Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Đề bài: Ngọn lửa tình người trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.5 KB, 13 trang )

ĐỀ: Ngọn lửa tình người trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân:
“Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một
khoảng thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa
nhất, một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi,
nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can
nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là khoảnh khắc chứa cả
một đời người, một đời nhân loại...”.
Mỗi lần đọc và giảng truyện ngắn "Vợ nhặt", tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy
của nhà văn quá cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy, cây bút truyện ngắn biệt tài
Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên
tác phẩm, ấy là buổi chiều “nhá nhem” không chỉ vẩn lên mùi ẩm thối, đi vào
một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm
mai mùa hè “sáng lóa”. Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được
xắn ra, viết lên trên trang giấy - cuộc sống của những lao động Việt Nam xanh
xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, chuẩn
bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song nhà văn không
miêu tả những bi kịch của kiếp người như những cây bút hiện thực thời kỳ ấy.
Chọn thời điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong
tập truyện nổi tiếng Con chó xấu xí, tác giả Vợ nhặt cũng không dùng giọng văn
ngắn mang âm hưởng sử thi ca ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên
kiếp, tình nghĩa của con người, toả hơi ấm từ tình người. Tình người - trước hết


là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã hội - đã được nhen nhóm, thắp
sáng giữa đêm đen của cuộc sống.
Chao ôi, cái đêm đen cuộc sống ở một xóm nghèo ven thành phố của những người
ngụ cư mới khủng khiếp làm sao! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc,
đường nét rõ rệt, ngay trước mắt con người: đường vào tối om, bóng người đói
với những khuôn mặt xanh xám đi lại dật dờ như những bóng ma - Cái đói, cái
chết cất lên trong “tiếng quạ gào từng hồi thê thiết trên mây cây gạo ngoài bãi
chợ”, trong tiếng “hờ khóc tỉ tê” của những gia đình vừa chôn cất người thân.


Rồi nó “vẩn thành mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “mùi
đốt đống rấm - đốt những vật dụng của người vừa chết - bốc lên khét lẹt”.
Trong tiến trình văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ đã viết về nạn đói: Phạm Đình
Hổ trong Vũ trung tuỳ bút kể chuyện mùa màng thất bát, cả một vùng rộng lớn
ở Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy nhông, đào bới…Nguyễn
Du trong Sở kiến hành tả cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và Thạch Lam,
và Nguyễn Công Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực
tả rõ nét cái nạn đói năm ất Dậu - 1945 - ở một thời gian cụ thể, một không
gian đậm đặc như Kim Lân đã làm. Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao
cũng từng dự cảm về “Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ
nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể của nhà văn mà như phải trực
tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu ấy, nhìn rõ cỏ cây,
nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, ngửi thấy
mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ “rùng mình”, còn khiếp sợ, còn xót


thương, ngột ngạt, tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích
thực cuộc đời đang hiện về? Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một
cảnh điêu tàn, rữa nát. Cái chết lan tràn, bao phủ. Đêm đen buông xuống. Đời
người, kiếp nhân sinh giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.
Vậy mà giữa bóng đen, giữa khí lạnh cuộc đời, hai kiếp người - anh con trai mệt
mỏi bởi những lo lắng chật vật hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sọp, xám xịt
- đã tình cờ gặp nhau, cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là
Tràng, rồi cô vợ. Họ được cả làng xóm dõi nhìn, cuối cùng được bà mẹ chấp nhận
bằng một tấm lòng ngọt ngào, ấm áp. Họ sưởi ấm cho nhau, cùng thắp sáng ngọn
lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần theo từng dòng chữ từng đoạn văn trong
Vợ nhặt, chúng la dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh tế của nhà văn khi ông - như
có chủ đích - đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và những tiếng nói,
giọng cười vui vẻ tuế toá, đan xen những bóng đen, màu xám và những tia sáng,
những ánh hồng. Câu chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình

tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo
một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của
hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối
cùng “sáng loá ” trong ánh nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách
ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói,
hướng tới Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước
có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới...


Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái - anh cu Tràng và cô vợ - những phút
đầu đúng là một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả
đôi anh chị cùng cất lời, đưa mắt thì... dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén.
Chỉ vừa nghe anh cái tiếng "Muốn ăn cơm trắng với giò...”, chị đã “nhà ơi”... rồi
“liếc mắt cười tít". Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người
con gái nào cười với hắn tình tứ như thế! Rồi hắn toét miệng cười và cũng biết
tình tứ lại chẳng kém gì cô em: “Này, hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã”. Ai dám
chê cái anh chàng đẩy xe bò đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như lưng gấu này không
có duyên! Song, giữa cái thời bên bờ vực chết đói này, duyên hay tình, hay gì
gì đi nữa trước hết phải là miếng ăn, là sự sống. Do đó sau khi biết đích xác chàng
trai có tiền, rồi lại được ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc hai con mắt trũng hoáy
của thị tức thì sáng lên, rồi ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
Hà, ngon!... “Này, nói đùa chứ có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về...”. Nói thế, Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngỡ thị về thật. Câu chuyện ái
tình của họ được Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt,
đùa vui, song hoàn toàn không phải là bèo bọt trăng gió vu vơ. Nó nghiêm túc,
càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc
đã nuôi nổi cái thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa nhau về, sau cái chặc lưỡi
liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị đi bên nhau
đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. Anh: nét mặt phởn phơ
khác thường, tủm tỉm cười nụ và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh. Chị: đầu hơi

cúi, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt, rón rén e thẹn. Cả


làng xóm như bừng dậy. Trẻ con hò reo, có đứa gào lên: “chông vợ hài”, người
lớn bàn tán, hỏi han, phán đoán. Những khuôn mặt u tối hốc hác bỗng dưng rạng
rỡ hẳn lên. Tiếng cười, nói, tiếng mời gọi râm ran. Có một cái gì lạ lùng và tươi
mát thổi vào cuộc sống đói tối tăm ấy của họ. Câu đố dường như dần dần được
giải đáp, mặc cho làng khen chê, đàm tiếu, Tràng vẫn cứ vênh mặt lên tự đắc,
lấy làm thích ý. Vì đến lúc này anh mới thực sự cảm nhận ý vị cuộc gặp gỡ tình
cờ, cái ý định chớp nhoáng, táo bạo mà đúng đắn của mình. Đi bên người đàn
bà ngượng nghịu trước lời khen của ai đó: ‘'khéo mà vợ anh cu Tràng thật, trông
ta e thẹn hay đáo để”, Tràng như quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày.
Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà ... Một cái
gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Đó
là tình yêu? Là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất đốì với hai
kiếp người tối tăm, vờ vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái
giây phút quan trọng nhất của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái,
ngầm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai con lên khoe:
- Đầu tối thắp đây này... Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ,
chẳng nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì...”.
Tràng đã nói ra được cái ý nghĩa thô mộc mà thiêng liêng nhất: “Vợ mới, vợ
miếc”. Cô gái cũng đáp lại được bằng "một lời nói suồng sã nhất: “khỉ gió”, và
một cử chỉ cởi mở nhất “đánh đét vào lưng hắn”, khiến cho "hắn thích chí ngửa
cổ cười khanh khách”. Vậy là, những e thẹn, những rụt rè, ngượng nghịu của ái
tình trai gái đã được bước qua để tới ngưỡng cửa của quan hệ vợ chồng rồi.


Chuẩn bị cho ngày vui đón vợ mới, anh chẳng có bạc vàng, rượu thịt cao sang
gì, chỉ có cái chai con đựng ít dầu thắp để... “cho nó sáng sủa một tí chứ”! vậy
mà em vẫn khen “sang nhỉ” rồi lại chuyên răn anh “hoang nó vừa vừa chứ”. Thật

xót xa, mà cảm động, một cuộc rước dâu chỉ có hai người rách rưới, vêu vao đi
bên nhau với một ít dầu thắp tối. Song cũng thật đàng hoàng, trịnh trọng, bởi
vì họ tự đến với nhau, tin cậy, hòa hợp. “Đôi ta như lửa mới nhen, như trăng
mới mọc, như đèn mới khêu”. Cái mối tình dân dã của anh Tràng và cô vợ nhặt
ngẫm ra cũng có ánh sáng, có lửa ấm đấy chứ!
Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: “Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng
qua nó cũng là cái số cả...”. Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc.
Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người vừa sâu nghĩa lý. “Nhà tôi làm bạn .. duyên ...
kiếp... cái số cả...”, ấy là những ngọn lửa Tràng thắp lên vừa để sưởi ấm, vừa để
soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa
ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới “duyên - kiếp” là chạm
vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi gái, trai. “Duyên” là sự hấp
dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. “Kiếp” là đời sống cơ cực cùng
cảnh ngộ, cùng thuyền, cùng hội mà tạo hoá đẩy, trôi đến gần nhau, cảm thông
với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ câu chuyện “tầm phào” ở bên đường
bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm lời bỡn cợt “vợ mới, vợ miếc”, giờ
đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng đã thực sự coi mối quan hệ
giữa mình với người con gái như có tiền định có lương duyên do trời sắp xếp,


