây dựng hệ thống lý luận luận và
phương pháp luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có
công trình nghiên cứu nào hay tác phẩm nào đi sâu toàn diện việc vào nghiên
cứu một cách hệ thống từ góc độ Triết học vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội tại một tỉnh thành cụ thể, ở đây là tỉnh Thừa Thiên Huế. Vì vậy, trên cơ sở
kế thừa và tiếp thu kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, việc bổ
sung vào khoảng trống các vấn đề nghiên cứu còn bỏ ngỏ để hoàn thiện thêm
những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế
được luận văn xác định là hướng phát triển nghiên cứu tiếp theo.
Trong luận văn của tác giả, ngoài việc khẳng định sự cần thiết khách
quan phải nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn đề cập phân


11

tích và tổng kết được một số vấn đề có tính phương pháp luận, đưa ra những
giải pháp có tính định hướng để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá, nêu lên phương hướng và giải pháp của việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của việc giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ở Thừa thiên Huế hiện nay.
- Nêu lên phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở
Thừa Thiên Huế trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế hiện nay là một đề tài rất rộng.
Nó liên quan đến quá trình phát triển của một tỉnh thành trên các mặt chính
trị, văn hóa, kinh tế, xã hội và ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống của con người
ở địa phương. Ở đề tài này trên cơ sở tiếp thu có lọc những kết quả nghiên


12

cứu trước đó. Tác giả tiếp tục nghiên cứu vấn đề dưới góc độ Triết học; qua
đó, đề xuất phương hướng và giải pháp trong việc giải quyết mối quan hệ trên
ở Thừa Thiên Huế trong thời gian tới.
Do vậy, luận văn chỉ giới hạn phạm vi sau:
- Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế hiện
nay.

- Về không gian, phạm vi tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu các nội dung này trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế để giải quyết những vấn đề đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích và lý giải. Ngoài ra, kết hợp các
phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích và tổng hợp, so sánh và đối
chiếu, quy nạp và diễn dịch, lý luận và thực tiễn v.v. giúp đề tài chỉ ra những
vấn đề có tính nguyên tắc, những giải pháp có tính định hướng để giải quyết
tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng của việc giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ở Thừa Thiên Huế hiện nay.


13

- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa Thiên
Huế trong những năm tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
vấn đề tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ở Thừa Thiên Huế.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Lý luận về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Chương 2: Những vấn đề cần đặt ra cần giải quyết giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Thừa
Thiên Huế hiện nay.


14

NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA,
THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. Khái luận chung về tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bô
và công bằng xã hôi
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ xã hội
và công bằng xã hội
a. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự
gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm) sau khi đã điều chỉnh lạm phát; là kết quả của tất cả các
hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ do một nền kinh tế tạo ra, không kể
các hoạt động ấy được thực hiện trong nước hay nước ngoài. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế là chỉ tiêu tổng hợp quan trọng hàng đầu, có liên quan mật thiết
đến các biến số vĩ mô khác như việc làm, nghèo đói v.v. Tuy nhiên, nếu chỉ
xem xét tăng trưởng kinh tế dưới góc độ số lượng thu nhập tăng lên thì chưa

đủ. Thực tế cho thấy nhiều “loại” tăng trưởng không những không đem đến
cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn mà trái lại còn để lại những hậu quả
không tốt mà các thế hệ tương lai phải gánh chịu. Để chứng minh cho vấn đề
này, trước hết chúng ta hãy nhìn lại thực tiễn tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia trên thế giới.
Trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tăng trưởng kinh tế được coi là mục
tiêu hàng đầu của tất cả các quốc gia trước yêu cầu tồn tại và phát triển. Trong
một thời gian dài, bên cạnh mở cửa nền kinh tế cho đầu tư và thương mại, hầu


