Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Các học thuyết mới về thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.14 KB, 8 trang )

I.1. Các học thuyết mới về thương mại quốc tế
2.2.1. Thương mại quốc tế dựa trên quy mô (Economies of
scale and international trade)
Một trong những lý do quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế là tính
hiệu quả tang dần theo quy mô. Sản xuất được coi là hiệu quả nhất khi được tổ
chức trên quy mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn
tới sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỷ lệ cao hơn.
Các mô hình thương mại H-O và Ricardo đều dựa trên giả định về hiệu
suất không đổi theo quy mô. Trong trường hợp hiệu suất tăng dần thì đường giới
hạn khả năng sản xuất thường là một đường cong lồi về phía gốc tọa độ và khi
đó chi phí cơ hội là giảm dần. Điều này cho phép thương mại giữa các nền kinh
tế giống nhau diễn ra một cách cùng có lợi.
Lưu ý: Trong mô hình thương mại dựa trên hiệu suất theo qui mô, tỷ lệ
trao đổi quốc tế cũng đúng bằng mức giá tương quan trước khi có thương mại,
và mõi nước thực hiện chuyên môn hoá hoàn toàn nhưng với hướng chuyên
môn hoá là không xác định. Những điểm này cho tháy sự khác biệt giữa thương
mại dựa trên hiệu suất theo quy mô và thương mại dựa trên lợi thế so sánh.
2.2.2. Lý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm
( International product cycle)
Xét về mặt lý thuyết thì thực chất quan điểm về vòng đời sản phẩm chính
là sự mở rộng lý thuyết khoảng cách công nghệ.Các phát minh có thể ra đời ở
các nước giàu, nhưng điều đó không có nghĩa là quá trình sản xuất sẽ chỉ có thể
thực hiện ở những nước đó mà thôi.Lý thuyết khoảng cách công nghệ chưa trả
lời được câu hỏi là phải chăng các hãng phát minh sẽ tiến hành sản xuất tại
những nước có điều kiện thích hợp nhất (tài nguyên, các yếu tố sản xuất) đối
với mặt hàng mới. Theo Vernon (1966), các nhân tố cần thiết cho sản xuất một
sản phẩm mới sẽ thay đổi tùy theo vòng đời của sản phẩm đó. Vòng đời sản
phẩm và thương mại quốc tế:
Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế:
Nước phát minh
Khi sản phẩm mới được giới thiệu (tại t0), việc sản xuất và giới thiệu còn


mang tính chưa chắc chắn và phụ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp nhân công
lành nghề và khoảng cách gần gủi với thị trường, lúc đó sản phẩm sẽ được sản
xuất với chi phí cao và xuất khẩu (tại t1) bởi các nước lớn và giàu có (chẳng
hanh như Mỹ).
Khi sản phẩm trở nên chin muồi, công nghệ sản xuất dần dần trở nên
chuẩn hóa và đươc phát triển rông rãi. Thị trường tiêu thụ mở rộng tạo điều kiện
cho việc sản xuất trên quy mô lớn với chi phí thấp. các quốc gia, thường là
những nước dồi dào tương đối về vốn (Tây Âu, Nhật Bản), có thẻ bắt chước
công nghệ sản xuất tại t2, và đó là lợi thế so sánh được chuyển từ nước phát
minh sang các quốc gia này. Nước phát minh khi đó có thể chuyển đổi vai trò từ
nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu (tại t3).
Cuối cùng, khi công nghệ trở nên hoàn toàn được chuẩn hóa quá trình sản
xuất có thể được chia ra thành nhiều công đoạn khác nhau và tương đối đơn
giản. Lợi thế so sánh được chuyển tới những nước đang phát triển nơi có lực
lượng lao động dồi dào và mức lương thấp và những nước này trở thành nước
xuất khẩu ròng (tại t4).
2.2.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia (National
comparetitive)
XK
t0
NK
Nước phát triển
t1 t2
t4
Nước đang phát
triển
t3
Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết
của 4 nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành mô hình kim cương
(diamond).

