Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Tìm hiểu và thực hiện qui trình ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng từ giai đoạn nauplius lên giai đoạn postlarvae có sử dụng chế phẩm CP bio plus ở công ty cổ phần chăn nuôi CP việt nam tại bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 62 trang )

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
Tìm hiểu và thực hiện qui trình ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng từ giai
đoạn Nauplius lên giai đoạn Postlarvae có sử dụng chế phẩm CP-Bio plus ở
công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam tại Bình Định

Sinh viên thực hiện:Hoàng Thị Aí Mỷ
Lớp:Nuôi Trồng Thủy Sản k45
Giáo viên hướng dẫn:Ths.Nguyễn Phi Nam

Huế tháng 1 năm 2015


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1:Các lĩnh vực hoạt động
Hình 2.2.Sơ đồ hệ thống trại sản xuất giống Công ty cổ phần chăn nuôi CP
Việt Nam – Chi nhánh Bình Định III.
Hình 2.3: Các giai đoạn phát triển của tôm
Hình 4.1: Hệ thống nhà tảo Mass
Hình 4.2: Tảo đạt tiêu chuẩn cho tôm ăn
Hình 4.3: Bể ấp và khu vực tẩy artemia
Hình 4.4:Xịt phun acidified chlorine
Hình 4.5:Hệ thống máy lọc nước hiện đại UF và H.O.D
Hình 4.6: Nhận Nauplius và chuẩn bị thả vào bể ương
Hình 4.7: Các loại thức ăn
Hình 4.8: Diễn biến độ mặn trong bể ương
Hình 4.9: Biến động pH theo thời gian ương tại bể 5
Hình 4.10: Biến động pH theo thời gian ương tại bể 6
Hình 4.11: Biến động pH theo thời gian ương tại bể 7
Hình 4.12: Biến động pH theo thời gian ương tại bể 8
Hình 4.13: Lấy mẫu vi khuẩn và mẫu PCR


Hình 4.14: chế phẩm CP-Bioplus


DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1: Các thông số môi trường ấp artemia
Bảng 4.2: Chất lượng nước thả Nauplius đạt tiêu chuẩn
Bảng 4.3: Sự biến động Ph
Bảng 4.4: Nồng độ dung dịch formon cho từng giai đoạn ấu trùng
Bảng 4.5: Mật độ ương, số lượng ấu trùng và tỷ lệ sống qua từng giai đoạn.
Bảng 4.6: Thời gian biến thái của ấu trùng
Bảng 4.7.Tỷ lệ sống của ấu trùng qua các vụ nuôi


PHẦN I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm vừa qua nghề nuôi trồng thủy sản ở nước ta đã có những
bước tiến vượt bậc, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế sôi động của nước
nhà.Hiện nay, trong tất cả các đối tượng nuôi phổ biến thì tôm thẻ chân trắng(
Litopenaeus vannamei) đang được ưu tiên phát triển bởi nó có giá trị kinh tế cao,
đang còn tiềm năng để phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng.
Tuy nhiên do lợi nhuận của nghề nuôi tôm đem lại là khá lớn nên hầu hết
các vùng nuôi tôm hiện nay đều phát triển quá nóng ngoài sự quản lý của cơ quan
chức năng, chính điều này đang đưa nghề nuôi tôm của chúng ta tiềm ẩn nhiều mối
nguy phát triển không bền vững: Đó là hiện tượng ô nhiễm môi trường sinh thái
dẫn đến tôm nuôi bị dịch bệnh và chết hàng loạt trong nhưng năm gần đây. Như là
hiện trạng sử dụng hoá chất, kháng sinh bừa bãi dẫn đến tôm bị còi cọc, tồn dư
kháng sinh…Có nhiều nguyên nhân khiến nghề nuôi tôm phải đối mặt với những
nguy cơ trên nhưng đáng cảnh báo và lo ngại nhất hiện nay là chất lượng tôm
giống chưa đảm bảo, trong vấn đề sản xuất con giống đại trà còn nhiều điều phải
quan tâm. Thực tế sản xuất cho thấy, do tốc độ phát triển nghề nuôi tôm thương
phẩm rất nhanh nên yêu cầu về số lượng tôm giống hàng năm tăng nhanh.Để đáp

ứng được nguồn cung cấp tôm giống cho thị trường, hàng loạt các trại sản xuất
giống đã ra đời, nhưng để đạt được lợi nhuận tối đa họ đã sử dụng hàng loạt các
loại hoá chất, kháng sinh nguy hiểm để phòng trị bệnh nhằm nâng cao tỷ lệ sống
của ấu trùng… và dĩ nhiên hậu quả là tôm giống sẽ bị còi cọc, chậm lớn và tồn dư
lượng thuốc kháng sinh.Trong nuôi tôm thương phẩm sẽ phải sử dụng kháng sinh
liều cao, dẫn đến tồn dư kháng sinh trong thịt tôm, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ
người tiêu dùng. Trong bối cảnh nước ta đang vào sâu WTO thì điều này sẽ là trở
ngại lớn cho mặt hàng tôm xuất khẩu vào các thị trường đầy tiềm năng nhưng khó
tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ…


Đứng trước thực trạng đó, việc sản xuất ra nguồn tôm giống đủ về số lượng,
đảm bảo chất luợng sạch bệnh và hạn chế tối đa kháng sinh, hoá chất đang là đòi
hỏi bức thiết của nghề nuôi tôm công nghiệp đối với các nhà nghiên cứu và sản
xuất tôm giống.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn sản xuất, kết hợp với nguyện vọng của bản
thân,được sự đồng ý của Trường Đại Học Nông Lâm Huế, khoa Thủy Sản và giáo
viên hướng dẫn, tôi đề nghị thực hiện đề tài“Tìm hiểu và thực hiện qui trình
ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng từ giai đoạn Nauplius lên giai đoạn
Postlarvae có sử dụng chế phẩm CP-Bio plus ở công ty cổ phần chăn nuôi CP
Việt Nam tại Bình Định.”
Mục đích của đề tài:
-

-

Tìm hiểu qui trình ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng với các biện
pháp kỹ thuật tối ưu và có hiệu quả ở công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt
Nam.
Đánh giá ảnh hưởng của việc ứng dụng qui trình sử dụng chế phẩm CPBio plus trong ương nuôi ấu trùng tôm thẻ chân trắng.

