Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.24 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta đã và đang tạo ra
nhiều cơ hội đối với sự phát triển của gia đình đồng thời lại đặt ra nhiều thách
thức đối với việc xây dựng gia đình và việc kế thừa, phát huy những giá trị tốt
đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình văn hóa ở
nước ta hiện nay.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt nam vẫn luôn được coi trọng như
một giá trị bền vững, có sức sống mạnh mẽ, là nền tảng, là tế bào của xã hội.
Truyền thống coi trọng gia đình, sống gắn bó với gia đình và tuân theo những
chuẩn mực đạo đức của gia đình truyền thống vẫn được nhiều người đồng
tình, khẳng định và coi đó là đạo lý làm người của người Việt. Ngày nay,
dưới tác động của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, gia đình Việt Nam
đang có những biến đổi một cách mạnh mẽ. Sự biến đổi ấy là một quá trình
thống nhất, liên tục vừa bảo tồn, truyền thụ, phát huy những giá trị tích cực
của gia đình truyền thống vừa tiếp thu có chọn lọc và cải biến những giá trị
của gia đình hiện đại.
Trong quá trình diễn ra những biến đổi của gia đình, có những giá trị
đạo đức của gia đình truyền thống đã bị mất đi; lại có những giá trị đang biến
đổi dần dần, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới và cũng có những giá
trị quý báu của gia đình Việt Nam truyền thống vẫn được bảo tồn và phát huy
như: sự chung thuỷ, tình nghĩa vợ chồng; trách nhiệm và sự hy sinh của cha
mẹ với con cái; con cái hiếu thảo với cha mẹ, ông bà, tổ tiên… đồng thời gia
đình Việt Nam hiện nay cũng đang tiếp nhận nhiều giá trị của gia đình hiện
đại như: tôn trọng tự do cá nhân, tôn trọng quan niệm và sự lựa chọn của mỗi
thành viên trong gia đình; tôn trọng lợi ích cá nhân, bình đẳng nam nữ, vợ
-chồng… Điều đó cho thấy, gia đình Việt Nam hiện nay đang được củng cố
và xây dựng theo xu hướng hiện đại hoá: dân chủ, bình đẳng, tự do và tiến bộ.

1



Đi cùng với những cơ hội đang thúc đẩy sự tiến bộ của gia đình Việt
Nam thì quá trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước hiện nay cũng đang
đặt gia đình đứng trước rất nhiều thách thức, biến động và bất trắc, có nguy
cơ xâm hại và làm mai một những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống.
Trên thực tế ở nhiều nơi, nhất là những khu đô thị lớn, gia đình đang có
những dấu hiệu của sự khủng hoảng, những giá trị của gia đình truyền thống
tốt đẹp đang bị lấn át bởi sự thao túng của đồng tiền, lối sống lai căng, thiếu
văn hoá, tình trạng ly hôn có xu hướng tăng cao; sống chung không kết hôn;
tình trạng trẻ em nghiện hút; tệ nạn mại dâm; tình dục đồng giới; bạo lực gia
đình; ngoại tình… đang tấn công vào gia đình từ nhiều phương diện khác
nhau. Có một thực tế đang đặt ra, nhiều gia đình đang lúng túng trong việc
nuôi dạy, giáo dục con cái, hướng con cái vào những chuẩn mực đạo đức cổ
truyền thì xem ra lỗi thời, không thích hợp; hướng con cái vào các giá trị hiện
đại thì chưa được xác định rõ ràng… nhiều gia đình chỉ biết dạy con theo kinh
nghiệm của mình; bộ phận khác lại hướng con cái theo suy nghĩ, lối sống hiện
đại đang được du nhập vào nước ta thông qua quá trình hội nhập quốc tế. Bên
cạnh đó, không ít gia đình lại phó thác việc giáo dục con cái cho nhà trường
và xã hội… dẫn đến những hệ quả tiêu cực đối với việc xây dựng gia đình,
giáo dục và định hình nhân cách cho thế hệ trẻ đang lớn lên và đang hàng
ngày, hàng giờ chịu tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường. Tình
hình đó đòi hỏi chúng ta phải xác định nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi giá
trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và
phát triển đất nước. Đồng thời chỉ rõ vai trò quan trọng của sự kế thừa và phát
huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
cụ thể là xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay nói chung và tỉnh
Vĩnh Phúc nói riêng.
Tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay đang trong quá trình đô thị hoá cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu với tốc độ ngày càng gia tăng. Sự chuyển đổi từ xã hội


2


nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp đô thị cùng với quá trình
quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ đã có những tác động nhất định đến toàn
bộ đời sống các thành viên trong gia đình. Do đó, việc kế thừa những giá trị
đạo đức của gia đình truyền thống để xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh
Phúc hiện nay là hết sức cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu trên, tôi chọn vấn đề
“Kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt
Nam trong xây dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sỹ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về gia đình
dưới nhiều góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài của luận văn có
thể phân chia các công trình này thành các nhóm cơ bản sau:
Nhóm vấn đề chung về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam có
một số công trình như: “Gia đình Việt Nam ngày nay” Nxb. Khoa học xã hội,
1996; “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của GS. Lê Thi,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; “Suy nghĩ về việc xây dựng chiến lược
phát triển gia đình hiện nay” của Lê Thị Quý, Tạp chí Cộng sản, số 30 –
2003; “Cuộc sống và biến động của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay ”
của GS. Lê Thi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Gia đình học” của
Đặng Cảnh Khanh – Lê Thị Quý, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009;
“Nghiên cứu gia đình và giới thời kỳ đổi mới”, Nhiều tác giả, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2010; “Các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam: Một số kết
quả phân tích sâu Điều tra gia đình Việt Nam 2006”, Viện Gia đình và Giới,
Nxb. Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch, Viện Gia đình và Giới, UNICEF Việt
Nam, Hà Nội, 2011… Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát một
cách có hệ thống về sự biến đổi quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình
trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Hôn nhân và gia đình đến nay

đối với người Việt Nam vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, gia