15

hết các nước đã theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa vào tích luỹ tài sản vốn
vật chất và các chính sách thường chú trọng vào thu hút các dòng vốn đầu tư,
kể cả nhập khẩu vốn. Ở đây, tăng trưởng kinh tế được hiểu là việc tạo ra
nhiều của cải hơn nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Tăng trưởng kinh tế thường
được được đánh giá chủ yếu thông qua các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng
trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: Tổng giá trị sản
xuất (GO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc gia (GNP),
tổng thu nhập quốc dân (GNI), trong đó, GDP thường là chỉ tiêu quan trọng
nhất và được sử dụng phổ biến nhất. Với các chỉ số này, tăng trưởng kinh tế
chỉ đơn thuần đề cập đến gia tăng năng lực để tạo ra giá trị gia tăng thông qua
các hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng kiến hai bức tranh
hoàn toàn trái ngược nhau. Đó là sự tiến bộ vượt bậc của các nước trên thế
giới nhưng đồng thời cũng chứng kiến nền kinh tế các nước bắt đầu đi vào
tình trạng thoái trào, trì trệ, kể cả ở những nước mà trước đây đã từng đạt
được tốc độ tăng trưởng mạnh. Giai đoạn 1980-1992, một loạt nước châu Phi
phải chịu thụt lùi về kinh tế với tốc độ tăng trưởng âm và tình trạng nghèo đói
vẫn dai dẳng. Trong khi đó ở châu Á, các nước công nghiệp mới nổi lên với

tốc độ tăng trưởng cao, có xu hướng bắt kịp các nước phát triển ở phương Tây
và tăng trưởng gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Trước những diễn biến đó, các nhà kinh tế mới nhận ra rằng, điều cốt
lõi của quá trình tăng trưởng kinh tế không chỉ là tăng lên về quy mô, tốc độ
mà chất lượng tăng trưởng kinh tế mới là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Tăng
trưởng kinh tế phải được xem xét dưới góc độ số lượng và chất lượng. Từ đó,
chất lượng kinh tế bắt đầu được chú ý hơn khi nghiên cứu tính bền vững của
tăng trưởng. Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trong các Báo cáo về phát
triển con người, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã đưa ra


16

nhiều khái niệm khác nhau như tăng trưởng không gốc rễ (là sự tăng trưởng
không khiến cho đời sống văn hóa của con người trở nên khô héo), tăng
trưởng không tương lai (tức tăng trưởng trong đó thế hệ hiện nay phung phí
những nguồn lực mà các thế hệ trong tương lai cần đến, trong đó phải đặc biệt
kể đến là môi trường và tài nguyên thiên nhiên), tăng trưởng không việc làm
(tức là tăng trưởng không đi liền với mở rộng cơ hội tạo việc làm), tăng
trưởng không lương tâm (tức là thành quả của nó đem lại lợi ích chủ yếu cho
người giàu, còn người nghèo được hưởng ít, khoảng cách giàu nghèo ngày
càng gia tăng), tăng trưởng không có tiếng nói (tức là tăng trưởng kinh tế
không kèm theo việc mở rộng dân chủ hay là việc trao quyền lực cho dân, hạn
chế những đòi hỏi được tham dự nhiều hơn vào đời sống xã hội của người
dân) nhằm cảnh báo về sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, phân phối
cơ hội và tăng trưởng không gắn với phân phối thành quả của tăng trưởng,
đồng thời cũng đưa ra khái niệm “tăng trưởng công bằng”. Tại kỳ họp thứ 6
các Bộ trưởng Môi trường của các nước Châu Á - Thái Bình Dương cuối
tháng 9 năm 2010 tại Kazakhstan tái khẳng định: Chuyển từ tăng trưởng theo
số lượng sang chất lượng.