Bước đầu tập làm quen với công tác nghiên cứu khoa học.
PHẦN II.TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.TÌM HIỂU CHUNG VỀ CƠ SỞ THỰC TẬP
1.1.Vai trò chiến lược của vị trí địa lý tỉnh Bình Định
Bình Định nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Ngãi ; phía Nam giáp tỉnh Phú Yên có nhiều tiềm năng phát triển về du
lịch dịch vụ; phía Tây giáp Tây Nguyên- giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai
thác. Với vị trí địa lý đặc biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế miền Trung và Tây
Nguyên. Hệ thống đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt cùng với đường 19 lên
Tây Nguyên và cảng biển nước sâu Quy Nhơn - Nhơn Hội tạo thành huyết mạch
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Bình Định, miền Trung và Tây Nguyên, cũng
như khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông- Tây: Quy


Nhơn - Kon Tum - Aptopo - Bắc Xế - Ubon Rat Cha Tha Ni, trục hành lang này có
chiều dài khoảng 770km; mặt khác từ Quy Nhơn lên đường 19 đến Kon Tum và
theo đường 14 rẽ về phía Nam đến Stung Ố Treng (Campuchia).
Huyện Phù Mỹ: Là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. Phú
Mỹ giáp các huyện Hoài Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát, tây bắc
giáp Hoài Ân và biển đông ở phía đông. Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã
và 2 thị trấn gồm: thị trấn Phù Mỹ và Bình Dương, các xã là: Mỹ An, Mỹ Cát, Mỹ
Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi,
Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng và Mỹ Trinh.
Huyện có 2 ga tàu hỏa thuộc đường sắt bắc — nam là ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và
ga Phù Mỹ (thị trấn Phù Mỹ).
1.2.Điều kiện thời tiết, khí hậu
Tỉnh Bình Định nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa. Do sự phức tạp của
địa hình và mặt đệm biến đổi khá lớn nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi

hướng và cường độ khá nhiều.
Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0 oC, nhiệt độ cực đại
39,9oC và cực tiểu 15,8oC. Tổng nhiệt độ năm trong tỉnh (tại Quy Nhơn) đạt
9.636oC vượt tiêu chuẩn 9.500oC của khí hậu xích đạo.
- Độ ẩm tuyệt đối tại vùng duyên hải trung bình là 27,9 mb, cực đại 32,7 mb và
cực tiểu 20,0 mb. Độ ẩm tương đối trung bình là 79 % và cực tiểu là 31 %.
- Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền thường
có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng
đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn
nhất từ tháng 9 - 11.
Nhìn chung, vị trí địa lý và hoàn cảnh khí hậu trên đây của tỉnh đã chi phối
đến các đặc trưng điều kiện tự nhiên khác cũng như chi phối mạnh mẽ đến các hoạt
động phát triển kinh tế của tỉnh. Để khai thác các mặt thuận lợi và phòng chống các
mặt bất lợi cần thiết phải có sự nghiên cứu hệ thống và hiểu biết đầy đủ các quy
luật khí hậu để có các giải pháp phù hợp.


1.3.Tình hình kinh tế, xã hội
* Con người
Phù Mỹ vốn là đất hiếu học của Bình Định, từng sản sinh ra nhiều nhà khoa
bảng trẻ tuổi học rộng tài cao, đức độ và khí phách. Những năm đất nước bị chia
cắt, ở cả hai miền Nam - Bắc, Phù Mỹ đều có nhiều học sinh sinh viên giỏi, điều
đặc biệt là họ đều yêu nước, yêu quê hương và dân tộc Việt Nam.
Kho tàng văn hóa dân gian của Phù Mỹ khá phong phú, số lượng ca dao, tục
ngữ, hò vè… Văn hóa dân gian ở Phù Mỹ nồng đượm tình người, giàu
hương sắc địa phương. Dân phù Mỹ rất ưa chuộng dân ca bài chòi và hát tuồng.
Thể hiện tình yêu thương thắm thiết giữa con người với con người.
* Kinh tế
Nói tới Phù Mỹ bây giờ là nói đến chuyện phát triển nghề nuôi tôm trên cát.
Quả thật, về Mỹ An và Mỹ Thắng vào những ngày này, trong câu chuyện của

người dân, ta dễ dàng nhận thấy bóng dáng của con tôm. Ông Huỳnh Văn Nam –
Phó chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ cho biết: "Bên cạnh 2.000 ha ao đầm đã được
khai thác lâu nay, huyện đã hợp đồng nghiên cứu xây dựng quy hoạch vùng nuôi
tôm trên cát để mở rộng khả năng nuôi trồng. Quy hoạch này do Viện Hải dương
học Nha Trang thực hiện, chính Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tác An – Viện trưởng chủ
trì. Bản quy hoạch đã được các cơ quan thẩm định đánh giá rất cao. Tiếp đó hợp
phần quy hoạch chi tiết được các chuyên gia của trường Đại học thủy lợi II thực
hiện. Kết quả chúng tôi đã có một vùng nuôi tôm trên cát rộng 500 ha trong đó
diện tích rừng chắn cát rộng 300ha, diện tích hồ nuôi trồng là 200ha. Huyện đã đầu
tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng đường giao thông, tiêu thoát nước, kéo điện đến chân
công trình ao hồ. 120ha hồ tôm đầu tiên đã được triển khai xong ở Mỹ An, 80 ha
còn lại của Mỹ Thắng hiện đang được khẩn trương thực hiện. Khu nuôi tôm này là
điểm nhấn quan trọng để thể hiện năng lực khả năng phát triển của Phù Mỹ, bởi giá
trị kinh tế của con tôm thì ai cũng đã biết rồi!"
1.4.Vài nét về công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam, chi nhánh Bình Định
III


Tập đoàn C.P. (Charoen Pokphand) là một tập đoàn sản xuất kinh doanh đa
ngành nghề và là một trong những tập đoàn mạnh nhất của Thái Lan trong lĩnh vực
Công – Nông nghiệp, điển hình là lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi, hoạt động
chăn nuôi, sản xuất lương thực, thực phẩm chất lượng cao và an toàn đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tập đoàn C.P. (Thái Lan) đầu tư vào Việt Nam từ năm 1988, sau khi Việt
Nam mở cửa năm 1986 theo chủ trương Đổi Mới, với hình thức mở văn phòng
kinh doanh tại TP. Hồ Chí Minh. Đến năm 1993 thành lập Công ty TNHH Chăn
Nuôi C.P. Việt Nam, tên tiếng Anh là C.P. Việt Nam Livestock Co.,Ltd. và xây
nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi tại tỉnh Đồng Nai, miền Nam Việt Nam, đồng
thời là trụ sở chính của Công ty cho tới ngày nay. Năm 2009 Công ty TNHH Chăn
Nuôi C.P. Việt Nam hợp nhất với Công ty TNHH Charoen Pokphand Việt Nam trở

thành Công ty C.P. Vietnam Livestock Corporation và sau đó vào năm 2011 đổi
tên thành C.P. Vietnam Corporation (Công ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P. Việt Nam).
C.P. Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực Nông – Công nghiệp, ngành thực
phẩm khép kín: chăn nuôi, chế biến gia súc, gia cầm và thủy sản. Từ đó cho đến
nay, C.P. Việt Nam không ngừng mở rộng sản xuất và hoạt động trong 3 lĩnh vực
chính như: thức ăn chăn nuôi (feed), trang trại (farm) và thực phẩm (Food), được
thể hiện theo sơ đồ sau đây:


Hình 2.1:Các lĩnh vực hoạt động
Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi: hiện nay, C.P Việt Nam có 8 nhà máy
sản xuất thức ăn chăn nuôi kèm với các hoạt động tiếp theo, trong đó được chia
thành 4 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc gia cầm, 3 nhà máy sản xuất
thức ăn chăn nuôi thủy sản và 1 nhà máy sấy ngô. Thức ăn chăn nuôi do Công ty
sản xuất được cung cấp cho mọi miền đất nước. Nhà máy sản xuất thức ăn chăn
nuôi gia súc gia cầm C.P. tỉnh Bình Dương là nhà máy mới nhất, được xây dựng và
bắt đầu hoạt động từ năm 2009 và được đánh giá là nhà máy sản xuất thức ăn chăn
nuôi hiện đại nhất Châu Á.
Ngành nuôi trồng: hiện nay, C.P. Việt Nam tiến hành chăn nuôi theo hệ
thống chăn nuôi hiện đại, thân thiện với môi trường: bắt đầu từ con giống có chất
lượng cho đến hệ thống chăn nuôi hiện đại được trang bị những dụng cụ, thiết bị
chăn nuôi tiên tiến, chăn nuôi các loại lợn, gà thịt, gà đẻ, tôm và cá với diện tích
trang trại phù hợp nhằm phục vụ đa dạng cho khách hàng trên phạm vi cả nước.
Sản xuất tôm thịt và cá thịt ở các trại là nhằm cung cấp nguyên liệu cho nhà máy
sản xuất thủy sản đông lạnh phục vụ xuất khẩu của Công ty.
Ngành chế biến thực phẩm, được chia làm 2 hợp phần chính như sau:


1) Sản xuất tôm và cá xuất khẩu, trong đó nguyên liệu tôm và cá được nhập
từ các trại của Công ty. Hiện nay, Công ty có 2 nhà máy chế biến thủy sản ở Đồng

Nai và Phong Điền (Thừa Thiên Huế).
2) Sản xuất các loại thực phẩm tiêu thụ nội địa với hệ thống máy móc và
thiết bị hiện đại nhằm cung cấp thực phẩm có hương vị tốt, vệ sinh và an toàn,
không chứa chất tồn dư. Đói với lĩnh vực này, Công ty CP có 2 nhà máy, một nhà
máy ở Đồng Nai và một nhà máy ở thủ đô Hà Nội. Nhà máy ở Hà Nội mới đi vào
sản xuất từ giữa năm 2012, đây là một nhà máy hiện đại, sử dụng các tiêu chuẩn
đáp ứng cho xuất khẩu để làm nền tảng xây dựng nhà máy. Ngoài ra C.P. Việt
Nam còn xây dựng các hệ thống kinh doanh hàng hóa thành phẩm của Công ty
như: gà nướng 5 sao, C.P. Freshmart, C.P. Shop hoặc Tủ lạnh công cộng để phục
vụ người tiêu dùng Việt Nam.
Một hoạt động quan trọng nữa mà Công ty khuyến khích và ủng hộ mọi cán
bộ công nhân viên tham gia đóng góp xây dựng thành hệ thống, đó là hoạt động
đền ơn đáp nghĩa xã hội hay đền ơn đáp nghĩa đất nước (CSR). Trước đây hoạt
động này được thực hiện một cách phân tán theo vùng mà Công ty có chi nhánh
hoặc đang tiến hành hoạt động kinh tế, nay đã được thay đổi thông qua việc thành
lập Quỹ hỗ trợ từ thiện C.P. Việt Nam (CPV ’S Donation Fund). Ý tưởng thực hiện
là nhằm làm cho nhân viên có phần đóng góp và hiểu biết thực sự về hoạt động
CSR. CSR gồm các hoạt động chính như: Hiến máu nhân đạo, y tế tình nguyện,
các hoạt động giúp đỡ cộng đồng, trường học bao gồm cả việc hỗ trợ cho người tàn
tật và những người kém may mắn trong xã hội. Hoạt động CSR đã được C.P. Việt
Nam thực hiện liên tục kể từ khi thành lập đến nay. Những hoạt động này đã nhận
được sự khen ngợi rất nhiều từ các cơ quan nhà nước và nhân dân Việt Nam. Điều
đó được thể hiện qua sự hợp tác thực hiện những hoạt động này ngày càng nhiều


hơn, đặc biệt là cán bộ nhân viên Công ty và sự hợp tác của cơ quan nhà nước,
khách hàng Công ty và các tầng lớp nhân dân.
Các hoạt động kinh doanh và hoạt động xã hội luôn tuân theo chủ trương 3
lợi ích của ngài Dhanin Chearavanont Chủ tịch Hội đồng quản trị và Chủ tịch ban
điều hành Tập đoàn Charoen Pokphand (Chủ trương 3 lợi ích là : lợi ích quốc gia,

nhân dân và công ty) làm cho hoạt động kinh doanh của C.P. Việt Nam tại Việt
Nam không ngừng lớn mạnh và bền vững trong sự ủng hộ của các nhân viên người
Việt Nam.
Điều vô cùng đặc biệt là Công ty có cơ hội đóng góp cho sự phát triển của
ngành nông nghiệp Việt Nam bằng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường,
điều đó phát sinh sự bền vững lâu dài cho sự nghiệp đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Đinh III, nằm ở
thôn Xuân Thạnh, xã Mỹ An, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Trại giống được xây
dựng với diện tích khoảng 6ha. Đây là một trong những trại sản xuất tôm giống lớn
nhất Việt Nam, sản xuất giống dựa trên công nghệ tiên tiến của Thái Lan. Hệ thống
trại bao gồm:


Hình 2.2.Sơ đồ hệ thống trại sản xuất giống Công ty cổ phần chăn nuôi CP
Việt Nam – Chi nhánh Bình Định III
Hệ thống văn phòng làm việc của ban giám đốc

-

Khu nhà nghỉ của giám đốc và công nhân viên.

-

Bộ phận thí nghiệm gồm: 1 phòng Vi khuẩn, 2 phòng PCR, 1 phòng kiểm tra chất
lượng nước, 1 phòng kiểm định chất lượng (QC), 1 phòng nuôi cấy tảo thí nghiệm
( Lab), 1 nhà ấp Artemia, 3 nhà nuôi tảo ống(tảo Photo), 8 nhà nuôi tảo sinh khối
( Mass).

-


Khu tôm bố mẹ (Maturation) gồm 4 nhà, mỗi nhà có 32 bể x 24m2.

-

Khu ương nuôi ấu trùng gồm 30 nhà mỗi nhà có 14 bể x 10m3.
-

Hệ thống bể chứa và xử lý nước.