3


đình Việt Nam đã có những thay đổi về cấu trúc, quy mô, về việc thực hiện
các chức năng của gia đình. Nhiều khó khăn phức tạp đã nảy sinh trong hoàn
cảnh mới, xu hướng ly hôn đang tăng lên, lối sống thực dụng, thế lực đồng
tiền len lỏi trong nội bộ các gia đình, sự suy thoái về đạo đức, sự phân biệt đối
xử với phụ nữ, với trẻ em, nạn bạo lực gia đình vẫn đang tồn tại và diễn biến
phức tạp trong các gia đình… Những điều đó đã gây nhức nhối và cản trở sự
tiến bộ của các thành viên, phá vỡ hạnh phúc gia đình và ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững của đất nước.
Trên cơ sở xác định một cách rõ nét thực trạng gia đình Việt Nam, các
tác giả đều tập trung vào việc đề ra những phương hướng và giải pháp cơ bản
nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc ở nước ta
hiện nay. Đặc biệt, cần có sự kế thừa những giá trị đạo đức của gia đình
truyền thống và tiếp thu những giá trị đạo đức của gia đình hiện đại. Vun đắp
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, không chỉ đòi hỏi chúng ta
phải có cái tâm, có thiện ý, xuất phát từ tình cảm và trách nhiệm của mỗi
người mà còn phải có những kiến thức khoa học về tâm sinh lý, về cách tổ
chức đời sống gia đình trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế.
Nhóm vấn đề quan hệ giới và sự bất bình đẳng, bạo lực gia đình, có
một số công trình như: “Một số vấn đề về bạo lực gia đình hiện nay” của Lê
Thị Quý, Tạp chí Khoa học và Phụ nữ, số 4 – 1991; “Bất bình đẳng nam nữ
nhìn từ góc độ lịch sử” của Lê Thị Quý, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 32 –
1998; “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới Việt Nam”, Nxb. Phụ nữ, Hà
Nội, 1998; “Bạo lực gia đình - Bất bình đẳng trong quan hệ giới” của Lê Thị
Quý, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 42 – 2000; “Bạo lực gia đình - một sự
sai lệch giá trị”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Bình đẳng giới ở

Việt Nam: Phân tích số liệu điều tra”, Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh
(chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008; “Bạo lực gia đình đối với
phụ nữ ở Việt Nam: Thực trạng, diễn tiến và nguyên nhân”, Nguyễn Hữu

4


Minh; Trần Thị Vân Anh (đồng chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2009… Qua các công trình này, các tác giả đã chỉ ra thực trạng, nguyên nhân,
ảnh hưởng và hậu quả của sự bất bình đẳng giữa các thành viên, nạn bạo lực
gia đình đang diễn biến nghiêm trọng, tác động xấu đến gia đình và xã hội ở
nước ta hiện nay.
Nhóm vấn đề tiếp cận và nghiên cứu gia đình dưới góc độ văn hoá và
đạo đức gia đình
Dưới góc độ văn hoá có một số công trình như: “Nho giáo và gia
đình”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995; “Xây dựng gia đình văn hoá
trong sự nghiệp đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; “Gia đình
và Phụ nữ trong biến đổi văn hóa - xã hội nông thôn” của Nguyễn Linh
Khiếu, Nxb. Khoa học xã hội, 2001; “Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá
trị truyền thống”, Đặng Cảnh Khanh: Biên soạn, Nxb. Lao động xã hội, Hà
Nội, 2003; “Văn hoá gia đình và xây dựng gia đình văn hoá trong thời kỳ hội
nhập quốc tế” của Ths. Trần Thị Tuyết Mai, Tạp chí Cộng sản, số 161 –
2008… Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát được những giá trị
văn hoá của gia đình, chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng văn hoá gia đình và
gia đình văn hoá ở Việt Nam hiện nay.
Dưới góc độ đạo đức gia đình có một số công trình như: “Đạo đức
mới” của Vũ Khiêu (Chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974; “Quan
hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng giá trị đạo đức hiện nay”
của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, số 6, 1992; “Quán triệt mối quan hệ
giữa kinh tế với đạo đức” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Nghiên cứu lý

luận, 1-1987; “Định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường” của Thái Duy Tuyên, Hà Nội, 1994; “Những vấn đề về
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” của Viện Thông tin khoa học xã
hội, Hà Nội, 1996; “Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
trong cơ chế thị trường” của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 5,

5


1996; “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt
Nam” của Lê Thi, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1997; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức” của Thành Duy, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “Văn hoá
đạo đức Hồ Chí Minh” của Hoàng Chí Bảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009… Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát thực trạng đạo đức
của xã hội và gia đình Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế. Đồng thời, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về
đạo đức và lối sống của giới trẻ hiện nay. Từ đó, nhấn mạnh vai trò quan
trọng của nhà trường, cộng đồng, xã hội và đặc biệt là vai trò của gia đình
trong việc giáo dục đạo đức, lối sống và hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ
hiện nay.
Ngoài một số công trình nêu trên còn có các luận án, luận văn nghiên
cứu về gia đình, về đạo đức gia đình và giáo dục đạo đức trong gia đình như:
Luận văn thạc sĩ Triết học “Sự tác động của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đến đạo đức gia đình truyền thống ở Việt Nam” của Nguyễn
Thị Thọ; Luận án tiến sĩ Triết học “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục
thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” của Nghiêm Sĩ Liêm, 2000; “Gia đình trong
quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Tiến Vững,
2005; Luận án tiến sĩ tâm lý học “Ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến
định hướng giá trị cuộc sống của thế hệ trẻ” của Cấn Hữu Hải, 2001… Tuy
nhiên, các công trình nêu trên chỉ đề cập một cách khái quát hoặc một số khía

cạnh của gia đình nói chung, cho đến nay còn rất thiếu những công trình
nghiên cứu cơ bản và hệ thống về việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo
đức của gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình văn hoá ở
tỉnh Vĩnh Phúc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở xác định hệ giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt
Nam, từ nghiên cứu thực trạng xây dựng gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn

6


khẳng định sự cần thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của gia
đình truyền thống đồng thời chỉ ra một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy
những giá trị đó trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm gia đình, gia đình truyền thống, gia đình
văn hóa và hệ giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam.
Thứ hai, xác định những yêu cầu khách quan cần phải kế thừa và phát
huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình
văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Thứ ba, từ thực trạng xây dựng gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn chỉ
ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong xây dựng gia đình hiện nay.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống trong xây dựng gia đình văn
hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những giá trị đạo đức
của gia đình truyền thống Việt Nam và kế thừa, phát huy các giá trị đó trong
xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.

* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu về những giá trị đạo
đức của gia đình truyền thống Việt Nam mà ngày nay vẫn có ý nghĩa tích cực
trong xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm gần đây.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
Luận văn góp phần làm rõ khái niệm gia đình, gia đình truyền thống,
gia đình văn hóa, hệ giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam và
thực trạng xây dựng gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm kế thừa và phát huy các giá trị đó trong xây dựng gia đình văn hóa ở
tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.

7


6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và phương pháp luận biện chứng duy vật, kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích - tổng
hợp, thống kê, so sánh… để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Gia đình và giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt
Nam.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nhằm kế thừa và phát huy những
giá trị đạo đức của gia đình truyền thống Việt Nam trong xây dựng gia đình
văn hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.

8



CHƯƠNG 1
GIA ĐÌNH VÀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA GIA ĐÌNH
TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
1.1. Gia đình và gia đình truyền thống Việt Nam
1.1.1. Gia đình và vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã
hội
* Khái niệm về gia đình
Đã từ lâu, gia đình luôn là điểm tựa, là cội nguồn, là cái nôi của sự yên
bình của mỗi người đồng thời gia đình là yếu tố vô cùng cần thiết của xã hội –
gia đình là tế bào của xã hội. Trong lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen, để xây
dựng quan niệm duy vật về lịch sử, các ông đã dựa vào những tiền đề hiện
thực. Những tiền đề hiện thực này thường được C.Mác và Ph.Ăngghen sử
dụng với tư cách là những phạm trù xuất phát để nghiên cứu, mổ xẻ các quá
trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, mâu thuẫn, xu hướng vận động và
phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được biểu hiện một cách cụ thể
qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, con người, sở hữu... Điều đáng lưu
ý là, tất cả các phạm trù này đều có liên quan đến phạm trù gia đình. Bởi,
trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen gia đình là tế bào của xã hội,
tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất hàng hóa đến tiêu thụ sản
phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi dưỡng con người; từ
chỗ tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn đề sở hữu. Ngược lại,
các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng công cụ lao động, giáo
dục và đào tạo... đều tác động trở lại gia đình, củng cố hoặc làm biến đổi hình
thức và kết cấu của gia đình.
Vấn đề gia đình là vấn đề được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập nhiều
lần trong các tác phẩm của mình. Các ông đã xem xét gia đình với tư cách
một xã hội thu nhỏ, các hình thức lịch sử của gia đình, nhất là gia đình với sự
xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; nghiên cứu mối quan hệ giữa

9



gia đình và nhà nước, sự khác biệt giữa gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
và gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, C.Mác và Ăngghen còn
nghiên cứu gia đình trong quan hệ tính giao - vấn đề trong hôn nhân, và gia
đình với tư cách yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất trong lịch sử phát triển
xã hội.
Như vậy, trong lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen vấn đề gia đình
không chỉ dừng lại ở khái niệm "gia đình" thuần túy mà ở đây các nhà kinh
điển còn chỉ rõ nguồn gốc của gia đình, tác động của gia đình tới xã hội cũng
như những biến đổi xã hội tác động đến gia đình, đặc biệt là tác động của sự
biến đổi kinh tế, của tiến trình công nghiệp hoá.
Trong Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ cơ bản của con người
đã được hình thành trong lịch sử nhân loại. Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa
con người với tự nhiên, phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên, nghiên cứu
tự nhiên để tồn tại và cũng để nhằm thỏa mãn những nhu cầu không ngừng
nảy sinh của con người. Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa con người với con
người trong quá trình sản xuất, phản ánh các quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ thứ ba là quan hệ gia đình. Cũng theo
các ông, ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng tồn tại
bên nhau. Nhờ những nghiên cứu của C.Mác và Ph.Ăngghen về các hình thức
gia đình, chúng ta mới có thể hiểu rõ hơn nội dung của lực lượng sản xuất
(quan hệ thứ nhất), nội dung của quan hệ sản xuất (quan hệ thứ hai) và ngược
lại. Khi nhấn mạnh vai trò của gia đình đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng, thực ra, gia
đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội. Nhờ quan
hệ thứ ba này, với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra
và duy trì các quan hệ xã hội khác. Theo ý nghĩa đó, gia đình là một xã hội


10


thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành
xã hội và khi xã hội loài người được hình thành thì những hoạt động của nó
thường xuyên tác động tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về cả hình thức,
cấu trúc cũng như vai trò của nó đối với xã hội. Chính vì vậy, C.Mác và
Ăngghen luôn đòi hỏi nghiên cứu gia đình, nghiên cứu lịch sử loài người phải
gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của sự trao đổi sản phẩm.
Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con
người, C. Mác đã viết: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống bản thân mình, con
người bắt đầu tái tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [28, tr.41]. Với quan
niệm này gia đình được nhìn nhận với một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã
hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì
đồng thời cũng tạo ra gia đình.
Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở ra con người.
Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn
nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ - con cái).
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) C.Mác và Ph.Ăngghen
đã cho rằng, sự ra đời của nền sản xuất bằng máy móc hiện đại - nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất mới đã dần xóa bỏ toàn bộ hệ
thống công trường thủ công, đã thay đổi sự phân bố dân cư và kết cấu ngành
nghề của xã hội và do vậy, sự "yên ấm” của từng gia đình cũng bị phá vỡ theo
dòng xoáy của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không chỉ thế, nó còn làm thay
đổi vị trí và điều kiện sinh sống của gia đình, thay đổi nhu cầu thưởng thức
những giá trị vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong gia đình. Nếu
trước đây, nhu cầu tiêu dùng được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong

nước, thì nay đã nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng
những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về và một khi “sản xuất

