Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng TMCP Công Thương chi nhánh ĐắkLắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.48 KB, 85 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam
đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng quy mô
và chất lượng. Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích
cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển. Như vậy hệ
thống ngân hàng thương mại thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ
chế kinh tế đóng góp to lớn vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế xã hội ở nước ta.
Hiện nay ở nước ta, thị trường chứng khoán chưa phải là kênh dẫn vốn hiệu quả và
chủ yếu, vậy nên vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn
phải dựa chủ yếu vào nguồn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân
hàng thương mại với lợi thế về mạng lưới, đối tượng khách hàng của các ngân hàng
thương mại không chỉ là các công ty doanh nghiệp mà còn có các thành phần tư
nhân hộ gia đình. Một mặt họ là những người cho ngân hàng vay tiền, một mặt họ
cũng chính là những người vay tiền của hệ thống ngân hàng thương mại. Do vậy, hệ
thống ngân hàng thương mại trở thành kênh cung ứng vốn hiệu quả cho nền kinh tế
trong giai đoạn hiện nay. Từ đó vấn đề nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng
thật sự trở thành vấn đề đang rất được quan tâm.
Hòa vào nhịp đổi mới của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh Ngân hàng
Công thương ĐắkLắk cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên nhìn vào kết quả
hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy một số vấn đề cần phải khắc phục
trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỉ trọng ngày càng
giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có tăng lên trong những năm gần
đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa
đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỉ trọng
cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín


dụng ngắn hạn tại chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương ĐắkLắk là điều rất cần


thiết để chi nhánh phát triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh trên, sau một thời gian học tập nghiên cứu, cùng với
việc được xem xét, tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại chi nhánh ngân hàng
TMCP Công Thương chi nhánh ĐắkLắk trong thời gian thực tập vừa qua, tôi quyết
định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng TMCP
Công Thương chi nhánh ĐắkLắk”

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về hoạt động cho vay ngắn hạn
trong ngân hàng thương mại.
- Đánh giá chất lượng hoạt động cho vay ngắn hạn tại ngân hàng TMCP Công
thương – chi nhánh ĐắkLắk.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại ngân
hàng TMCP Công thương – chi nhánh ĐắkLắk.

1.3. Phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Phạm vi về không gian
Luận văn được nghiên cứu tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam –
chi nhánh ĐắkLắk, số 35 Nguyễn Tất Thành, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh ĐắkLắk.
1.3.2. Phạm vi về thời gian
Thời gian của số liệu thu thập được sử dụng trong đề tài là trong ba năm:
2009, 2010 và 2011.
1.3.3. Phạm vi về nội dung
Luận văn nghiên cứu về cho vay ngắn hạn tại ngân hàng TMCP Công
thương – Chi nhánh ĐắkLắk.


PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận

2.1.1. Tổng quan về tín dụng ngân hàng
2.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế hàng hóa, trong cùng một thời gian luôn có những người
tạm thời thừa vốn, có nguốn vốn nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó cũng
có một số người thiếu vốn và có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm phát sinh mối
quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là dịch chuyển vốn từ nơi tạm thừa sang nơi tạm
thiếu với điều kiện là hoàn trả vốn và lãi tiền vay do sử dụng vốn vay. Hay nói cách
khác, tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển
giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời
bên nhận tiền cam kết hoàn trả theo điều kiện đã thoả thuận. Tín dụng đã hình thành
và ra đời từ rất lâu. Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội loài người, tín dụng
cũng đã có những bước phát triển qua nhiều hình thức từ thấp lên cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Cho đến ngày nay, đã hình thành nên nhiều loại tín dụng có trình độ
cao như: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu
dùng… Chúng bổ sung lẫn nhau và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số: 47/2010/QH12) thì: Cấp
tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết
cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho
vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác. [1]
Theo Mác thì: Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa các chủ thể
kinh tế có ngân hàng làm trung tâm. Dưới hình thức này quan hệ tín dụng được thực
hiện thông qua hoạt động của ngân hàng. Theo đà phát triển của nền kinh tế, hình
thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành hình thức chủ yếu không chỉ ở trong
nước mà còn trên trường quốc tế.


Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện thì: Tín dụng ngân hàng là quan
hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời
hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín

dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:


Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử

dụng.


Sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay có thời hạn.



Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.[3]

Qua đó ta thấy:
Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin người cho
vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định
và do đó có khả năng trả được nợ. Với ngân hàng, để có thể tin được vào khách
hàng, ngân hàng luôn thẩm định định đối khách hàng trước khi cho vay. Nếu khâu
này thực hiện một cách khách quan, chính xác thì việc cho vay của ngân hàng gặp ít
rủi ro và ngược lại.
Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc trưng này
của tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Để đảm bảo thu hồi nợ đúng
hạn, ngân hàng xác định thời hạn cho vay dựa vào quá trình luân chuyển vốn của
khách hàng và tính chất vốn của ngân hàng. Nếu ngân hàng định kỳ hạn nợ một
cách phù hợp với khách hàng thì khả năng trả nợ đúng hạn cao và ngược lại.
Tín dụng dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Sở dĩ như vậy là vì vốn
hoạt động của ngân hàng chủ yếu là huy động từ bên ngoài, vốn chủ sở hữu ít khi
được sử dụng để sản xuất kinh doanh mà được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào tài
sản cố định. Chính vì vậy, sau một thời gian nhất định ngân hàng phải trả lại cho

người gửi ngân hàng. Mặt khác ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí như
trả lương, khấu hao… Do đó, người vay ngoài việc trả gốc còn phải trả cho ngân
hàng một khoản lãi. Đó là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, là cơ sở để ngân
hàng tồn tại và phát triển.


Khi cho vay, cái mà ngân hàng thu được là lợi nhuận sau khi đã trừ đi tất cả
các khoản phí. Đồng thời đi kèm với lợi nhuận dự kiến có rủi ro. Rủi ro tín dụng sẽ
xảy ra khi khách hàng không thực hiện đầy đủ những cam kết trong hợp đồng tín
dụng (không trả đúng hạn hoặc không trả). Ngân hàng luôn phải xem xét mối quan
hệ giữa lợi nhuận và rủi ro để định ra một mức lãi suất phù hợp. Rõ ràng, với một
dự án có độ rủi ro cao hơn thì chi phí nợ của doanh nghiệp đó phải cao hơn và
ngược lại.[4]
2.1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
a. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
• Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm và được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt VLĐ (vốn lưu động) tạm thời của các doanh nghiệp, phục
vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình.
• Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5
năm và sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang
thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời hạn thu hồi
vốn nhanh. Tín dụng trung hạn còn là nguồn quan trọng hình thành nên vốn lưu
động của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
• Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng nhu
cầu đầu tư dài hạn như: xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất,…); xây
dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cảng biển, sân bay,…); cải tiến và mở rộng có quy
mô lớn. Do thời hạn đầu tư thường kéo dài nên thường áp dụng hình thức giải ngân
nhiều lần theo tiến độ dự án. Nhìn chung, tín dụng dài hạn chịu rủi ro rất lớn, bởi
thời hạn càng dài thì những biến động không dự tính có thể xảy ra càng lớn.
b. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng

• Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo
đảm của người thứ ba. Hình thức này áp dụng đối với những khách hàng không đủ
uy tín, khi vay phải có tài sản đảm bảo hoặc có người bảo lãnh. Tài sản đảm bảo
hoặc bảo lãnh của người thứ ba là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu


dự phòng khi nguồn thu chính (dòng tiền) của con nợ thiếu hụt, tạo áp lực để con nợ
trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
• Tín dụng không có bảo đảm: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế
chấp hay không có bảo lãnh của bên thứ ba. Loại tín dụng này áp dụng cho những
khách hàng truyền thống, có hệ số tín nhiệm cao.
c. Căn cứ vào mục đích sử dụng
• Tín dụng bất động sản: đây là các khoản đầu tư vào bất động sản.
• Tín dụng công thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cho các
doanh nghiệp trang trải các chi phí mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả
lương.
• Tín dụng nông nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt
động nông nghiệp, nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu mua mùa màng và
chăn nuôi gia súc.
• Tín dụng tiêu dùng: đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân, hộ gia
đình để mua sắm hàng hoá tiêu dùng như xe hơi, trang thiết bị trong nhà,…
d. Căn cứ vào chủ thể vay vốn
• Tín dụng doanh nghiệp (tín dụng bán buôn): gọi là bán buôn vì những
doanh nghiệp thường vay với những khoản vay có giá trị lớn.
• Tín dụng cá nhân, hộ gia đình (tín dụng bán lẻ): gọi là bán lẻ vì những
cá nhân thường vay với những khoản vay có giá trị nhỏ nhằm mục đích tiêu dùng.
• Tín dụng các tổ chức tài chính: đây là các khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Những
khoản vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay, nên chúng dùng để trả nợ
hoặc cho vay lại.

e. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay


Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn

gốc và lãi vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này thường áp
dụng cho những khoản vay lớn và có thời hạn dài.