Cho đến nay chưa có một khái niệm chính thức về “chất lượng tăng
trưởng kinh tế” tương tự như khái niệm “tăng trưởng kinh tế”. Trên cơ sở lý
thuyết và các kết quả nghiên cứu thực tiễn, một số nhà kinh tế đã nhất trí đưa
các tiêu chuẩn chủ yếu, đó là: chất lượng tăng trưởng phải được thể hiện ở
năng suất, hiệu quả của các yếu tố đầu tư, phải đi liền với tính hiệu quả và
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, bao gồm cả các yếu tố đầu vào
như việc quản lý và phân bổ các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất, lẫn
các kết quả đầu ra của quá trình sản xuất với chất lượng cuộc sống được cải
thiện, các sản phẩm đầu ra được phân phối đảm bảo tính công bằng.


17

Từ một số cách tiếp cận trên, có thể thấy, đa số các quan niệm về tăng
trưởng kinh tế đều được tiếp cận và nhìn nhận dưới góc độ chuyên ngành
Kinh tế phát triển, còn dưới dưới góc độ chuyên ngành Triết học luận văn cho
rằng: Tăng trưởng kinh tế là quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững thể
hiện thông qua sự tăng liên tục, trong dài hạn, có hiệu quả chỉ tiêu quy mô và
tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hoặc tổng sản phẩm quốc gia
(GNP), hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là một năm); bên cạnh đó, yêu cầu tăng trưởng kinh tế còn bảo
đảm tăng thu nhập phải gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi
xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Với quan niệm này, cách nhìn nhận về tăng trưởng kinh tế trở nên toàn
diện hơn và được nâng lên một bước so với trước. Lượng và chất của tăng
trưởng là gắn liền với nhau và là hai mặt của một vấn đề. Trong khi tốc độ
tăng trưởng thể hiện qua sự cải thiện về thu nhập bình quân đầu người thì
chất lượng tăng trưởng lại được thể hiện qua sự cải thiện về phúc lợi, khía
cạnh phân phối thành quả của tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo và khả năng
duy trì tăng trưởng của một quốc gia, địa phương. Từ đó, nếu quá trình tăng

trưởng chỉ thiên về mức tăng thì khó có thể duy trì trong dài hạn và đạt mục
tiêu cải thiện phúc lợi. Theo cách hiểu này thì tăng trưởng không nhất thiết
phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững. Vì
vậy, hiện nay nói đến tăng trưởng giờ đây không chỉ đơn thuần là tăng thu
nhập bình quân đầu người, mà các mục tiêu khác không kém phần quan
trọng. Đó là:
- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế xét theo các yếu tố bên trong của quá
trình sản xuất như tăng trưởng gắn liền với chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng
trưởng xét theo quan điểm hiệu quả của các yếu tố tác động đến tăng trưởng,
tăng trưởng gắn liền với cạnh tranh lành mạnh.


18

- Thứ hai, tăng trưởng kinh tế gắn liền với nâng cao mức sống vật chất
và tinh thần của người dân; tăng trưởng cần phải đóng góp trực tiếp vào cải
thiện một cách bền vững phúc lợi xã hội, cụ thể là phân phối thành quả của
phát triển và xoá đói giảm nghèo.
b. Khái niệm phát triển văn hóa
Xét quá trình lịch sử, “phát triển văn hoá” được đặt ra trong sự liên
quan với phát triển kinh tế. Trong vài thập kỷ trước đây, có một số quốc gia
cho rằng: chỉ cần tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị
trường cùng với việc phát triển sử dụng khoa học công nghệ cao là có sự phát
triển. Sau một thời gian thực hiện kết quả cho thấy, các quốc gia đó đạt được
một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt
trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn hóa ngày càng tăng. Từ đó, kéo
theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định xã hội tăng lên và cuối cùng là
sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế, đất nước rơi vào tình trạng suy
thoái, không phát triển được. Đây là quan niệm phát triển nhanh bằng cách hi
sinh các giá trị văn hóa - xã hội cho sự phát triển. Trên thực tế kết quả lại

hoàn toàn trái ngược lại.
Từ thực tế đó, một số quốc gia đã lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế
cùng với việc phát triển tài nguyên con người trên nền tảng văn hoá; con
người không chỉ giải quyết mối quan hệ giữa con người với nhau, ứng xử với
môi trường sinh thái trong đời sống hiện tại mà còn giải quyết mối quan hệ
với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Mô hình này, tuy tăng
trưởng kinh tế không nhanh, nhưng lại bền vững, xã hội ổn định. Đây là quan
niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, được các nhà khoa
học, các chính khách thừa nhận. Vì vậy, cho nên ở đây có sự tương đồng về
nghĩa và khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa. Văn hóa
bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội.