11


vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”, nó làm
cho những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản
chung của tất cả các dân tộc. Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa còn tạo ra
một chế độ xã hội và chính trị thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở
hạ tầng mới. Nó xóa bỏ mọi phẩm chất và đức hạnh do chế độ phong kiến tạo
dựng; nó "tước hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay
vẫn được trọng vọng và tôn sùng" [29, tr.600]; nó biến đổi cả quan hệ gia
đình vốn được xem là thiêng liêng nhất, "xé toang tấm màn tình cảm bao phủ
những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan
hệ tiền nong đơn thuần" [29, tr.600]. Cũng trong tác phẩm này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định với sự hình thành và phát triển của nền đại công
nghiệp thì không chỉ các quan hệ xã hội mà cả quan hệ gia đình cũng đã bị
thay đổi.
Tiếp tục nghiên cứu về gia đình, trong một tác phẩm chuyên khảo đặc
biệt có giá trị Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước (1884),
Ph. Ăngghen đã chỉ ra vị trí quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Ông chỉ ra rằng: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết
định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực
tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư
liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản
xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự
truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một
thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại
sản xuất quyết định: ‘‘một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt

khác là do trình độ phát triển của gia đình” [30, tr.44]. Theo Ph. Ăngghen,
quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố quyết định
tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, cùng với trình độ phát triển của lực

12


lượng sản xuất thì sự phát triển của gia đình cũng đóng vai trò quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội.
Thực tế đã chứng minh rằng, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin về hôn nhân và gia đình đã và đang được thực tiễn chứng minh
là hoàn toàn có cơ sở khoa học, có giá trị thực tiễn cao, nhất là những tư
tưởng về những biến đổi của gia đình phụ thuộc và gắn liền với sự biến đổi
của các điều kiện kinh tế - xã hội nhưng có tác động quan trọng đối với những
biến đổi kinh tế - xã hội ấy.
Trên thế giới, hiện tồn tại rất nhiều hình thức gia đình với cấu trúc và
chức năng khác nhau. Có thể thấy, gia đình là một phạm trù xuất hiện sớm
nhất trong lịch sử loài người và trở thành phạm trù độc lập. Từ khi xã hội còn
lạc hậu đến thời đại văn minh, mỗi con người sinh ra, trưởng thành và từ biệt
cõi đời đều gắn bó với gia đình. Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên
của mỗi cá nhân và là tế bào của xã hội. Chính bởi vai trò đặc biệt quan trọng
của gia đình nên vấn đề gia đình luôn nhận được sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu do đó khi bàn về khái niệm gia đình ở nước ta có rất nhiều quan
điểm từ những góc độ tiếp cận khác nhau như:
- Dưới góc độ văn hoá học, cố giáo sư Trần Đình Hượu cho rằng, gia
đình là một thiết chế xã hội mang màu sắc dân tộc và đánh dấu tiến trình phát
triển về văn hoá. Đó là thiết chế cơ sở nằm cạnh các thiết chế xã hội khác như
họ, làng, xóm, phường, hội, dân tộc, nhà nước có những thực thể: cá nhân và
cộng đồng mà cá nhân đó tham gia (như họ, làng, các tổ chức xã hội, dân tộc,
quốc gia) [16, tr.79].

- Dưới góc độ cấu trúc, gia đình là “một thực thể sống, một hợp chất do
nhiều cá nhân cấu thành, nhưng không chứa một thuộc tính nào gọi là cá
nhân” [7, tr.151].
- Nhìn từ góc độ vai trò của gia đình đối với sự phát triển của mỗi cá
nhân thì gia đình được xem là trường học đầu tiên của mỗi cá nhân và cha mẹ

13


là những người thầy đầu tiên dạy cho con những đức tính, tình cảm tốt đẹp
theo truyền thống văn hoá của cộng đồng, dân tộc và bản thân gia đình.
- Từ góc độ tâm lý học: Gia đình là một nhóm xã hội, tồn tại và phát
triển dựa trên các mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và tình cảm huyết
thống sâu sắc, trong đó mỗi cá nhân hình thành và phát triển nhân cách.
Căn cứ vào thực tiễn của hôn nhân và gia đình ở nước ta, GS. Lê Thi đã
đưa ra quan niệm về gia đình: “Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một
nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống
nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội,
ngoại) cùng chung sống. Đồng thời, gia đình có thể bao gồm một số người
được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành viên gia
đình gắn bó với nhau về trách nhiệm, quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm),
giữa họ có những điều kiện ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa
nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hôn nhân và gia đình nước ta). Đồng
thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và cấm
đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [48, tr.7].
Để hướng tới xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên
hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình và thống nhất
khẳng định: Gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của
xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần
được giữ gìn và phát huy. Trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa về

gia đình: Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng chung sống
và có ngân sách chung. Cho đến nay, định nghĩa này được coi là quan niệm
chung và phổ biến khi nói về gia đình.
Nước ta hiện nay đang đứng trước yêu cầu của công nghiệp hoá – hiện
đại hoá, đổi mới và hội nhập quốc tế là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với
mọi dân tộc, quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong quá trình này, không thể
không xét đến mối quan hệ của nó đối với vấn đề gia đình và do vậy, không

14


thể không vận dụng lý luận về gia đình trong kho tàng lý luận của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề của thực tiễn. Nghiên cứu
quan hệ gia đình trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là mối quan hệ giữa
gia đình và sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong di
sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen không những giúp cho chúng ta thấy
được tác động của quá trình cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội, thấy được
những khuynh hướng biến đổi tất yếu của gia đình, mà còn giúp chúng ta
nhận thức được vai trò của gia đình đối với sự nghiệp đổi mới và mở rộng
hợp tác quốc tế ở nước ta hiện nay. Đó là vai trò của gia đình trong việc trang
bị tri thức mới cho thế hệ lao động tương lai, trang bị những hiểu biết căn bản
về những giá trị đạo đức truyền thống; nâng cao nhận thức về sự cần thiết
phải bảo vệ những ngành, nghề truyền thống trước những tác động tiêu cực
do mặt trái của nền kinh tế thị trường gây ra. Việt Nam đang đứng trước cơ
hội lớn để phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa, đồng thời cũng có những
thách thức nghiệt ngã cần phải vượt qua, trong đó có thách thức về xây dựng
gia đình Việt Nam trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của
gia đình truyền thống, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc
đổi mới và thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng xu thế toàn
cầu hoá. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta đã đề ra chủ trương là định hướng

chiến lược không chỉ đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam mới, mà còn
đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền
thống Việt Nam trong bối cảnh đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
* Vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội
Không thể phủ nhận được vai trò to lớn và rất quan trọng của gia đình
trong đời sống xã hội. Các tế bào cấu thành xã hội ấy vẫn còn và sẽ còn là
nhân tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Gia
đình là “tế bào của xã hội”, điều này trước hết chỉ ra rằng, gia đình và xã hội
có quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của