2.VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
2.1.Hệ thống phân loại, đặc điểm hình thái cấu tạo và phân bố của tôm thẻ
chân trắng


2.1.1.Hệ thống phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidae
Giống: Litopenaeus
Loài: Litopenaeus vannamei , Boone 1931.
Tên gọi
Tên tiếng Anh : WhiteLeg shrimp
Tên khoa học : Litopenaeus vannamei (Boone, 1931)
Tên thường gọi : Tôm bạc Thái Bình Dương, tôm bạc bờ Tây châu Mỹ, Camaron
blanco, Langostino.
Tên của FAO : Camaron patiblanco.
Tên Việt Nam : Tôm Thẻ Chân Trắng
2.1.2.Đặc điểm hình thái cấu tạo
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)

Cơ thể chia làm hai phần: Chủy đầu ngực (Cephalothorax) và phần bụng
(Abdomen)
- Phần đầu ngực có 14 đôi phần phụ bao gồm:
+ Chủy tôm gồm có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng.
+ 1 đôi mắt kép có cuống mắt.
+ 2 đôi râu: Anten 1(A1) và Anten 2(A2). A1 ngắn, đốt 1 lớn và có hốc mắt, hai
nhánh ngắn. A2 có nhánh ngoài biến thành vẩy râu (Antennal scale), nhánh trong
kéo dài. Hai đôi râu này giữ chức năng khứu giác và giữ thăng bằng.
+ 3 đôi hàm: đôi hàm lớn, đôi hàm nhỏ 1 và đôi hàm nhỏ 2.
+ 3 đôi chân hàm (Maxilliped) có chức năng giữ mồi, ăn mồi và hỗ trợ hoạt động
bơi lội của tôm.
+ 5 đôi chân bò hay chân ngực (walking legs), giúp cho tôm bò trên mặt đáy.
Ở tôm cái, giữa gốc chân ngực 4 và 5 có thelycum ( cơ quan sinh dục ngoài, nơi
nhận và giữ túi tinh từ con đực chuyển sang).


- Phần bụng có 7 đốt: 5 đốt đầu, mỗi đốt mang một đôi chân bơi hay còn gọi
là chân bụng ( Pleopds hay Swimming legs). Mỗi chân bụng có một đốt chung bên
trong. Đốt ngoài chia làm hai nhánh: Nhánh trong và nhánh ngoài, đốt bụng thứ 7
biến thành telson hợp với đôi chân đuôi phân thành nhánh tạo thành đuôi giúp cho
tôm chuyển động lên xuống và búng nhảy. Ở tôm đực, hai nhánh trong của đôi
chân bụng 2 biến thành đôi phụ bộ đực- là bộ phận sinh dục bên ngoìa của tôm.
Màu sắc của tôm: tôm có màu trắng đục.
2.1.3.Phân bố
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích
đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở ven
biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung Pêru,
nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm chân trắng đã có mặt hầu hết ở các
khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các nước ven biển
thuộc khu vực Đông Nam Á.Tôm Thẻ Chân Trắng có thể sống ở độ sâu 72m, đáy

bùn, nhiệt độ nước ổn định từ 25- 32°C, độ mặn từ 28- 34 ‰, pH từ 7,7- 8,3 , giai
đoạn tôm con sống ở vùng cửa sông, giai đoạn trưởng thành sống ở biển sâu.
2.2.Đặc điểm sinh trưởng và sự lột xác
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
2.2.1. Các thời kỳ phát triển của Tôm Thẻ Chân Trắng
- Thời kỳ phôi
Thời kỳ phôi bắt đầu từ khi trứng thụ tinh đến khi trứng nở, thời gian phát
triển phôi tùy thuộc vào nhiệt độ nước.
-Thời kỳ ấu trùng
Ấu trùng Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái hoàn
toàn, gồm các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn Nauplius (N):
Ấu trùng N của Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua 6 lần lột xác và có 6 giai đoạn
phụ ( N1- N6). Ấu trùng N bơi lội bằng bằng 3 đôi phần phụ, vận động theo kiểu
zic zắc, không định hướng và không liên tục. Chúng chưa ăn thức ăn ngoài mà
dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ.
+ Giai đoạn Zoea (Z):


Giai đoạn Z có 3 giai đoạn phụ (Z1 – Z3) thay đổi hẳn về hình thái so với N.
Ấu trùng Z bơi lội nhờ hai đôi râu (đôi 1 phân đốt đôi 2 phân nhánh kép) và 3 đôi
chân hàm phân nhánh. Chúng bơi lội liên tục có định hướng về phía trước, ấu trùng
Z bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Thức ăn chủ yếu là thực vật nổi với hình thức chủ
yếu là ăn lọc. Ở giai đoạn này, ấu trùng ăn mồi liên tục, ruột luôn đầy thức ăn và
thải phân liên tục tạo thành đuôi phân kéo dài ở phía sau- đây là đặc điểm để nhận
biết giai đoạn này. Vì vậy khi nuôi ấu trùng Z, thức ăn cần được cung cấp đạt mật
độ thích hợp, đảm bảo cho việc lọc thức ăn của ấu trùng. Ngoài hình thức ăn lọc,
ấu trùng Z vẫn có khả năng bắt mồi và ăn được các động vật nổi có kích thước nhỏ
( Nauplius của Artemia, luân trùng...) đặc biệt vào cuối giai đoạn này-Z3. Mỗi giai
đoạn phụ của ấu trùng Z thường kéo dài khoảng 30- 40h, trung bình 36h ở nhiệt độ

28-29°C.
+ Giai đoạn Mysis (M):
Giai đoạn này gồm có 3 giai đoạn phụ ( M1 - M3), ấu trùng M sống trôi nổi
có đặc tính treo ngược mình trong nước, đầu chúc xuống dưới. Ấu trùng M bơi lội
kiểu búng ngược, vận động chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bò. Ấu trùng M bắt mồi
chủ động, thức ăn chủ yếu là động vật nổi. Tuy nhiên, chúng vẫn có thể ăn tảo
Silic, đặc biệt là ở giai đoạn phụ M1 và M2. Thời gian chuyển giai đoạn của M
cũng gần giống với giai đoạn Z.
+ Giai đoạn Postlarvae (PL):
Hậu ấu trùng PL đã có hình dạng của loài nhưng sắc tố chưa hoàn thiện,
nhánh trong anten 2 chưa kéo dài. PL bơi thẳng có định hướng về phía trước, bơi
lội chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bụng, PL hoạt động nhanh nhẹn và bắt mồi chủ
động, thức ăn chủ yếu ở giai đoạn này là động vật nổi. Tuổi của PL được tính theo
ngày, đầu giai đoạn PL sống trôi nổi, từ PL 3 hoặc PL5 trở đi chúng bắt đầu chuyển
sang sống đáy, PL chuyển sang sống đáy hoàn toàn ở PL9 – PL10.
Trong phân chia các giai đoạn ở vòng đời Tôm Thẻ Chân Trắng từ khoảng PL 5 trở
đi được gọi là giai đoạn ấu niên.
-Thời kỳ ấu niên
Ở thời kỳ này, hệ thống mang của tôm đã hoàn chỉnh. Tôm chuyển sang
sống đáy, bắt đầu bò bắng chân và bơi bằng chân bơi. Anten 2 và sắc tố thân ngày
càng phát triển. Thời kỳ này tương đương với cuối giai đoạn tôm bột và đầu tôm
giống trong sản xuất tức là PL5- PL20.