Tín dụng hoàn trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ hoàn

trả gốc và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những
khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn.


Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà khách hàng có thể

hoàn trả bất kỳ lúc nào, loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu
chi, thẻ tín dụng.
f. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
• Tín dụng bằng tiền: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền.
Tín dụng bằng tiền gọi là cho vay.
• Tín dụng bằng tài sản: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng
tài sản. Hình thức tín dụng này chính là cho thuê tài chính.
• Tín dụng bằng uy tín: là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là uy tín.
Hình thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.
g. Căn cứ vào phương thức cho vay
• Cho vay theo món vay: là loại tín dụng của ngân hàng, theo đó ngân

hàng xem xét, quyết định cho vay và khách hàng phải lập hồ sơ vay theo từng món
vay. Phương thức cho vay này áp dụng đối với những khách hàng nào không có nhu
cầu vay vốn thường xuyên và tốc độ quay vòng của vốn tương đối chậm.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại tín dụng ngân hàng theo đó
ngân hàng xem xét, quyết định cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định.
Khách hàng chỉ cần lập hồ sơ xin vay vào đầu kỳ kế hoạch, còn trong kỳ, mỗi khi
phát sinh nhu cầu vay trong phạm vi hạn mức tín dụng được cấp, không cần phải lập
hồ sơ mà chỉ cần lập các chứng từ chứng minh nhu cầu vay vốn để ngân hàng xem
xét phát tiền vay theo hạn mức.[4]
2.1.1.3. Chức năng và vai trò của tín dụng
a. Chức năng của tín dụng
Có thể nói, phân phối lại vốn tiền tệ và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển là chức năng cơ bản và quan trọng hàng đầu của hoạt động cho vay. Nhờ vào


chức năng này mà vốn tiền tệ đã được điều hoà từ nơi thừa đến nơi thiếu để phát
triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng đầu.
Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ lãng phí và tốn kém chi phí cơ
hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu sinh lợi. Khi ấy, vốn tiền tệ cần được đem
cho vay hay phân phối lại từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi thiếu hụt vốn.
Ngược lại, khi thiếu hụt vốn cần có sự bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục và tăng trưởng như hoạch định.
Khi ấy, nhờ vào hoạt động cho vay mà việc điều hoà hay phân phối lại vốn tiền tệ có
thể thực hiện được một cách dễ dàng và nhanh chóng.[8]
b. Vai trò của tín dụng
-

Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và


vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là nguồn tài trợ hiệu
quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể vay
vốn được từ ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình đối
với ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Muốn vậy, trong các dự án
kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải chọn dự án có mức sinh lãi cao nhất. Để
các dự án khả thi, doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường khai thác thông tin để định
lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu
quả kinh tế của dự án, phương án.
Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là khâu giám sát
sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng, bắt buộc doanh nghiệp phải
sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải nhạy bén với những thay đổi của thị trường,
từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, vai trò tư vấn của cán bộ tín
dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được những khó khăn, vượt qua khó
khăn để đứng vững, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.


-

Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn,

làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế tạo cơ chế phân phối vốn một
cách có hiệu quả.
Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình SXKD của các doanh nghiệp
luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự
trữ vật tư hàng hoá cho quá trình SXKD trước đó. Vì vậy, luân chuyển tiền tệ của
doanh nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu vốn. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn
rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách... được
NHTM huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu
vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho

nhu cầu chi của ngân sách nhà nước khi chưa có nguồn thu.
Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho vay
các dự án có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên một cơ
chế phân phối vốn hiệu quả.
-

Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh tế và các chính sách

tiền tệ.
Một trong những đặc điểm quan trọng của NHTM là khả năng tạo tiền thông
qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn tăng khối lượng tiền cung
ứng thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền kinh tế và
ngược lại. Do vậy thông qua hình thức tín dụng NHNN có thể kiểm soát được khối
lượng tiền cung ứng trong lưu thông.
-

Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao

lưu kinh tế quốc tế.
Trước xu thế quốc tế hoá, sự giao lưu kinh tế giữa các nước luôn được đặt ra.
Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán với các
thành phần khác trong nền kinh tế mà còn có những quan hệ xuất nhập khẩu với các
doanh nghiệp nước ngoài. NHNN có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông qua hình
thức bảo lãnh, cho vay... đối với các doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên trường quốc tế.


Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của một đất nước, nó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.[9]
2.1.2. Tín dụng ngắn hạn

2.1.2.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một năm.
NHTM là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp.
Các khoản vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như về lãi suất so với vay
trung và dài hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi
trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các
khoản chi phí sản xuất.
2.1.2.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ
vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ
trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu
cầu về vốn lưu động cao hay thấp tùy thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và
khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù cao hay thấp, doanh
nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít nhiều
thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay
ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây:
a. Tín dụng ứng trước
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi của
chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản, thấu chi,
tín dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển)..Nhìn chung, các khoản tín
dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động,nghĩa là không thực
hiện một tài sản xác định nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
- Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản: Loại tín dụng này là
một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong đó khách


hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định. Trong hình thức
này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho họ một tín dụng khoản. Khi

mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy
tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là
nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi
trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác.
Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân
hàng đối với khách hàng mà có thể ngân hàng đưa ra một trong hai hình thức sau:
+ Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.
Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh giá khách
hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản
phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý.
+ Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở
có tài sản thế chấp (do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo lãnh của
một hay nhiều người khác.
-

Thấu chi

Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đồng tín
dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho phép khách
hàng được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất định. Thấu chi là kỹ
thuật cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp được sử dụng vốn một cách linh hoạt,
các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể
thực hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo
chứng.
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu cầu
về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín dụng thấu chi
ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất chính xác về sự phát
sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
-


Tín dụng vãng lai


Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam. Có
rất nhiều ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc quy tụ
những thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng lai, để hiểu
thêm những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó rút ra những thích
ứng với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và phát triển đa dạng các
loại tín dụng của NHTM.
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng
vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình :
bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử dụng với số
lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng. Việc tính
số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau
những khoảng thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các
khoản chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng .
-

Tín dụng thời vụ
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm nào

đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm khác hoặc
ngược lại việc sản xuất được rải đều trong cả năm để tránh chi phí đột biến và dàn
đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành trong một thời gian rất
ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ
vốn lưu động và nó được thoả mản bằng tín dụng thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các thời
vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài trợ thời vụ
cụ thể các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu vượt quá

nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà
nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu
động phải bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm
đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì chắc chắn là
một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc không tận
dụng số tư bản thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của vốn này do


đó cũng phải gánh chịu những hậu quả.
b. Cho vay dựa trên chuyển nhượng trái quyền
Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong quan
hệ thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái khi giấy nợ
đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại.
-Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các thương
phiếu đó được chiết khấu tại ngân hàng của họ.
-Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách hàng.
Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể giữ các
phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng chiết khấu thương
các phiếu.
-Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất sớm
và mãi đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến. Đây là
một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho
vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản
có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và
lệnh phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua. Đây
chính là tiền đề để người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn
trả cho ngân hàng. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho
khách hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương
phiếu, ngân hàng phải xem xét kỹ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỹ các hối
phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.

Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, được
thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu để đổi
lấy một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các loại:
Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua uỷ nhiệm
thu…
c. Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng


Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa ra bằng
việc phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả thay cho người
đi vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp đó là sự xác nhận khoản
tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi thực hiện cho vay qua cam kết bằng
chữ ký, ngân hàng không phải xuất quỹ đễ cho khách hàng sử dụng một khoản tiền
nhất định, mà chỉ đưa ra một cam kết bảo lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như vậy,
chỉ khi nào con nợ không trả được nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông thường để
thực hiện nghiệp vụ này thì ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo một tỷ lệ so
với vốn pháp định. Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tính theo tỷ lệ phần trăm
trên tổng giá trị bảo lãnh.
2.1.2.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi
chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền kinh tế,
các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn có
vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là một nước trong giai
đoạn đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện:
a. Đối với nền kinh tế
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ
những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh
tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín

dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mẽ của các tổ chức tài chính
phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ đầu tư,
công ty tài chính. Thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những nguồn vốn và
các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một
nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn hạn ngày càng phát triển
mạnh mẽ.
b. Đối với các doanh nghiệp
Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động