15


quá trình trao đổi chất, duy trì sự sống giữa tế bào và một cơ thể sinh vật. Xã
hội (cơ thể) lành mạnh tạo điều kiện cho các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào)
hạnh phúc góp phần cho sự phát triển hài hòa của xã hội. Trong hệ thống cơ
cấu xã hội có nhiều bộ phận khác nhau, nhiều thiết chế lớn nhỏ… với tính
cách là tế bào của xã hội, gia đình là tổ chức cơ sở, là cơ cấu và thiết chế xã
hội nhỏ nhất. Cơ cấu thiết chế nhỏ nhất này lại đa dạng và phong phú, trong
quá trình vận động, vừa tuân thủ những quy luật và cơ chế chung của xã hội,
vừa theo những quy định và tổ chức riêng của mình. Trình độ phát triển kinh
tế - xã hội quyết định đến quy mô, kết cấu, hình thức tổ chức và tính chất của
gia đình… Vai trò của gia đình được thể hiện rõ nét qua các chức năng cơ bản
của gia đình.
Thứ nhất, chức năng tái sản xuất ra con người – là chức năng có vai trò
quan trọng, là điều kiện và nhân tố không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Đây là chức năng cơ bản, tự nhiên của gia đình, nhằm cung cấp
nguồn lao động mới cho xã hội, mặt khác, để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu
cuộc sống của đôi vợ chồng và các thành viên.
Đối với gia đình Việt Nam truyền thống, chức năng này được đặc biệt

đề cao bởi tính quy định của nền văn minh nông nghiệp. Trong quá trình sản
xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có nhiều lao động, nhất là lao động của người
đàn ông. Gia đình càng đông con, nhất là đông con trai, thì lực lượng lao động
càng lớn và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất, đến các mối quan hệ trong
họ, trong làng. Tái sản xuất ra con người là điều kiện và là nhân tố không thể
thiếu để xã hội tồn tại và phát triển. Việc sinh con không chỉ nhằm thỏa mãn
nhu cầu, mong ước của người vợ, người chồng mà còn là vấn đề xã hội, vấn
đề duy trì tính liên tục sinh học của xã hội.
Có thể nói, chức năng tái sản xuất ra con người của gia đình có vai trò
đặc biệt quan trọng bởi nó là một trong hai loại sản xuất quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người.

16


Thứ hai, vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội được thể
hiện qua chức năng kinh tế. Gia đình là một đơn vị sản xuất kinh tế và tiêu
dùng của xã hội, có trách nhiệm tổ chức cuộc sống vật chất cho mỗi thành
viên đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của họ. Mặt khác, kinh tế gia
đình còn hỗ trợ cho kinh tế đất nước. Chức năng kinh tế của gia đình biến đổi
cùng với sự phát triển nền kinh tế chung của mỗi quốc gia.
Trong gia đình truyền thống, mỗi gia đình là một cơ sở sản xuất. Các
thành viên trong gia đình sống và làm việc cùng một nơi và cùng chia sẻ với
nhau cả về kinh tế lẫn tình cảm. Ngày nay, kinh tế gia đình đang tiếp cận
nhanh chóng với công nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại, không ít gia đình trở
thành cơ sở kinh tế được tín nhiệm, thực sự là nguồn lực góp phần phát triển
đất nước.
Thứ ba, trong sự phát triển của xã hội thì chức năng tổ chức đời sống
của gia đình đóng vai trò rất quan trọng bởi nó mang đến sinh khí cho mỗi
thành viên của xã hội.

Không những là tế bào của xã hội, gia đình còn là "tổ ấm" - nơi mà
mỗi thành viên của gia đình được chăm lo về đời sống vật chất, tinh thần và
tình cảm. Chính trong gia đình, con người mới thể hiện một cách đầy đủ nhất
những nhu cầu khát vọng và những tâm tư sâu kín, nhất là đối với thế hệ trẻ
đang tràn đầy sức sống, luôn hướng tới tương lai. Đời sống gia đình được tổ
chức tốt, cuộc sống của mỗi thành viên được đảm bảo và hạnh phúc, là điều
kiện rất quan trọng để mỗi người trong gia đình yên tâm, phấn khởi, tích cực
tham gia lao động, công tác và học tập; người già được chăm sóc, con trẻ có
cơ hội được nuôi dưỡng, rèn luyện, vui chơi giải trí và phát triển năng lực
toàn diện.
Trong gia đình truyền thống, chức năng tổ chức cuộc sống còn bị hạn
chế, trước hết bởi trình độ sản xuất còn thấp kém, con người chưa được coi là
mục đích của phát triển kinh tế. Hơn nữa, với chế độ phụ quyền và những ảnh