 Các nhóm yếu tố bao gồm:
(1) Điều kiện các yếu tố sản xuất ( factor of production).
(2) Điều kiện về cầu (demand conditions).
(3) Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan ( related and supporting
industries).
(4) Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành (strategies, structures and
competition).
Các yếu tố này tác động lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh
quốc gia.Ngoài ra còn có 2 yếu tố khác chính là chính sách của Chính phủ và cơ
hội.Đây là hai yếu tố tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.
Tư duy chiến lược của Michael Porter:
 Sự khác biệt
“Cạnh tranh để trở thành giỏi nhất. Cạnh tranh để trở thành độc nhất vô
nhị... Không có công ty tốt nhất bởi cái tốt nhất tùy thuộc vào nhu cầu của từng
khách hàng.Vì thế, chiến lược của công ty sẽ không phải là trở thành tốt nhất,
mà phải trở thành độc nhất vô nhị, là khác biệt”.
 Chiến lược và Khát vọng
“Trong chiến lược, sai lầm lớn nhất là cạnh tranh trực tiếp trên cùng một
quy mô, một lĩnh vực với đối thủ”.Để xây dựng được chiến lược cạnh tranh, các
công ty cần thấu hiểu khái niệm chiến lược, nhưng trên thực tế, các nhà lãnh
đạo công ty thường hay nhầm lẫn chiến lược với khát vọng.
 Mục tiêu
“Phải đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu. Tăng trưởng là mục tiêu số 2;
Việc đặt ra những mục tiêu không thực tế về khả năng sinh lời hoặc tăng trưởng
có thể ảnh hưởng xấu đến chiến lược.
 Lựa chọn và Khám phá
“Lặp lại những việc mà người khác đã làm sẽ là không hiệu quả. “Chạy
theo...” không phải là tư duy chiến lược mà là cái bẫy... Những công ty thành
công là những công ty biết tạo ra các giá trị mới dựa trên việc đáp ứng tốt hơn
các nhu cầu của khách hàng”.

 Giá trị mới
“Những công ty thành công là những công ty biết tạo ra các giá trị mới
dựa trên việc đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng”.
2.3. Chiến lược và chính sách ngoại thương của Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, ngày 28 tháng 12 năm 2011 Thủ
tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 2471/QĐ-TTg phê duyệt chiến
lược xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2011- 2020, định hướng đến 2030, theo
đó, chiến lược quy định rõ quan điểm, mục tiêu phát triển, định hướng xuất khẩu,
định hướng nhập khẩu và giải pháp thực hiện chiến lược.
Theo đó, kế hoạch của ngành ngoại thương Việt nam được thông qua như sau:
2.3.1. Quan điểm chiến lược
2.3.1.a. Phát triển sản xuất để tăng nhanh xuất khẩu, đồng thời đáp ứng
nhu cầu trong nước; khai thác tốt lợi thế so sánh của nền kinh tế, nâng cao hiệu
quả, năng lực cạnh tranh xuất nhập khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết việc làm và tiến tới cân bằng
cán cân thương mại.
2.3.1.b. Xây dựng, củng cố các đối tác hợp tác chiến lược để phát triển thị
trường bền vững; kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của quốc
gia, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - đối ngoại, chủ động và độc lập tự chủ
trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.1.c. Đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu. Tích cực và chủ động
tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; chú trọng xây dựng
và phát triển hàng hóa có giá trị gia tăng cao, có thương hiệu trên thị trường
trong và ngoài nước.
2.3.2. Mục tiêu phát triển
2.3.2.a. Mục tiêu tổng quát
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần
năm 2010, bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD, cán cân thương mại được
cân bằng.

2.3.2. b. Mục tiêu cụ thể
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11 – 12%/năm trong
thời kỳ 2011 – 2020, trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân
12%/năm; giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm. Duy trì tốc
độ tăng trưởng khoảng 10% thời kỳ 2021 – 2030.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu; tốc độ
tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa bình quân 10 – 11%/năm trong thời kỳ 2011 –
2020, trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân dưới 11%/năm;
giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng bình quân dưới 10%/năm.
- Giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 10%
kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015 và tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào
năm 2020; thặng dư thương mại thời kỳ 2021 – 2030.
2.3.3 . Định hướng xuất khẩu
2.3.3.a. Định hướng chung
- Phát triển xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững và hợp lý giữa
chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng
cao giá trị gia tăng xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách hợp lý theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất
khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm có hàm lượng

×