19

Từ cách tiếp cận trên, tác giả quan niệm: Phát triển văn hóa là một
khái niệm đa nghĩa bao gồm sự thay đổi văn hóa theo xu thế tiến bộ và nhân
văn, thể hiện trước hết là sự thay đổi về đời sống văn hóa bao gồm văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của xã hội, ở tất cả những lĩnh vực cơ bản của
đời sống văn hóa dân tộc như phát triển con người, phát triển môi trường văn
hóa cùng với các lĩnh vực hoạt động văn hóa cơ bản như giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, thông tin đại chúng, dịch vụ văn
hóa, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa; đảm bảo sự đa dạng văn hóa giữa
các dân tộc v.v. nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của xã hội.
Như vậy, phát triển văn hóa không chỉ phát huy các vai trò của văn hóa
mà còn làm cho nó trở thành nền tảng, động lực của quá trình tiến bộ kinh tế xã hội và con người phù hợp với quy luật của lịch sử trong từng hoàn cảnh
nhất định.
c. Khái niệm tiến bộ xã hội
Trong lịch sử xã hội, vấn đề tiến bộ xã hội được đặt ra rất sớm. Tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử nhất định, vào địa vị xã hội và vào trình độ nhận

thức, có người quan niệm tiến bộ xã hội như thế này, có người lại quan niệm
tiến bộ xã hội như thế khác. Mặc dù vậy, trong lịch sử, dù các quan niệm này
diễn ra theo hướng nào đi chăng nữa, thì phần đông các nhà tư tưởng đều cho
rằng: tiến bộ xã hội là một khái niệm phản ánh khuynh hướng biến đổi của xã
hội nói chung thường bắt nguồn từ sự xung đột giữa người với người, trước
hết trong những lĩnh vực kinh tế - xã hội (đặc biệt là mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế và địa vị xã hội). Rằng, việc giải quyết mâu thuẫn lợi ích trong xã hội
ngày càng công bằng hơn chính là nguồn gốc, là động lực cho sự vận động và
phát triển theo hướng tiến bộ của xã hội. Song, công bằng xã hội còn là thước
đo trình độ của tiến bộ xã hội trong tiến trình vận động, phát triển của lịch sử
và được thể hiện ra ở trình độ giải phóng con người.


20

Trên cơ sở tiếp thu những hạt nhân hợp lý, tác giả quan niệm: Tiến bộ
xã hội là một khái niệm phản ánh sự vận động của xã hội từ trình độ thấp đến
trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, là sự vận động của xã hội loài người
từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn,
hoàn thiện hơn, thể hiện ở sự phát triển ngày càng cao hơn của lực lượng sản
xuất, đời sống ngày càng văn minh, dân chủ và các quyền của con người
được bảo đảm.
Như vậy, tiến bộ xã hội có nội dung toàn diện về kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hoá, tư tưởng, khoa học kỹ thuật v.v. Nó bao quát trên cả phương
diện vật chất và tinh thần của xã hội, được xem xét trên phạm vi quốc gia, dân
tộc cũng như trên quy mô thế giới gắn với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tiến
bộ xã hội không diễn ra một cách ngẫu nhiên, tự động, mà là kết quả hoạt
động của con người. Hoạt động của con người là động lực thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Mỗi bước tiến bộ xã hội đều thể hiện sức mạnh của con người trước tự
nhiên, giải phóng và nâng cao quyền con người trong xã hội. Tiến bộ xã hội là

sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các quan hệ xã hội dân
chủ và công bằng. Theo đó, tiến bộ xã hội thể hiện ở các mặt cơ bản sau:
- Thứ nhất, sự tiến bộ về kinh tế. Đó là lực lượng sản xuất phát triển với
hàm lượng khoa học ngày càng cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tăng trưởng nhanh, có chất lượng cao và
bền vững.
- Thứ hai, sự tiến bộ về chính trị - xã hội. Đó là thể chế chính trị tiến
bộ, dân chủ được phát huy; hiệu quả thực tế của chính sách xã hội, quyền làm
chủ của nhân dân đối với mọi mặt đời sống xã hội được bảo đảm, phân phối
thành quả của tăng trưởng kinh tế một cách công bằng, dân chủ.
- Thứ ba, sự tiến bộ về văn hoá. Đó là đời sống tinh thần không ngừng
được nâng cao; giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ được mở mang,


21

trình độ dân trí phát triển.
d. Khái niệm công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một trong năm thành tố của mục tiêu chung mà
chúng ta đang phấn đấu để đạt tới trên con đường xây dựng một nước Việt
Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong tiếng Việt, khi nói tới công bằng, người ta thường liên tưởng đến
“sự bằng nhau”, tức sự bình đẳng. Thật ra, công bằng xã hội và bình đẳng xã
hội tuy có liên quan với nhau, nhưng đó là hai khái niệm hoàn toàn khác
nhau. Trong công bằng xã hội có thể có bình đẳng (là sự ngang bằng, bằng
nhau), và có thể có bất bình đẳng. Chẳng hạn, trước pháp luật, mọi công dân
đều bình đẳng, không phân biệt đối xử (về chủng tộc, giới tính, văn hóa, tôn
giáo hay tín ngưỡng v.v.); sự bình đẳng trong trường hợp này là một yêu cầu
của công bằng xã hội. Ngược lại, trên phương diện kinh tế, sự thụ hưởng của
mỗi cá nhân không thể bằng nhau (dựa trên nguyên tắc làm nhiều - hưởng

nhiều; làm ít - hưởng ít; không làm - không hưởng; hoặc gây thiệt hại - phải
bồi thường); sự chênh lệch hay sự bất bình đẳng về hưởng thụ do sự không
ngang nhau về phẩm chất và năng lực trong lao động, cống hiến trong trường
hợp này được pháp luật thừa nhận, xã hội đồng thuận và cũng là một yêu cầu
của công bằng xã hội.
Công bằng xã hội được xem xét trên nhiều phương diện: kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, đạo đức v.v. Công bằng xã hội không phải là vấn đề cá
nhân, mà là mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội (giữa cá nhân với cá nhân,
cá nhân với tập thể, với cộng đồng xã hội, giữa công dân với nhà nước, giữa
các nhóm xã hội v.v.). Khái niệm về công bằng xã hội, vì vậy, có nhiều ý kiến
khác nhau tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi xã hội nên mang tính chủ quan,
tương đối và đa diện. Có thể nêu ra một vài quan niệm khác nhau về công
bằng xã hội sau đây:


22

Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin, dưới chủ nghĩa xã
hội, công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người trong xã hội
chủ yếu về phương diện phân phối sản phẩm xã hội theo nguyên tắc: cống
hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Khi đề cập đến nguyên
tắc phân phối dưới chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ
nghĩa xã hội là công bằng, hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm thì không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà
nước giúp đỡ chăm nom” [35, tr.175]. Như vậy, vào thời của mình, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu
nói về công bằng xã hội thể hiện tập trung ở chế độ phân phối theo lao động
dưới chủ nghĩa xã hội, nghĩa là: “làm theo năng lực hưởng theo lao động”.
Còn về chế độ phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội- tức là thời
kỳ nằm ở nấc thang phát triển thấp hơn so với khi chủ nghĩa xã hội sẽ được