17


hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo, người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt
thòi hơn cả, thậm chí chỉ là người phục vụ trong gia đình, phục vụ chồng con
một cách đơn thuần, một chiều... Tuy nhiên, với truyền thống "Đói cho sạch,
rách cho thơm", đề cao tình nghĩa vợ chồng, tôn trọng người già, yêu thương
và hết lòng vì con trẻ, nên mặc dù ngoài xã hội, con gái còn bị xem thường và
khinh rẻ, nhưng trong gia đình họ vẫn có vị trí và vai trò xứng đáng xây đắp
nên "Tổ ấm tình thương", như người xưa vẫn thường nói: "Đàn ông xây nhà,
đàn bà xây tổ ấm". Trong gia đình hiện nay, với kết quả của sự nghiệp đổi
mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, kinh tế mở cửa, kinh tế
gia đình đã có nhiều đổi thay theo hướng tích cực. Đời sống vật chất được cải
thiện đáng kể, gia đình có điều kiện nuôi dưỡng, chăm lo ngày càng tốt hơn
cho các thành viên, đặc biệt là những nhu cầu về ăn, mặc, học tập, vui chơi
giải trí cho thế hệ trẻ. Một khi cuộc sống đã được đảm bảo, thì các thành viên

trong gia đình cũng có điều kiện để quan tâm đến nhau đến hạnh phúc chung
của gia đình nhiều hơn.
Thứ tư, chức năng giáo dục của gia đình là một trong những chức năng
quan trọng không thể thiếu của gia đình nó khẳng định vai trò to lớn của gia
đình trong quá trình tạo dựng nguồn nhân lực cho xã hội.
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên và quan trọng bậc nhất của
cá nhân. Trong mỗi gia đình đều chứa đựng một tiểu văn hóa đã được xây
dựng trên nền tảng văn hóa chung, nhưng với những đặc thù riêng của từng
gia đình. Các tiểu văn hóa này được tạo thành, tồn tại và phát triển bởi giáo
dục gia đình, truyền thống gia đình, lối sống gia đình...
Trong gia đình hiện nay, chức năng giáo dục được chia sẻ cùng với
nhà trường và xã hội, tuy nhiên để tạo ra một lớp người phát triển toàn diện,
để nâng cao chất lượng của nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của công cuộc đổi mới đất nước thì chức năng giáo dục gia đình ngày
càng được coi trọng. Việc xây dựng nhân cách con người phải căn cứ vào yêu

18


cầu của xã hội, vào hệ thống giá trị thay đổi tùy theo mỗi giai đoạn lịch sử.
Gia đình tác động đến sự hình thành tình cảm, tâm lý, hành vi ứng xử văn hóa
đến tư cách, phẩm chất của con người. Thế giới quan, nhân sinh quan của cá
nhân chủ yếu được định hình sau này trong quá trình tiếp xúc với môi trường
và cộng đồng xã hội, song trong quá trình hình thành nó cũng chịu sự tác
động nhất định của gia đình, của các thành viên trong gia đình với nhau.
Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình có chức năng
khá toàn diện, một trong những cơ sở khách quan khẳng định tính tất yếu về
sự hiện diện của gia đình đối với lịch sử và đối với mọi chế độ xã hội. Tuy
nhiên, mức độ thực hiện chức năng còn tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh
tế, văn hóa của từng giai đoạn phát triển xã hội, của từng quốc gia dân tộc và

tùy thuộc vào ý chí của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam, gia đình luôn được
đặt trong cơ cấu: Nhà - làng - nước. Bởi vậy, gia đình luôn là nhân tố quan
trọng của sự phát triển xã hội, trong đó với chức năng giáo dục, đã đưa gia
đình trở thành mắt khâu quan trọng của hệ thống giáo dục xã hội, đã trở thành
một nhân tố chủ yếu của công tác giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ - tương lai
của đất nước, nguồn lực của mọi nguồn lực...
Thứ năm, chức năng giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc
Mỗi gia đình là một tiểu văn hóa, được hình thành trên cơ sở đúc rút
và kế thừa nền tảng văn hóa chung của nhân loại, của dân tộc. Văn hóa đó
được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác tạo nên truyền thống văn hóa
gia đình được lưu giữ trong gia phong, gia phả, tộc ước, trong nếp nhà, lối
sống, trong lề thói. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, quá trình hình
thành và phát triển văn hóa Việt Nam gắn liền với quá trình liên kết cộng
đồng nhà - làng - nước. Hệ thống cấu trúc này là cơ sở của sự hình thành và
phát triển hệ thống giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc với cốt lõi là đạo
đức, phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam. Cấu trúc tổng quát của xã hội
được gọi là nhà nước với nghĩa ban đầu công nhận vai trò của nhà là nền tảng

19


của xã hội. Văn hóa gia đình, văn hóa làng xã, văn hóa dân tộc gắn bó với
nhau, nâng đỡ nhau, hỗ trợ cho nhau tạo dựng và phát triển. Như vậy có thể
thấy, gia đình là một nơi lưu giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,
là cái nôi giáo dục nhân cách con người có các hành vi ứng xử văn hóa.
Truyền thống văn hóa ấy từng ngày, từng giờ ảnh hưởng tới mọi mặt nhận
thức, thái độ và hành vi của mỗi con người, tạo ra cơ sở ban đầu cho sự
trưởng thành của mỗi người.
Thứ sáu, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của xã hội không thể
không nhắc đến chức năng đáp ứng nhu cầu tình cảm của gia đình.

Gia đình là một cộng đồng đặc biệt mà đặc trưng là các thành viên có
quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống, họ có nhiều điều kiện để liên tục
thỏa mãn cho nhau hầu hết các nhu cầu từ đơn giản đến phức tạp. Do vậy,
những thành viên trong gia đình gắn bó sâu sắc với nhau về mặt tình cảm.
Điều đó trở thành nhu cầu quan trọng không thể nào thiếu được đối với mỗi
người. Có thể nói, không có cộng đồng nào, tổ chức nào có thể mang lại tình
cảm ấm áp, sâu sắc và thiêng liêng bằng tổ ấm gia đình. Mặt khác, phần lớn
gia đình được hình thành từ cái gốc là tình yêu đôi lứa. Tình yêu thương, tình
nghĩa vợ chồng chính là ngọn nguồn của mọi tình cảm tốt đẹp lan tỏa trong
các thành viên gia đình, tạo nên môi trường văn hóa gia đình, giúp cho mỗi
thành viên cân bằng tâm - sinh lý, phát huy khả năng thực lực và chức năng
khác của gia đình. Gia đình trở thành chỗ dựa tình cảm và tinh thần của mỗi
thành viên, nơi con người có thể bộc lộ rõ nhất bản chất, cá tính của mình,
đồng thời cũng nhận được sự quan tâm, khích lệ, đùm bọc của cả cộng đồng
đặc biệt này. Tình cảm gia đình trở thành nét đặc trưng về tính chất ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các thành viên trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của họ.
1.1.2. Quan niệm về gia đình truyền thống Việt Nam