do đời run rủi, ràng buộc. Có thể khi nói, Tràng chưa nghĩ được những điều sâu
xa như vậy, song cái cách anh ta “tươi cười" mời mẹ “ngồi lên giường lên diếc
chĩnh chện” rồi nhắc mẹ: “Nhà tôi nó chào u”, rồi bước lại gần... vừa giới thiệu
cô gái trong tư cách “nhà tôi” vừa khẳng định “duyên số” hai người trong giọng
điệu rành rẽ, đứng đắn, ai nghe chẳng cảm động, đồng tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã
hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ
ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con. Bà thấm thía, tủi hờn về
hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái., rồi
bà cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: Người ta gặp

bước khó khăn , đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới
có vợ... Bà nhắc lại ý con để nói với “nàng dâu mới”: ừ, thôi thì các con đã phải
duyên, phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Con tin yêu mẹ. Mẹ già cũng tin
yêu, tôn trọng dâu con. Mẹ chồng và nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở, thân
tình. Bà mẹ dạy con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”, phác ra
một tương lai “rồi ra may mà ông giời cho khá...”. Rồi an ủi, động viên: “con ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân... cốt chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Chúng
mày lấy nhau lúc này, u thương quá...”. Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người
tuy khi nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ làm người là ở chỗ
“thương”, ấy là tình người, lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người
phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vợi đi biết bao
đau khổ, giải toả biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại.
Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Phải chăng lúc đó là nước mắt của niềm vui,


của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh
diêm đối đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây
à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa...”. Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật
đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà lụp
xụp rách rưới của hai mẹ con bà Tứ không có ánh đèn. Đêm buông xuống, bóng
tối cũng ùa vào, che phủ. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ con sống lủi thủi, âm
thầm, hết kiếm ăn ban ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình xuống
vì mệt nhọc, chẳng cần đèn đóm, chuyện trò. Nay nhà có người mới:. con trai
có vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên cho sáng sủa! Ngọn đèn, hay
chính là ngọn lửa của tình người mà ánh sáng đã được nhen từ trong trái tim
của mỗi con người? ở Tràng, đó là ánh sáng từ sự ngẫu nhiên, tình cờ đến một
quyết tâm, một khát vọng, ở người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên kiếp, của
cảnh ngộ, ngẫu nhiên mà như số trời ràng buộc, xe kết. Ở bà cụ đó là ánh sáng
của tình thương, lòng bao dung, nhân hậu. Họ nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối
“sáng lên một tí”, để căn nhà toả ra hơi ấm, lòng người có thêm chút lửa để

quyết sống, quyết vượt qua tao đoạn này - cái tao đoạn tăm tối đau thương nhất
của đất nước bấy giờ. Có thể nói. nhà văn Kim Lân thắp vào giữa căn nhà bà cụ
Tứ một ngọn lửa - dù chỉ là của ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bây giờ - đồng
thời thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân
trọng trước bản lĩnh sống của con người - những con người trong tăm tối vẫn
nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con
người, nên người.


Nếu ở phần trước, các chi tiết, các sự việc của câu chuyện diễn biến trong sự đan
xen bóng tối và ánh sáng, thì đến phần sau, nhà văn dựng một không gian nghệ
thuật cả bề mặt và chiều sâu, đầy ... ánh sáng, cả khung cảnh và nhân vật đều
tắm trong ánh sáng, chan hoà ánh sáng, ánh sáng bừng lên như một chuyển
động tự nhiên, vì nhà văn kể về buổi sáng hôm sau. Song, ánh sáng ấy cũng đâu
phải ngẫu nhiên. Nó biểu hiện một cảm hứng lạc quan, nó soi tỏ một ngày mới,
một trang mới của tâm hồn, sự sống mỗi nhân vật, mỗi kiếp người. Nó cũng là
kết quả đẹp đẽ của ngọn lửa tình người.
Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng lóa. Nhà cửa, sân vườn
được quét tước thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đìa
được đem ra hong nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp.
Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch... Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy
những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên
mặt đất... Tất cà như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng,
ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy
mình đã “nên người”, thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người
thân, ý thức về sự “nên người” khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về
tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau
này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa
lại căn nhà. Người đàn bà - vợ nhặt của Tràng cũng đã đổi thay, khác hẳn. Rõ
là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn

như mấy lần Tràng gập ở ngoài tỉnh. Rõ là người vợ biết chăm sóc chồng lam


làm vun vén cho cái tổ ấm vừa xây dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị.
Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo quần giặt giũ, ang nước đầy, cái bếp ấm lửa. Nhà
văn không miêu tả chi tiết mà chỉ phác qua một nét nhẹ nhàng bằng cảm nhận
của Tràng - người chồng - hình ảnh người vợ vẫn hiện lên thật đáng yêu. Bà cụ
Tứ chợt thấy con giai, nhẹ nhàng bảo nàng dâu: “Anh ấy dậy rồi đây. Con đi dọn
cơm ăn chẳng muộn”. Vợ Tràng đáp: “Vâng”, rồi lẳng lặng đi vào trong bếp. Sự
việc diễn ra thật đơn sơ mà thấm thía làm sao! Mẹ chồng nàng dâu như đã sống
với nhau, gắn bó thương yêu, kính trọng nhau, thông thuộc việc nhà như đã
hàng chục năm rồi. Cái nền nếp, gia phong như đã được đắp xây bền vững từ
lâu lắm rồi. Người đàn bà ấy, đối với Tràng không còn là của “nhặt" được nữa,
mà thực sự đã là “vợ” rồi, là “nàng dâu” của mẹ anh rồi. Như vậy, chị ta cũng
đã “nên người”, xứng đáng “con người”. Còn cụ Tứ - người mẹ nghèo khổ, chậm
chạp, già yếu - cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo
u ám rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, sai bảo, dạy dỗ
con đâu, nhắc nhở, động viên con trai. Tâm hồn người mẹ chan hoà một nguồn
sáng mới - nguồn sáng của niềm tin yêu, hi vọng.
Ánh sáng của niềm tin yêu, hi vọng từ trong người mẹ, toả sang đôi vợ chồng
mới. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói - có độc một lùm rau chuối thái rối
và một đĩa muối ăn với cháo loãng - cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão
bàn chuyện ngăn bếp nuôi gà. “Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh
đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Một đôi gà thoáng trong
tích tắc đã hoá “đàn gà”. Có một ông bụt, một bà tiên nào đã nhập vào lời bà


cụ, hay chính bà cụ đang hoá thành tiên, bụt để đem đũa thần biến những khổ
đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm vui, ánh sáng?
Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành “cái này

hay lắm cơ...”, thành “chè đây, chè khoán đây”. Hình ảnh bà cụ “lật đật chạy
xuống bếp”, rồi “lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút”, cùng cái cử chỉ “cầm
muôi khuấy khuấy” múc từng bát cám và câu nói: “ngon đáo để... ngon đáo để...”
được nhà văn đặc tả vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu
chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện
đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường chắt lọc, nhất là những từ láy
đặc sắc: lật đật, lễ mễ, nghi ngút, khuấy khuấy, ngon đáo để. Càng về cuối, câu
chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật cảm động. Ngọn lửa tình
người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự gắng gượng vui
sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn... cứ nóng dần, lan toả trong
từng chi tiết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện
nồi cháo cám đắng chát mà vẫn “ngon đáo để”, ba con người khốn khổ ấy cố
quên đi những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài
đời rộng lớn. Đó là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho
người nghèo đói... Từ lời kể của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh
những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ
to lắm, lá cờ của Việt Minh dẫn đoàn người đi phá kho thóc chia cho người đói.
Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng nghĩ tới “đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới...”. Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc


Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong
tâm trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng
đó, tuy ba con người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh,
chấp chới một dự cảm ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng
thêm ngọn lửa tình người, giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan
màn đêm vây bủa để đi tới một buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng
hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng “lá cờ đỏ bay phấp phới" như một vĩ thanh buông
ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời chưa diễn ra, song ánh sáng
hồng một đời mới như đang ở ngay trước mặt, thắp trong người đọc một niềm

vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.
Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ nhặt không
chào đời cùng lúc với "Tắt đèn'', '"Chí Phèo", "Bỉ vỏ", hoặc đúng dịp Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Chúng ta được biết, nhà văn Kim Lân khởi thảo tác
phẩm năm 1940, chắc đã thai nghén những nhân vật, những tình hướng chi
tiết truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng
tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, qua sự trải nghiệm cuộc đời
với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và
công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn hiện thực
trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến
bế tắc. Điều đặc sắc nhất ở ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh
khắc của mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình
thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức


sống cả một đời người, một đời nhân loại. Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ
có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp mà còn thấm thía một lẽ sống ở đời. Trong
những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình
người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc. Âm hưởng ngân nga trong từng dòng,
từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và tiếng cười đan xen,
bóng tối và ánh sáng giành giật, để cuối cùng mở ra một ngày sáng lóa, có ánh
hồng của mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Cảm hứng nhân văn – tình
thương và niềm tin ở con người, trước hết với nhân dân lao động - của "Vợ
nhặt'' dường như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân
văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và
điều đặc sắc nữa ở ngòi bút Kim Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ
trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian mà giàu tính
nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại mà như trong cổ tích.
Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới “Vợ nhặt" - sáng tạo riêng
của Kim Lân - vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam.

Và ... biết đâu, sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện
cổ tích - cổ tích về duyên kiếp những con người đói khổ có nồi cháo cám ăn mừng
ngày nên vợ nên chồng, có bà mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ
báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.



×