xây dựng thành công thì các ông chưa có đủ điều kiện để bàn tới. Và tất nhiên
với sự vận động và phát triển của chủ nghĩa xã hội, không phải trong mọi thời
điểm những quan niệm này bao giờ cũng giống nhau. Tiêu chuẩn cao nhất để
đo lường sự công bằng xã hội trong mỗi giai đoạn là ở sự hợp lý của nó só với
cơ sở thực tế và nhu cầu phát triển của xã hội. Đây chính là điều mà Đảng ta
đã từng bước bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động của quá
trình đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng chỉ rõ:
“Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội” [10, tr.74]. Hiện nay, mỗi
thành viên bình thường trong xã hội bắt buộc phải lao động và sự hưởng thụ
của họ được phân phối theo sự đóng góp sức lao động về số lượng và chất
lượng.


23

Liên hợp quốc đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI) và được sử
dụng khá phổ biến để đánh giá sự phát triển của một đất nước. Chỉ số này
được tính toán theo ba tiêu chí có tính bao quát, thể hiện được những yếu tố
quan trọng nhất trong phát triển con người, đó là tuổi thọ, trí tuệ và mức sống.
Những chỉ số đó cho thấy, công bằng xã hội không chỉ phản ánh các quan hệ
chính trị - xã hội và mức độ nhân văn của xã hội, mà còn phần nào phản ánh
cả xu hướng ổn định, bền vững của một nền kinh tế cũng như trật tự xã hội.
Đây là vấn đề cần được tính đến trên con đường phát triển của các quốc gia.
Như vậy, khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế được thừa nhận khá
thống nhất, khái niệm công bằng xã hội còn nhiều ý kiến tranh luận và được
diễn giải bằng nhiều khái niệm khác nhau. Các khái niệm trên đều có giá trị
làm rõ nội dung của công bằng xã hội. Tuy nhiên, sự đa dạng của các khái

niệm cho thấy công bằng xã hội được đánh giá trên cơ sở các yếu tố định tính
từ nhiều góc độ khác nhau. Theo tác giả Bùi Đại Dũng: “Để đánh giá sự công
bằng, đòi hỏi phải so sánh phần hưởng thụ của các cá nhân, các nhóm xã hội
với phần đóng góp, cống hiến của họ. Ở đây, phần hưởng thụ, về cơ bản, có
thể lượng hóa được một cách tương đối dễ dàng, còn phần đóng góp, cống
hiến, nhất là sự đóng góp, cống hiến về tài năng và trí tuệ thì rất khó có thể
lượng hóa một cách chính xác được. Đành rằng, lao động phức tạp là bội số
của lao động đơn giản, nhưng bội số hợp lý là bao nhiêu? Làm thế nào để so
sánh chất lượng, hiệu quả của các công việc khác nhau? Lấy tiêu chuẩn nào
để so sánh chất lượng cống hiến của hai người vào hiệu quả công việc chung người lao động trực tiếp và người tổ chức, quản lý lao động - để đánh giá mức
độ hưởng thụ của hai người là công bằng hay không công bằng?” [1, tr.1314]. Thêm vào đó sự đóng góp của cá nhân không những cần phải được xem
xét trong hiện tại, mà còn phải tính đến cả sự đóng góp trong quá khứ và
tương lai, thí dụ, sự hy sinh xương máu của những anh hùng, liệt sĩ cho độc


24

lập tự do của Tổ quốc, những đóng góp của các nhà chính trị, khoa học, nghệ
thuật mà hiệu quả chưa thể tính được trong hiện tại nhưng lại có ý nghĩa rất
lớn trong tương lai. Theo đó, “Sự đánh giá đơn giản, hời hợt vấn đề này có
thể dẫn đến việc ngộ nhận công bằng thành bất công hoặc ngược lại” [1,
tr.14]. Do vậy, có thể nói, xác định thế nào là công bằng, thế nào là bất công
không chỉ là vấn đề lý luận, mà còn là vấn đề thực tiễn. Các tiêu chí định tính
này chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố tập quán, tâm lý xã hội và có thể đưa
tới các kết quả rất khác biệt từ các đối tượng đánh giá khác biệt. Đây là một
hạn chế của việc sử dụng các khái niệm trên trong bối cảnh có sự chênh lệch
khá xa về trình độ nhận thức, tập quán xã hội, hệ thống pháp luật giữacác
nước trên thế giới hiện nay. Có thể nói, công bằng xã hội là khái niệm mang
tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc
gia.