20


Gia đình truyền thống là một khái niệm mà các nhà nghiên cứu dùng để
chỉ loại gia đình đã hình thành và tồn tại trong quá khứ mà trong đó chứa
đựng nhiều yếu tố bền vững, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
những yếu tố đó phản ánh nền văn hoá bản địa và tạo nên nét đặc sắc của văn
hoá dân tộc. Ở Việt Nam, gia đình truyền thống là một khái niệm mang nhiều
hàm nghĩa khác nhau. Trên thực tế, khái niệm này thường được hiểu chỉ là
một phần trong các ý nghĩa đó, chẳng hạn người ta có thể hiểu gia đình
truyền thống là gia đình Nho giáo hoặc gia đình phong kiến. Một số khác

muốn nhấn mạnh tinh thần dân tộc, muốn gạt yếu tố “Nho giáo” hoặc “phong
kiến” ra khỏi khái niệm gia đình truyền thống để đồng nhất gia đình truyền
thống với hình thái gia đình Việt Nam cổ, trước khi Nho giáo xâm nhập. Khi
ấy gia đình được coi là tổ ấm của mỗi người, trong đó sự thuỷ chung, lòng
thương yêu và ý thức trách nhiệm là những giá trị cơ bản. Khi nghiên cứu về
gia đình truyền thống, GS. Đỗ Thái Đồng đã đưa ra cách hiểu về gia đình
truyền thống như sau: “Gia đình truyền thống chắc hẳn là hình thái gia đình ở
nông thôn, là gia đình ở những xã hội nông nghiệp Á Đông đã tồn tại lâu đời
và gần như bất biến trên nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình
nông nghiệp, là một định chế gắn liền với nền nông nghiệp cổ truyền, sự nhất
trí về khái niệm gia đình truyền thống có lẽ chỉ giới hạn đến đó” [11, tr.72].
Như vậy, gia đình truyền thống có thể được hiểu là loại hình gia đình
gắn với nền kinh tế nông nghiệp tiểu nông với đặc trưng sản xuất lúa nước, ít
biến đổi qua những thay đổi của lịch sử, tồn tại cho đến thế kỷ XIX (trước khi
tiếp xúc với phương Tây). Kiểu gia đình này gắn chặt với nền văn hoá cộng
đồng làng xã, là một đơn vị tổ chức sản xuất nông nghiệp kết hợp với sản xuất
thủ công và tiểu thương nghiệp, tự thoả mãn các nhu cầu sống của các thành
viên. Đó là gia đình phụ hệ, coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và chịu ảnh
hưởng rất lớn của Nho giáo. Tuy nhiên, trong gia đình truyền thống Việt
Nam, người phụ nữ vẫn được tôn trọng, đây là sự chi phối của văn hoá bản

21


địa và chịu sự tác động lớn của Phật giáo… những tác động này đã làm mềm
hoá các nguyên tắc cứng nhắc trong Nho giáo cho phù hợp với tâm lý, lối
sống của con người Việt Nam.
Gia đình truyền thống Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, đặc điểm kinh tế xã hội của gia đình : Gia đình truyền thống
là một đơn vị sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp. Các hộ gia đình tự sản

xuất những sản phẩm tiêu dùng cho gia đình mình. Ngoài công việc cày cấy
ra mỗi gia đình làm thêm một số nghề thủ công như đan lát, trồng dâu, nuôi
tằm, dệt vải để tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho cả gia đình. Với đặc thù sản
xuất lúa nước, trong gia đình đã có sự phân công lao động cụ thể giữa người
chồng và người vợ, thể hiện qua câu ca dao sau:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa”.
Công lao đóng góp của cả chồng và vợ là như nhau trong việc tạo ra
sản phẩm nuôi sống cả gia đình. Trong gia đình truyền thống thường quan
niệm “của chồng công vợ” do đó, người phụ nữ có vai trò quan trọng
trong quản lý các sản phẩm và chi tiêu trong gia đình. Người đàn ông trong
chế độ phụ hệ - Gia trưởng là người chủ gia đình về hình thức nhưng lại
không am hiểu tình hình kinh tế của gia đình bằng người vợ. Vì thế, người
đàn bà (người mẹ, người vợ) là người quyết định mọi thứ chi tiêu và quản lí
tiền bạc, tài sản trong nhà. Mặc dù, trong gia đình truyền thống, người phụ nữ
bị cột chặt vào lễ giáo phong kiến nhưng họ vẫn có vai trò nhất định trong gia
đình như: tề gia nội trợ, "tay hòm chìa khoá" hay "lệnh ông không bằng còng
bà", đàn ông là cái giỏ đàn bà là cái hom…
Thứ hai, phong tục thờ cúng tổ tiên là một trong những đặc trưng tiêu
biểu của gia đình truyền thống Việt Nam. Việc thờ cúng tổ tiên chủ yếu được
thực hiện ở nhà người con trai cả và nhằm vào tổ tiên trực tiếp về phía cha
(bên nội) trong phạm vi năm đời trở lại. Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình

22


người Việt là tín ngưỡng rất quan trọng, một số nhà nghiên cứu đã cho rằng
việc thờ cúng tổ tiên là một chức năng của gia đình truyền thống. Để làm tốt
nhiệm vụ này dẫn đến một yêu cầu tất yếu là việc nối dõi tông đường. Điều
đó có nghĩa là, việc thờ cúng tổ tiên chỉ thực hiện được khi có con trai nên