kinh doanh được liên tục, không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu
và các khoản chi của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Trong nền kinh
tế có những thời điểm có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời và cần bổ sung
ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp
bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây
lắp…hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín
dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản xuất
không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với các doanh
nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh nghiệp tận dụng
được thời cơ phát triển sản xuất. Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn
trả gốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân
hàng và tạo lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh
nghiệp phải hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của
doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể
rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên
thị trường.
Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn

vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước
để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất
của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa
sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán
hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả
cho ngân hàng.
Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được
nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp làm
ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển doanh


nghiệp.
c. Đối với ngân hàng
Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo
nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để tạo
nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của
các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các vấn đề: Phải tạo
được nguồn thu bù đắp được các chi phí (chi phí huy động vốn, chi phí trả lương,
chi phí quản lý... Mặt khác phải đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Tín
dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị giải quyết vấn đề này.
2.1.3. Chất lượng tín dụng
2.1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Vận động trong cơ chế thị trường để có thể tồn tại, phát triển và dành ưu thế
trong cạnh tranh, thích ứng với thị trường và sự yêu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng, các NHTM luôn phải tiến hành đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của
mình nhằm thu hút được khách hàng. Chính sách sản phẩm mà trong đó tập trung
nhiều vào việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp thiết
thực, hữu hiệu nhất cho hầu hết các doanh nghiệp hiện nay.
Có thể nói, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu hiện
ở mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho

người cung cấp. Theo cách đó, trong kinh doanh TDNH, chất lượng tín dụng được
thể hiện ở sự thỏa mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng.
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng các yêu cầu hợp lí của khách
hàng có lựa chọn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng. Nói cách khác, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng đối với sự phát triển của môi


trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trong quá trình cạnh
tranh để tồn tại.
Nói cụ thể hơn, chất lượng tín dụng chính là chất lượng các món vay, được
đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng có mục đích,
phục vụ cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng hạn,
bù đắp được chi phí và có lợi nhuận, có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh
tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Dựa vào lợi ích các bên tham gia trong quan hệ tín dụng, có thể xem xét khái
niệm chất lượng tín dụng trên ba khía cạnh:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mục đích sử dụng của
khách hàng với lãi suất, kỳ hạn nợ hợp lý. Thủ tục giản đơn thu hút được khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Chính phủ, với sự phát triển kinh tế xã hội: Chất lượng tín dụng
được thể hiện ở việc tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần
giải quyết việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín
dụng với tăng trưởng kinh tế.
- Đối với NHTM: Phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực
lực của bản thân ngân hàng, đảm bảo được nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi
của tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động, mang lại

lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng không phải cái tự nhiên có mà nó là kết quả của một quy
trình kết hợp giữa con người với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích
chung, do đó chất lượng tín dụng cần có sự quản lý.
Quản lý chất lượng nói chung về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được
sử dụng nhằm đạt được và duy trì chất lượng của một loại sản phẩm, quy trình hoặc
dịch vụ, nó bao gồm theo dõi, tìm hiểu và loại trừ những nguyên nhân những trục
trặc trong việc cấp tín dụng để các yêu cầu của khách hàng liên tục được đáp ứng.
Đảm bảo chất lượng là việc ngăn ngừa những trục trặc về chất lượng bằng các hoạt


động có kế hoạch và có hệ thống (gồm cả công tác tư liệu), bao gồm việc thiết lập
một hệ thống quản lý chất lượng tốt, thích hợp, có khả năng kiểm tra, kiểm soát và
đánh giá bản thân sự hoạt động của cả hệ thống.
Để có chất lượng tín dụng cao, cần phải có sự quản lý chất lượng đồng bộ.
Đây là một cách quản lý mới không chỉ đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn cải tiến
tính hiệu quả và linh hoạt của toàn bộ ngân hàng nhằm ngày càng thoả mãn đầy đủ
yêu cầu của khách hàng trong mọi công đoạn. Để làm được điều này mỗi thành viên
trong ngân hàng thương mại cần phải hiểu và thực hiện tốt quy trình quản lý chất
lượng tín dụng.
Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối rộng. Để có chất
lượng tín dụng thì trong hoạt động tín dụng phải thực hiện có hiệu quả và quan hệ
tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín. Cụ thể hơn, chất lượng
tín dụng là kết quả đạt được với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng.
Nhờ hiểu đúng được bản chất của chất lượng tín dụng sẽ giúp các ngân hàng
thương mại phân tích, đánh giá đúng được hiệu quả tín dụng ở hiện tại cũng như xác
định được chính xác nguyên nhân của những tồn tại mà có thể đưa ra những biện
pháp quản lý hữu hiệu để có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh.[8]
2.1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng
Xu hướng cho vay cho thấy rằng cơ hội cho vay của các ngân hàng đối với