-Thời kỳ thiếu niên
Tôm bắt đầu ổn định tỷ lệ chân, thelycum và petasma được hình thành
nhưng chưa hoàn chỉnh, hai nhánh của petasma còn tách biệt. Giai đoạn này tương
đương với giai đoạn ương giống và nuôi thịt trong sản xuất. Cuối thời kỳ ấu niên
bắt đầu xuất hiện sự sinh trưởng không đồng đều giữa 2 giới tính- con cái lớn
nhanh hơn con đực.

-Thời kỳ sắp trưởng thành
Tôm trưởng thành về mắt sinh dục: cơ quan sinh dục ngoài đã hoàn thiện,
tôm đực bắt đầu có tinh trùng trong túi tinh, tôm cái đã tham gia giao vỹ lần đầu.
Hiện tượng sinh trưởng không đồng đều giữa 2 giới tính thể hiện rõ rệt hơn trong
thời kỳ này.
-Thời kỳ trưởng thành
Tôm có khả năng tham gia sinh sản, chúng sống ở vùng xa bờ, nơi có độ
trong cao và độ mặn ổn định.
Vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
Ở thời kỳ ấu niên và thiếu niên Tôm Thẻ sống ở vùng cửa sông. Ở giai đoạn
sắp trưởng thành và trưởng thành, khi tôm có thể tham gia sinh sản lần đầu thì
chúng sống ở vùng triều ở độ sâu khoảng 7- 20m nước. Đối với những con trưởng
thành và sản phẩm sinh dục đã chín hoàn toàn thì chúng di chuyển ra vùng biển
khơi ở độ sâu khoảng 70m nước và tham gia sinh sản tại đây.
Trứng và ấu trùng Mysis sống và phát triển tại vùng biển khơi theo dòng
nước trôi dạt vào bờ. Khi đến vùng triều thì ấu trùng đã chuyển sang giai đoạn
Postlarvae và tiếp tục theo thủy triều trôi dạt vào vào vùng cửa sông, phát triển
thành ấu niên và tiếp tục vòng đời của chúng.


Hình 2.3: Các giai đoạn phát triển của tôm
2.2.2.Đặc điểm sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
Sự tăng trưởng về kích thước của Tôm Thẻ có dạng bậc thang, thể hiện sự
sinh trưởng không liên tục. Kích thước giữa hai lần lột xác hầu như không tăng
hoặc tăng không đáng kể và sẽ tăng vọt sau mỗi lần lột xác. Trong khi đó sự tăng
trưởng về trọng lượng có tính liên tục hơn. Tôm Thẻ có tốc độ tăng trưởng tương
đối nhanh, tốc độ tăng trưởng tùy thuộc vào từng loài, từng giai đoạn phát triển,
giới tính và điều kiên môi trường, dinh dưỡng...
Từ ấu trùng đến đầu thời kỳ thiếu niên, không có sự khác biệt về tốc độ tăng

trưởng giữa tôm đực và tôm cái. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thời kỳ thiếu niên, con
cái lớn nhanh hơn con đực.
-Sự tăng trưởng của ấu trùng
Sự tăng truởng về chiều dài của ấu trùng tôm như sau: Giai đoạn Nauplius
tăng trên dưới 10%/1 lần lột xác. Lần lột xác từ N 6 chuyển sang Z1 chiều dài tăng
86%, gần gấp 2 lần, và đây cũng là lần tăng chiều dài lớn nhất trong vòng đời của
Tôm Thẻ. Từ Z1 chuyển sang Z2 tăng 25%, Z2 chuyển sang Z3 tăng 13,7% ( giảm
½ so với từ Z1 sang Z2), Z3 chuyển sang M1 tăng 13,2%. M1 chuyển sang M2 và M2
chuyển sang M3 tăng >20%. M3 chuyển sang P1 tăng 12,6%. Trong giai đoạn
Postlarvae, sự tăng trưởng về chiều dài không đều, đa số ≤ 10%/ lần lộ xác.
Tỉ lệ chiều rộng và chiều dài cơ thể (R/D) lớn nhất ở giai đoạn Nauplius
(50%). Riêng N1, R/D = 53,1%. Tỉ lệ này giảm trong quá trình sinh trưởng, sau
mỗi lần lột xác cơ thể thon hơn. Tỉ lệ R/D thấp nhất từ P 1 đến P4 (R/D = 1/10), sau


đó tăng lên từ P5 đến P13 và giảm từ P13 đến P17. Từ P17 đến P21, tỉ lệ R/D ổn định,
đánh dấu sự chuyển sang thời kỳ ấu niên.
Tỉ lệ chiều dài giáp đầu ngực và chiều dài toàn thân (CL/ TL): từ P 1 đến P14:
27-28%, từ P15 đến P21: 32%, từ P21 trở đi sắp xỉ 30% và hầu như không thay đổi
nữa, đánh dấu sự chuyển sang thời kỳ thiếu niên.
Từ ấu niên đến trưởng thành
Tôm ấu niên tăng trưởng CL 1-2mm/tuần, tương đương với TL 0,8mm/ngày.
Trong tuần đầu tôm tăng khối lượng thân gấp 6 lần. Khi vào trong cửa sông 6-7
tuần, tốc độ tăng trưởng giảm, chỉ còn gấp 2 lần/ 2 tuần. Khi đạt CL ≈ 10mm, tốc
độ tăng trưởng bắt đầu có sự khác biệt giữa hai giới.
Trong thực tế sản xuất, P 10 có chiều dài thân từ 9- 11mm sau 7- 10 ngày
ương đạt cỡ 1-2 cm (TL), sau 15- 20 ngày đạt cỡ 2- 3cm, sau 20- 25 ngày đạt cỡ 35 cm và sau 25- 30 ngày đạt cỡ 4- 6 cm. Nếu thả nuôi trong ao từ P 15 sau 1 tháng
nuôi đạt khoảng 1-2 g/con. Tôm nuôi 4 tháng đạt kích cỡ thương phẩm, đa sỗ loại
3 (30- 40 con/kg), một số loại 2 (20- 30 con/kg). Ở những ao nuôi điều kiện tốt (độ
mặn 10- 25‰) tôm tăng trưởng nhanh có thể thu hoạch đạt loại 3, loại 2 sau 2,5 – 3

tháng nuôi.
-Tuổi thọ của tôm Thẻ
Tôm Thẻ có tuổi thọ ngắn, tuổi thọ của tôm đực thấp hơn tôm cái. Trong
điều kiện sinh thái tự nhiên, nhiệt độ nước 30- 32°C, độ mặn 20- 40‰ từ tôm bột
đến thu hoạch mất 180 ngày, cỡ tôm thu trung bình 40g/con, chiều dài từ 4cm tăng
lên tới 14cm. Tuổi thọ trung bình của Tôm Thẻ > 32 tháng.
Sự lột xác
-Cơ chế sinh học của quá trình lột xác
Để sinh trưởng được, tôm cũng như tất cả các động vật chân khớp khác phải
tiến hành lột xác. Sự lột xác chỉ là kết quả cuối cùng của 1 quá trình phức tạp, trải
qua nhiều giai đoạn, được chuẩn bị từ nhiều ngày hoặc nhiều tuần trước đó. Quá
trình chuẩn bị diễn ra ở tất cả các mô có liên quan thông qua hoạt động như: huy
động nguồn lipid dự trữ ở gan, tụy, sự phân bào gia tăng và các ARN thông tin
được tạo thành và tiếp theo là quá trinh sinh tổng hợp các protein mới. Trong thời
gian này trạng thái của tôm cung thay đổi.
+ Giai đoạn sau lột xác