Khái quát lại, có thể hiểu công bằng xã hội là một giá trị cơ bản định
hướng để con người sinh sống và phát triển trong các quan hệ giữa các thành
viên trong cộng đồng về vật chất cũng như về tinh thần. Đó là những giá trị
cơ bản trong các quan hệ xã hội như: quan hệ trong kinh tế, tức là sự phù hợp
tương xứng giữa lao động, đóng góp của cá nhân, nhóm xã hội vào quá trình
sản xuất với sự hưởng thụ những kết quả của sản xuất là phương diện cơ bản
nhất; trong chính trị, pháp quyền của công bằng xã hội là sự tương xứng giữa
công lao, tham gia của những người đi chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc với sự đánh giá, ghi công, đền đáp
của xã hội, hoặc giữa sự thiệt hại mà cá nhân gây ra cho xã hội với những
hình phạt của xã hội đối với họ; trong văn hóa, xã hội là cơ hội tham gia vào
quá trình giáo dục, khám chữa bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ
thuật, thể dục - thể thao.
Từ những phân tích nói trên, tác giả quan niệm: Công bằng xã hội là


25

một khái niệm mang tính lịch sử, bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Công bằng xã hội là sự bình đẳng phân phối thu nhập, bình đẳng về điều kiện
thực hiện cơ hội tiếp cận nguồn lực phát triển và bình đẳng về hệ thống an
sinh xã hội.
Nói một cách cụ thể, khái niệm “Công bằng xã hội” có những nội hàm
sau:
- Thứ nhất, công bằng xã hội trong phân phối thu nhập.
Thực tiễn cho thấy phân phối thu nhập đóng vai trò rất quan trọng trong
mọi xã hội cũng như trong mọi hình thái kinh tế vì phân phối thu nhập hỗ trợ
cho tiêu dùng và quá trình tái sản xuất, đảm bảo cho sự tồn tại của loài người.
Công bằng trong phân phối thu nhập có nghĩa mỗi cá nhân được đánh giá
đúng mức với công sức mà họ đã bỏ ra, nhằm nâng cao mức sống của họ, loại

bỏ tình trạng không làm mà vẫn được hưởng lợi, lao động vất vả mà cuộc
sống vẫn khó khăn, thiếu thốn. Phân phối thu nhập công bằng đối lập với chủ
nghĩa bình quân trong phân phối: mọi người có thu nhập tương tự như nhau
bất kể năng lực và nỗ lực của họ rất khác nhau. Chủ nghĩa bình quân trong
phân phối sẽ triệt tiêu động lực học tập, làm việc và sáng tạo của các cá nhân,
mà hệ quả tất yếu là một nền kinh tế trì trệ. Như vậy, công bằng xã hội trong
phân phối thu nhập đảm bảo tiền đề kinh tế - kỹ thuật để khuyến khích làm
giàu theo pháp luật đối với mọi chủ thể tham gia “sân chơi” thị trường.
Những cá nhân, cộng đồng, tập thể, doanh nghiệp có đủ năng lực và nguồn
lực hợp pháp được phép làm giàu hợp pháp để tối ưu hóa lợi ích cá nhân. Đó
chính là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Như đã nêu ở trên, công bằng trong phân phối thu nhập là một hình
thức biểu hiện cụ thể của công bằng xã hội về khía cạnh kinh tế. Công bằng
trong phân phối thu nhập là sự phân phối một cách hợp lý, phản ánh đúng
tương quan giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa trách nhiệm và lợi ích. Phân


×