các khách hàng có rủi ro thấp đã giảm. Các giấy tờ thương mại, chứng khoán và
cạnh tranh phi ngân hàng đã đẩy ngân hàng sang các loại khách hàng có độ rủi ro
cao hơn thay thế những khách hàng truyền thống.
Ví dụ: những người vay là doanh nghiệp lớn và ổn định đã từng có quan hệ
trong danh mục cho vay của ngân hàng đã chuyển sang các nguồn thị trường mở
như thị trường như thị giấy tờ thương mại và trái phiếu nhằm giảm chi phí giao dịch
của họ.
Các ngân hàng đã tìm cách thay thế đối tượng khách hàng này bằng những
khách hàng vay nhỏ và kém ổn định hơn. Như vậy, do các khoản mục cho vay ngày
càng có độ rủi ro cao hơn và không ổn định do tính chất cạnh cao và không ổn định


của nền kinh tế. Do vậy việc đánh giá chất lượng tín dụng đối với một ngân hàng là
hết sức quan trọng. Bởi chất lượng tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân
hàng tốt hay xấu, làm cơ sở để để đánh giá ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất
lượng tín dụng cũng giúp cho ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt
động để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng không những làm cho ngân hàng tăng thu
nhập mà còn giúp ngân hàng được an toàn. Phương pháp đánh giá chất lượng tín
dụng mang tính khoa học, nó vừa cụ thể vừa trừu tượng nên để đánh giá chất lượng
tín dụng người ta dựa vào 2 hệ thống chỉ tiêu: Chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định
tính.
a. Nhóm chỉ tiêu định lượng
Để xem xét chất lượng hoạt động của một Ngân hàng, ta sử dụng rất nhiều
các chỉ tiêu khác nhau nhưng có thể sử dụng các chỉ tiêu cơ bản sau:
-

Chỉ tiêu dư nợ ngắn hạn và doanh số cho vay

Tỷ lệ dư nợ tín dụng


Dư nợ ngắn hạn

=

*100

Tổng dư nợ

ngắn hạn(%)

Tỷ lệ doanh số cho vay

Doanh số cho vay

=

*100

Tổng doanh số cho vay

ngắn hạn(%)

Hai chỉ tiêu này cho biết cơ cấu dư nợ và cơ cấu doanh số cho vay của tín
dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ và tổng doanh số cho vay. Từ đó có thể so sánh
hiệu quả hoạt động tín dụng ngắn hạn với các loại tín dụng trung và dài hạn
-

Chỉ tiêu hệ số thu nợ
Doanh số thu nợ


Hệ số thu nợ (%) =

* 100
Doanh số cho vay


Hệ số này phản ánh công tác thu nợ là tốt hay chưa tốt, hệ số thu nợ cũng
phản ánh khả năng trả nợ của khách hàng. Hệ số này càng lớn càng tốt, bởi vì nếu
hệ số lớn cho thấy khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích nên công tác thu hồi nợ
của ngân hàng tốt, điều này nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt.
-

Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Tổng dư nợ cho vay

Hiệu suất sử dụng vốn (%) =

* 100

Tổng nguồn vốn huy động
Phân tích cơ cấu cho vay trong tổng nguồn vốn huy động là việc xem xét đánh
giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng
như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại có
thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ đó, có thể quyết định quy mô, tỷ
trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay,
vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có thể.
-

Chỉ tiêu nợ xấu/ tổng dư nợ


Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của NHTM ở một
thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu này được
tính theo công thức dưới đây:
Nợ xấu
Chỉ tiêu nợ xấu (%) =

* 100
Tổng dư nợ

Chỉ số này đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Những
ngân hàng có chỉ số này thấp có nghĩa là chất lượng tín dụng của ngân hàng này
cao. Thực tế, rủi ro trong kinh doanh là không tránh khỏi, nên ngân hàng thường chấp
nhận một tỷ lệ nhất định được coi là giới hạn an toàn. Và tỷ lệ được chấp nhận là 5%.
-