Là giai đoạn kế tiếp ngay sau khi tôm lột xác. Đây là khoảng thời gian từ khi
nước được hấp thụ và máu qua biểu bì, mang, ruột để làm tăng thể tích máu, căng
lớp vỏ mới còn mềm dẻo cho đến khi lớp vỏ mới đã cứng lại. Giai đoạn này có thể
kéo dài đối với tôm lớn hoặc vài giờ đối với tôm nhỏ.
+ Giai đoạn giữa lột xác
Đây là giai đoạn dài nhất theo sự phân chia này. Suốt giai đoạn này võ đã
xứng lại nhờ sự tích tụ chất khoáng và protein. Vỏ dày và đầy đủ cả 3 phần.
+ Giai đoạn trước lột xác
Lớp mô sừng ngoài nới hình thành vào đầu giai đoạn trước lột xác. Cuối giai
đoạn trước lột xác hình thành tiếp lớp giữa mô sừng mới. Lúc này lớp vỏ cũ đã
bong ra khỏi lớp biểu bì ở phía dưới làm cho vỏ tôm có màu trắng đục. Đây là một
trong những dấu hiệu để nhận biết sự lôt xác sắp xảy ra.

Ở giai đoạn này năng lượng đựoc điều động từ gan, tụy, một phần vỏ cũ cũng được
hấp thụ lại, hàm lượng hormone lột xác trong máu tăng cao và sau đó giảm đột
ngột ngay trước khi sự lột xác sắp xảy ra.
+ Giai đoạn lột xác
Chỉ kéo dài vài phút, bắt đầu từ khi lớp vỏ cũ tách ra ở mặt lưng nơi tiếp
giáp giữa vỏ đầu ngực và vỏ phần bụng và kết thúc khi tôm thoát hẳn lớp vỏ cũ.
Cũng có tác giả chi sự lột xác làm 5 giai đoạn: A- Ngay sau lột xác, B- Sau lột xác,
C- Giữa lột xác, D- Trước lột xác, E- Lột xác. Theo sự phân chia này thì giai đoạn
D (trước lột xác) là dài nhất. Mỗi giai đoạn được phân chia thành nhiều giai đoạn
phụ, căn cứ trên các biến đổi về hình thái rất chi tiết và phức tạp.
-Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lột xác
+ Ánh sáng: cường độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng đều ảnh hưởng đến
quá trình lột xác. Khi han chế thời gian chiếu sáng sẽ ức chế thời gian lột xác của
tôm, ngược lại nếu kéo dài thời gian chiếu sáng hơn bình thường sẽ rút ngắn thời
gian lột xác.
+ Nhiệt độ: nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến quá trình lột xác.
Nhiệt độ thấp hơn 14- 18ºC, sự lột xác bị ức chế. Nhiệt độ cao trong khoảng thích
hợp, tôm tăng cường hoạt động trao đổi chất, tích lũy dinh dưỡng, chuẩn bị đầy đủ
cho quá trình lột xác xảy ra.
+ Độ mặn: ở độ mặn thấp trong khoảng thích hợp tôm sẽ tăng cường lột xác,
sinh trưởng nhanh hơn.


+ Các yếu tố, điều kiện môi trường khác: pH, hàm lượng NO 3-, NO2-, NH4-,
độ cứng đều có sự ảnh hưởng đến sự lột xác. Việc bón vôi thường xuyên ở các ao
nuôi ít thay nước sẽ làm tăng độ cứng của nước làm cản trở sự lột xác xủa tôm.
+ Chu kỳ lột xác có liên quan đến chu kỳ thủy triều, thông thường đầu chu
kỳ thủy triều tôm mới lột xác rộ.
2.2.3 Đặc điểm dinh dưỡng
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)

Đặc điểm dinh dưỡng
Trong thiên nhiên thức ăn của tôm thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và
có liên quan mật thiết đến sinh vật phù du và sinh vật đáy. Tôm chân trắng là động
vật ăn tạp.
-Giai đoạn Nauplius
Tôm dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ, chưa ăn thức ăn ngoài. Đến cuối
N6 hệ tiêu hóa bắt đầu có sự chuyển động nhu động.
-Giai đoạn Zoea
Ấu trùng Zoea thiên về ăn lọc, ăn mồi liên tục, thức ăn là thực vật nổi, chủ
yếu là tảo Silic như: Skeletonema costatum, Chaetoceros, ossinodiscus, Nitzschia,
Rhizosolena... Ở giai đoạn này ấu trùng ăn mồi liên tục, thức ăn trong ruột không
ngắt quảng, đuôi phân dài cho nên mật độ thức ăn trong môi trường nước phải đạt
mật độ đủ cho Zoea có thể lọc mồi liên tục suốt giai đoạn này. Mật độ thức ăn tăng
dần từ Z1 đến Z3. Ngoài hình thức ăn lọc là chủ yếu, ở giai đoạn này ấu trùng còn
có khả năng bắt mồi chủ động. Khả năng này tăng dần từ Z 1 đến Z3 đặc biệt là cuối
Z3 trở đi.
-Giai đoạn Mysis
Tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như luân trùng, ấu
trùng Nauplius Copepoda, Nauplius artemia, ấu trùng động vật thân mền... Tuy
nhiên, thực tế sản xuất cho thấy ấu trung Mysis vẫn có khả năng ăn được tảo Silic.
Giai đoạn Postlarvae
Tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như: Artemia, Copepoda,
ấu trùng của giáp xác, ấu trùng của động vật thân mềm,... Cần chú ý ở giai đoạn
này, tôm thích ăn mồi sống nên trong sản xuất nếu cho ăn thiếu N- Artemia,
Postlarvae sẽ ăn thịt lẫn nhau.
-Thời kỳ ấu niên đến trưởng thành


Từ thời kỳ ấu niên, Tôm Thẻ thể hiện tính ăn của loài (ăn tạp, thiên về ăn
động vật). Thức ăn của tôm là các động vật khác như giáp xác, động vật thân mềm,

giun nhiều tơ, cá nhỏ.
Trong sản xuất giống nhân tạo ấu trùng Tôm Thẻ còn được cho ăn các loại
thức ăn nhân tạo tự chế biến như lòng đỏ trứng, sửa đậu nành, thịt tôm, thịt hầu và
các loại thức ăn nhân tạo sản xuất công nghiệp thường gọi là thức ăn tổng hợp.
2.4.Đặc điểm sinh sản
2.4.1.Cơ quan sinh sản
-Cơ quan sinh dục đực
Cơ quan sinh dục đực bên trong của Tôm Thẻ gồm một đôi tinh hoàn và đôi
ống dẫn tinh. Đôi tinh hoàn trong suốt không sắc tố, nằm ngoài mặt lưng từ vùng
tim đến gan tụy. Đôi túi tinh đổ ra hai lỗ sinh dục ở gốc đôi chân bò 5. Túi tinh có
chứa tinh trùng sẽ có màu xám nhạt hoặc màu trắng sữa. Khi tôm đự là căn cứ để
tuyển chọn tôm đực khi nuôi tôm bố mẹ.
Cơ quan sinh dục đực bên ngoài bao gồm Petasma và đôi phụ bộ đựuc.
Petasma do 2 nhánh trong của đôi chân bụng 1 biến thành, đôi phụ bộ đực do 2
nhánh trong của đôi chân bò 2 biến thành.
-Cơ quan sinh dục cái
Cơ quan sinh dục cái bên trong bao gồm một đôi buồng trứng và ống dẫn
trứng, đôi ống dẫn trứng đỗ vào 2 lỗ đẻ ở đốt ngoài đôi chân ngực 3.
Cơ quan sinh dục cái bên ngoài là Thelycum, có nhiệm vụ nhận và giữ túi
tinh từ tôm đực chuyển sang. Thelycum nằm giữa đôi chân ngực 4 và 5.
-Sự phát triển buồng trứng ở Tôm Thẻ
Sự phát triển buồng trứng ở Tôm Thẻ được chia làm 5 giai đoạn. Các đặc
điểm chính của từng giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn 1 ( chưa phát triển): buồng trứng mềm, nhỏ, trong, không nhìn
thấy qua vỏ kitin, giai đoạn này chỉ có ở tôm con.
+ Giai đoạn 2 ( phát triển): buồng trứng lớn hơn kích thước ruột, có màu
trắng đục, hơi vàng, rải rác có các tế bào sắc tố đen (tế bào melamin) khắp bề mặt.
+ Giai đoạn 3 ( gần chín): kích thước buồng trứng tăng nhanh, màu vàng
xanh đến xanh nhạt, có thể nhìn thấy rõ qua vỏ kitin.



+ Giai đoạn 4 ( chín): kích thước buồng trứng đạt cực đại, căng tròn, sắc nét.
Ở đốt bụng thứ 1, buồng trứng phát triển lớn, chảy xệ sang hai bên tạo thành cánh
tam giác.
+ Giai đoạn 5 (đẻ rồi): kích thứoc buồng trứng vẫn lớn nhưng buồng trứng
mềm và nhăn nheo, các thùy không căng như giai đoạn 4, buồng trứng có màu xám
nhạt. Trong buồng trứng vẫn còn trứng không đẻ.
2.4.2.Sự giao vĩ và đẻ trứng
-Sự giao vĩ
Hoạt động giao vĩ của Tôm Thẻ xảy ra chủ yếu vào đêm tôm đẻ trứng. Tôm
cái đựoc gắn túi tinh trước khi đẻ vài giờ hoặc có thể được gắn trước đó vài ngày
( lột xác  thành thục  giao vĩ  đẻ trứng).
Ban đầu một hoặc nhiều con đực cùng đuổi theo con cai ở phía sau. Con đực
thường dùng chủy và râu đẩy nhẹ dưới đuôi con cái. Khi tôm cái rời đáy bơi lên
phía trên, tôm đực bơi theo và tiến lên phía dưới con cái. Sau đó, tôm đực lật ngữa
thân và ôm tôm cái theo hướng đầu đối đầu đuôi đối đuôi hoặc tôm xoay 180° và
giao vĩ ở tư thế đầu đối đuôi.
-Đẻ trứng
+ Hoạt động đẻ trứng:
Trước khi đẻ tôm cái thường bơi lội gần sát đáy, vòng quanh bể, thỉnh
thoảng tôm bơi lên trên. Khi đẻ tôm bơi hẳn lên trên, nghiêng thân bơi chậm vòng
vòng trên mặt nước và đẻ trứng. Trứng được phóng ra từ 2 lỗ đẻ ở gốc đôi chân
ngực 3 và chảy ngược về phía sau. Ban đầu trứng chảy ra từ từ, sau đó chảy ra
mạnh thành một làn trắng đục hơi xanh.
+ Mùa vụ đẻ trứng và sức sinh sản:( Thái Bá Hồ, Ngô Trọng Lư, 2006)
Ở Bắc Equado, mùa vụ đẻ rộ từ tháng 4 đến tháng 5. Ở Peru mùa đẻ rộ từ
tháng 12 đến tháng 4. Số lượng trứng đẻ ra tùy theo kích cỡ của tôm mẹ. Nếu tôm
có khối lượng 30- 35g thì đẻ khoảng 100.000 – 250.000 trứng, đường kính trứng
khoảng 0,22mm
3.TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG

3.1.Tình hình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng
3.1.1. Tình hình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng trên thế giới và ở Việt Nam


Tôm thẻ chân trắng được xem là giải pháp lựa chon đa dạng hoá đối tượng
trong nuôi trồng thuỷ sản ở các quốc gia Châu Á. Nhưng trước các thông tin về các
đợt dịch bệnh, gây giảm sút sản lượng nghiêm trọng ở một số quốc gia Châu Mỹ
đã gây tâm lý e ngại cho các nhà quản lý ở các quốc gia có ý định nhập nội, thử
nghiệm và phát triển đối tượng tôm thẻ chân trắng. tuy nhiên những thành công
của các công trình nghiên cứu tôm sạch bệnh và cải thiện chất lượng di truyền của
các nước Châu Mỹ đã mở ra hy vọng cho việc duy trì và phát triển cho nghề nuôi
tôm thẻ chân trắng ở các vùng sinh thái trên thế giới. Ở các quốc gia châu Á, nhiều
nước di nhập và nuôi tôm thẻ chân trắng như Đài Loan, Trung Quốc, Philippin,
Thái Lan, Malaixia, Ấn Độ.
Ở Việt Nam, sự phát triển tôm thẻ chân trắng nhanh chóng gây áp lực lên
môi trường và nguồn cung ứng con giống. Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản,
năm 2013 cả nước có 583 trại sản xuất giống tôm thẻ chân trắng với tổng số giống
sản xuất được ước tính là 47,2 tỷ con, trong đó số lượng giống đảm bảo chất lượng
chiếm khoảng 30%. Nhu cầu giống để thả nuôi trên diện tích của năm 2014 khoảng
70-90 tỷ con. Tính đến nay, nước ta vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn tôm bố mẹ
nhập khẩu Tôm bố mẹ nhập khẩu vào Việt Nam đều được chứng nhận đảm bảo
tiêu chuẩn theo quy định (sạch bệnh, có xuất xứ nguồn gốc,v v). Tuy nhiên, giá
nhập khẩu cao, có sự chênh lệch lớn giữa các cơ sở cung cấp, dao động từ 26-65
USD/con. Do nguồn bố mẹ chưa chủ động được dẫn đến giá thành tôm giống cao.
Ngoài ra, việc nhập khẩu tôm bố mẹ không kiểm soát được chất lượng cùng với sự
phát triển trại sản xuất giống không theo quy hoạch và không đạt chuẩn nên con
giống kém chất lượng. Con giống chưa qua kiểm dịch vẫn lưu thông khá phổ biến
trên thị trường. Hậu quả cuối cùng là người nông dân nuôi tôm gánh chịu do tôm
chậm lớn, dịch bệnh.Vì thế, để phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam cần
phải có nghiên cứư xây dụng quy trình kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương

phẩm tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam, góp phần sử dụng có hiệu quả hệ sinh thái
các thuỷ vực nuôi là vấn đề cấp thiết và cấp bách. Kết quả nghiên cứu trong thời
gian 2 năm (2003-2004) về " Nghiên cứư áp dụng quy trình sản xuất giống và cơ
sở khoa học phục vụ quy hoạch vùng nuôi tôm chân trắng sẽ giải quyết được
những vấn đề trên".
3.1.2. Tình hình sản suất giống tôm thẻ chân trắng ở địa điểm nghiên cứu


Tại nơi nghiên cứu có 2 công ty sản xuất giống tôm thẻ chân trắng, thứ nhất là
công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Định III, thứ hai là công ty cổ
phần Việt Úc.
3.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống tôm trên thế giới và ở Việt Nam
3.3.1. Nghiên cứu về sản xuất giống
Vào giữa năm 1990 đã thành công trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng trên
thế giới là kết quả của việc có khả năng nuôi giống tôm bố mẹ có nguồn gốc từ
Mỹ. Phương pháp đầu tiên được thực hiện được bởi viện Hải Dương Học, Hawaii,
đã bắt đầu xây dựng giống không nhiễm bệnh từ phương pháp chọn lọc theo kiểu
chọn dòng.
Vào 2002 công ty CP Group tại Thái Lan đã xây dựng trung tâm cải tiến
giống tôm thẻ chân trắng đạt năng suất và tỷ lệ sống cao.Nghiên cứu ảnh hưởng
nhiệt độ nước lên số lượng và tỷ lệ dị hình của tinh trùng trong điều kiện nuôi nhốt
42 ngày, Pazec và ctv nhận thấy ở nhiệt độ 26 0C thì chất lượng tinh trùng tốt hơn
hẳn so với ở 290C và 320C. Cụ thể ở 260C số lượng tinh trùng là 18,6 triệu tế bào,
tỷ lệ dị hình là 99,7%, còn ở 32 0C thì không thấy xuất hiện ấu trùng.Ngoài việc cắt
mắt để kích thích sự thành thục và khả năng đẻ, Vaca và ctv còn dùng kích dục tố
Setrotomin(5-Hyđroxytrytamine) ở nồng độ 15 và 50μg/g trọng lượng cơ thể kích
thích tôm đẻ lần thứ hai, tuy nhiên sự thành thục và tỷ lệ đẻ của tôm cắt mắt cao
hơn nhiều so với phương pháp dùng kích dục tố.
3.2.2. Nghiên cứu về phòng và trị bệnh
Theo Lighner và Bell (1984-1987), Wyban và Swany (1991) ấu trùng tôm

thẻ chân trắng dể bị nhiễm Vibrio, vi khuẩn dạng sợi và các bệnh do nguyên sinh
động vật. Để phòng trị bệnh này ngoài việc thay nước, điều chỉnh các chế độ cho
ăn, dùng các loại hoá chất, cần phải tính đến một nguồn nước sạch trước khi đưa
vào nuôi.
3.2.3. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Do rất thận trọng với đối tượng nhập nội mới, nước ta cho dù đã đưa tôm thẻ
chân trắng vào nuôi từ năm 1997 ở Bạc Liêu (công ty Duyên Hải), sau đó ở Phú
Yên (công ty Asia Hawaii Ventures), ở Ninh Thuận (công ty Anh Việt) và Hà Tỉnh


(công ty công nghệ Việt Mỹ); việc sản xuất giống tôm thẻ chân trắng chỉ dừng lại ở
mức tự cung tự cấp trong nội bộ diện tích của các đơn vị nói trên và nhìn chung tỷ
lệ sống trung bình từ Nauplius đến Post dưới 30% (Lại Minh Hưng, 2005).
Từ năm 2002 các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu
quy trình sản xuất giống thẻ chân trắng như: Viện Hải Dương Học Nha Trang
(nguồn tôm bố mẹ do công ty Việt Linh cung cấp từ Hawaii), viện nghiên cứu
NTTS III Nha Trang nguồn tôm bố mẹ do công ty Asia Hawaii Ventures Phú
Yên), viện nghiên cứu NTTS I Hà Bắc (nguồn tôm bố mẹ do công ty Việt Đức
cung cấp)
Năm 2003, tại trại giống Hạnh Phúc Phú Yên hợp đồng với chuyên gia Thái
Lan sản xuất tôm sú sạch kết hợp với sản xuất thử nghiệm Post từ Nauplius tôm
thẻ chân trắng đạt tỷ lệ sống bình quân 30%.
Hiện nay đã có nhiều trung tâm, trại giống sản xuất tôm thẻ chân trắng đạt năng
suất cao như: Trại giống công ty Việt Úc, trại của Viện Nghiên Cứu NTTS III,
công ty Anh Việt.
Và đã có một số nghiên cứu, đề tài về tôm thẻ chân trắng đã được thực hiện
tại một số địa bàn và đã có kết quả như sau:
-Trung tâm Nghiên cứu thủy sản 3 là đơn vị duy nhất được bộ thủy sản chỉ
định nghiên cứu áp dụng kỹ thuật sản xuất giống và cơ sở khoa học phục vụ quy
hoạch vùng nuôi tôm thẻ chân trắng. Kết quả: Đây là đề tài NCKH cấp nhà nước

tiến hành từ 4.2003 đến 12.2004 kết thúc. Đến thời điểm này chúng tôi đã xây
dựng được các chỉ tiêu kỹ thuật trong sản xuất giống và định mức chất lượng tôm
bố, mẹ, trại giống tôm bố, mẹ cũng như các tiêu chuẩn về thiết bị, nhân công, nhân
lực... Kết quả nghiên cứu đã được báo cáo lên Bộ Thủy sản. Và khuyến cáo người
dân không tiến hành sản xuất giống tôm chân trắng tại các trại giông tôm sú và
giống tôm khác.
-Theo tạp chí thuỷ sản, số 12/2005: Đào Văn Trí - Nguyễn Thành Vũ Viện
nghiên cứu thuỷ sản III. Nghiên cứu ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống
của ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Thí nghiệm được thực hiện trong điều kiện môi
trường nước: có độ mặn 28-35ppm, nhiệt độ nước 26-30 oC, pH 7,5-8,2. Kết quả


×