Chỉ tiêu sinh lời từ hoạt động tín dụng


Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tỷ lệ sinh lời từ tín dụng (%) =

* 100
Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn tín dụng, nêu lên số lãi
mà ngân hàng thu được từ 1 đồng dư nợ. Một khoản tín dụng ngắn hạn hay trung
dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận cho
ngân hàng. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ các khoản cho vay của Ngân hàng sinh lời
và ngược lại chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các khoản vay không sinh lời, đồng nghĩa

với chất lượng tín dụng chưa tốt. Thông thường trong hoạt động ngân hàng, nếu
chất lượng tín dụng NHTM tốt, tỷ lệ nợ xấu thấp thì lợi nhuận từ hoạt động tín
dụng sẽ cao hơn khi cùng một mức dư nợ so với các ngân hàng khác.
-

Chỉ tiêu lợi nhuận từ tín dụng trên tổng lợi nhuận
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng

Tỷ lệ LN từ tín dụng/Tổng LN (%) =

*100
Tổng lợi nhuận

Chỉ tiêu này cho biết mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng vào toàn bộ
kết quả sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Nó cho biết cứ 100 đồng tổng lợi nhuận
thì có bao nhiêu đồng do hoạt động tín dụng mang lại. Tỷ lệ cao phản ánh chất
lượng tín dụng khả quan nhưng đồng nghĩa với việc ngân hàng chấp nhận đối mặt
với nguy cơ rủi ro tiềm tàng.
Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua phần lợi nhuận mà
ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng ngắn hạn.
Lợi nhuận tín dụng ngắn hạn
Tỉ lệ lợi nhuận
tín dụng ngắn hạn(%)

=
Tổng lợi nhuận của ngân hàng

Trong kinh doanh tín dụng phải thực hiện lãi suất dương, có nghĩa là lãi suất
đầu ra phải cao hơn lãi suất đầu vào cộng với chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Nguồn



thu từ hoạt động kinh doanh là nguồn thu chủ yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Ngân hàng có thể tùy từng thời gian, điều kiện kinh doanh cụ thể để có chính sách
khách hàng hợp lý, mở rộng đầu tư tín dụng, thu hút khách hàng nhưng vẫn đảm bảo
cho hoạt động tín dụng có hiệu quả cao nhất. Lợi nhuận do tín dụng mang lại chứng
tỏ các khoản vay không thu hồi được gốc mà còn thu hồi được lãi, đảm bảo độ an
toàn của đồng vốn cho vay.
Các nhóm chỉ tiêu trên có được thực hiện hay không là tùy thuộc vào ý thức
chấp hành thể lệ tín dụng, qui trình kĩ thuật cho vay.
b. Nhóm chỉ tiêu định tính
Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể
lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được. Như:
- Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với
thực tế hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn.
- Hệ thống tranh thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ
một cách thuân lợi, hiệu quả.
- Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp, đây là
yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng.
- Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm bảo quản
lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng, vừa thuận tiện với khách hàng, vừa đảm bảo tín
dụng cho ngân hàng.
- Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan hệ
với các khách hàng truyền thống.[7]
2.1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng
NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế và có quan hệ mật thiết với sự phát
triển của nền kinh tế. NHTM có quan hệ rất rộng với nền kinh tế, do đó để đánh giá
chất lượng tín dụng của ngân hàng thì chúng ta phải hiểu biết về những nhân tố tác
động đến nó. Những nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng bao gồm



những nhân tố chủ quan và những nhân tố khách quan. Các nhân tố này được chia
thành 3 nhóm:
a. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng
Khách hàng người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc có nhiều khách hàng đủ điều
kiện vay, sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả, thanh toán nợ và lãi đúng hạn sẽ làm
cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Những yếu tố từ ngân hàng ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng, đó là: Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp
Trong sản xuất kinh doanh phải có mọi phương án và tính đến mọi yếu tố có
liên quan như vật liệu được cung cấp từ đâu, điều kiện giao thông vận tải có thuận
lợi không, cơ sở hạ tầng như thế nào, hàng làm ra có tiêu thụ và cạnh tranh được
không vv... Những điều đó cán bộ kinh doanh không hiểu biết sẽ dẫn tới làm ăn thua
lỗ. Như vậy khi năng lực quản lý kinh doanh bị hạn chế thì các phương án sản xuất
kinh doanh là không phù hợp với thực tế do đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp
kém ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín dụng.
-

Khả năng điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp:

Hiện nay hầu hết các khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực hiện
các nguyên tắc và quy định cho vay thế chấp của ngân hàng. Theo pháp lệnh thì khi
khách hàng vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và thực hiện đúng
chế độ hạch toán kinh tế. Trên thực tế 80% các pháp nhân và thể nhân khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh và 100% tài sản của doanh nghiệp nhà nước không có chứng
nhận sở hữu. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước vốn tự có rất bé. Trong khi đó chức
năng nhiệm vụ trong giấy phép kinh doanh là rất lớn, yêu cầu vay vốn gấp 20-50 lần
vốn tự có. Thực tế nhiều bộ phận khách hàng khi vay không thực hiện đúng pháp
lệnh về cho vay. Điều đó làm cho không có một ràng buộc pháp lý nào giữa ngân

hàng và khách hàng và làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên xem xét từ khía cạnh trả nợ của khách hàng thì hiệu quả sản xuất


kinh doanh của doanh nghiệp mới là quan trọng. Khả năng trả nợ của ngân hàng ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn, bởi vì đặc trưng của tín
dụng ngắn hạn là thời gian khoản vay ngắn, do đó việc xác định khả năng trả nợ của
khách hàng là rất quan trọng. Do đó để đảm bảo chất lượng tín dụng, ngân hàng chỉ
bỏ vốn vào những dự án khả thi, phù hợp với tình hình tài chính, điều kiện thực tế
của doanh nghiệp để có thể thu được lợi nhuận.
-

Đạo đức của người vay:

Các ngân hàng sẽ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận yếu tố
liên quan đến tính chân thật của người vay trong việc trả nợ. Tuy nhiên tính chân
thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món cho vay đã được
thực hiện. Rủi ro đạo đức xảy ra khi khách hàng sử dụng món vay vào mục đích
khác nhiều rủi ro hơn. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
b. Các nhân tố thuộc về phía ngân hàng
-

Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng
sinh lời từ hoạt động tín dụng dựa trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật,
đường lối chính sách của nhà nước. Điều này có nghĩa là quy mô và chất lượng tín
dụng tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng của ngân hàng có đúng đắn hay không.
-


Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm các quy định phải thực hiện trong quá trình cho

vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng có được bảo
đảm hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các quy định ở từng bước. Sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng đảm bảo vốn tín dụng được
luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch. Ngoài ra, việc linh hoạt trong quy trình tín
dụng cũng sẽ gây cảm tình cho khách hàng và từ đó quy mô tín dụng có cơ sở được
mở rộng.


-

Chất lượng nhân sự
Chất lượng nhân sự chính là trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp,

marketing của người cán bộ ngân hàng. Một ngân hàng với một đội ngũ lãnh đạo tốt
sẽ đưa ra được những chính sách hợp lý và phương thức phát triển phù hợp với
khuynh hướng phát triển của nền kinh tế. Một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ giúp
ngân hàng có được những khoản cho vay với chất lượng cao nhất. Các cán bộ của
các phòng ban, các bộ phận chức năng khác sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng các
hoạt động kinh doanh của mình, tạo dấu ấn trong lòng thị trường.
-

Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh

của khách hàng, rủi ro mà khách hàng có thể gặp phải... Thông tin càng đầy đủ,
nhanh nhạy, chính xác bao nhiêu thì khả năng phòng ngừa rủi ro của ngân hàng

càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao. Mặt khác, một ngân hàng với
lượng thông tin phong phú có thể đưa ra những tư vấn hữu ích cho khách hàng. Và
đây chính là yếu tố mở rộng quy mô tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập
được từ rất nhiều nguồn: từ Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước,
từ phòng thông tin tín dụng của các ngân hàng thương mại, qua báo chí, các tổ chức
nghề nghiệp, qua việc cán bộ tín dụng trực tiếp thu thập tại cơ sở sản xuất kinh
doanh của khách hàng, qua báo cáo tài chính của khách hàng.
-

Công tác thẩm định dự án
Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức

tạp. Do công việc này là cơ sở để quyết định có cấp tín dụng hay không cho nên
chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng.
Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao tức là nhân viên tín dụng không
xác định thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng mà ngân
hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình. Chính vì
vậy công tác thẩm định đòi hỏi các nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết
hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng. Cũng thông qua


×