trong nội bộ gia đình, con trai được quý trọng hơn con gái. Người cha, người
con trai cả, cháu đích tôn, giữ vị trí quan trọng hơn các thành viên khác, con
gái sẽ về nhà chồng nên coi là “ngoại tộc”, nếu như họ ngoại có giúp đỡ và
quan hệ mật thiết hơn thì kết quả vẫn là “ăn bên ngoại, vái bên nội”. Con dâu,
đặc biệt là người dâu trưởng có vị trí cao, nhưng địa vị này chỉ được xác định
khi đã sinh được con trai nối dõi. Phong tục thờ cúng tổ tiên có tác động rất
lớn đến đời sống tinh thần của mỗi cá nhân. Nó là sợi dây nối kết các thành
viên trong gia đình qua các thế hệ khác nhau với ý nghĩa là nhớ ơn sinh thành
của tổ tiên, lưu truyền nòi giống và mong tổ tiên phù hộ cho con cháu.
Thứ ba, một trong những đặc trưng chi phối trực tiếp đến đạo đức của gia
đình truyền thống là văn hoá gia đình. Văn hoá gia đình truyền thống được thể
hiện qua các hình thức sau:
Gia giáo là giáo dục gia đình. Đây là hình thức giáo dục của gia đình
đối với các thành viên. Nội dung chủ yếu là giáo dục đạo đức, phẩm hạnh của
con người trong quan hệ với gia đình, xã hội. Đối với nam giới, gia giáo đặc
biệt chú ý đến giáo dục đạo lý Luân Thường. Luân có ngũ luân, đó là năm
mối quan hệ vua tôi; cha con; chồng vợ; anh em; bạn bè trong đó nhấn mạnh
Tam cương là vua tôi; cha con; chồng vợ. Thường nghĩa là ngũ thường, là
năm đức tính cơ bản của con người gồm nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đối với nữ
giới, thì gia giáo là giáo dục đạo lý Tam tòng, Tứ đức. Tam tòng, đòi hỏi sự
ngoan ngoãn phục tùng từ lúc mới sinh ra cho tới lúc chết “tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Còn tứ đức là bốn phẩm chất cần có của
phụ nữ là công, dung, ngôn, hạnh.

23


Nhìn chung, gia giáo có nhiệm vụ giáo dục cá nhân ngay từ trong gia
đình để hình thành con người phù hợp với xã hội truyền thống trong đó đạo
đức là yếu tố đặc biệt được nhấn mạnh. Đạo đức được coi là cái gốc của con

người, là biểu thị giá trị xã hội của con người.
Gia lễ là lễ nghi gia đình. Gia lễ là sự quy định cách thức, nề nếp để
đảm bảo cho gia đình sinh hoạt theo đúng phép tắc, có lễ nghĩa phân minh
trên dưới rõ ràng. Lễ thường được diễn ra ở các hình thức sau: quan, hôn,
tang, tế. Quan là lễ để trân trọng sự ra đời và trưởng thành của con người.
Hôn lễ là sự cưới vợ gả chồng. Tang là việc ma chay. Tế là việc cúng bái, thờ
phụng. Gia lễ không chỉ là nghi thức theo thói quen, phong tục mà gia lễ còn
được ghi chép thành sách để mọi người cùng xem và thực hiện.
Gia pháp là phép tắc (mang tính luật lệ) trong gia đình. Gia pháp là
những qui định nhằm ngăn ngừa, uốn nắn, trừng phạt những hành vi sai trái
của các thành viên trong gia đình. Đồng thời gia pháp cũng nhằm mục đích
bảo vệ và đề cao uy thế của gia trưởng, gìn giữ sự đoàn kết nhất trí trong nội
bộ gia đình hoặc để giữ những bí mật gia truyền. Gia pháp khẳng định sự
nghiêm khắc của cha đối với con, của anh đối với em. Gia pháp luôn được giữ
nghiêm, nếu không sẽ bị thiên hạ chê cười, phê phán. Gia pháp là một thứ luật
lệ bất thành văn, ai cũng phải biết, tôn trọng và tự giác tuân theo.
Gia phong là phong cách gia đình. Đây là nề nếp, lề thói mà người
trong gia đình đều phải noi theo trong lời ăn, tiếng nói, hành vi ứng xử trong
gia đình cũng như ngoài xã hội. Gia phong thể hiện bản sắc văn hoá của từng
gia đình và do gia giáo chi phối, nói đến gia phong là nói đến trật tự, kỷ
cương của gia đình, nói đến những tính chất đặc biệt của quan hệ gia đình với
nhiều thói quen, tập tục sinh hoạt. Một gia đình có gia phong lành mạnh là
con cháu phải giữ gìn được nề nếp của cha ông “giấy rách phải giữ lấy lề”
hoặc giữ tư cách gia đình “đói cho sạch, rách cho thơm” hoặc “trai thì trung
hiếu làm đầu, gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình”. Làm nhục gia phong là

24


phạm vào gia pháp và có thể bị trừng phạt nặng nề. Gia phong là nếp sống, là

niềm tự hào và lẽ sống của con người trong gia đình truyền thống.
Thứ tư, gia đình truyền thống Việt Nam rất coi trọng tình nghĩa, tôn
trọng phụ nữ, truyền thống đề cao tính cộng đồng là những nét đặc sắc trong
gia đình truyền thống Việt Nam.
Truyền thống trọng tình nghĩa được thể hiện ở cách ứng xử đặt tình
cảm lên trên trong ứng xử ở gia đình cũng như ngoài xã hội. Đối với người
Việt, gia đình không phải là nơi của công bằng và sòng phẳng mà là nơi chứa
đựng tình yêu thương. Ở đó, cha mẹ luôn luôn dành sự yêu thương vô bờ bến,
hết lòng, hết sức vì con ngược lại con cái phải làm tròn đạo hiếu, tôn thờ cha
mẹ không dùng lẽ phải để phán xét các bậc sinh thành, dưỡng dục mình.
Trong quan hệ anh chị em phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau và không có sự
tính toán thiệt hơn. Tình nghĩa là đặc điểm bao trùm lên tất cả các gia đình
truyền thống Việt Nam. Mặc dù, gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh
hưởng rất lớn của Nho giáo nhưng trong gia đình, người phụ nữ vẫn có một vị
trí đáng kể. Người Việt Nam vốn có truyền thống tôn trọng phụ nữ từ trong
nhà ra đến ngoài ngõ. Trong cuộc sống đời thường (trong nhà đàn bà được coi
là nội tướng) đến đời sống tâm linh có quan niệm “phúc đức tại mẫu” và tín
ngưỡng thờ mẫu của người Việt.
Tôn trọng phụ nữ không phải là quan niệm tự thân xuất phát từ đời
sống cộng đồng của người Việt, từ điều kiện sản xuất nông nghiệp trồng lúa
nước đòi hỏi sự phân công lao động giữa vợ và chồng đến vai trò “tề gia nội
trợ” của người phụ nữ và cả do hoàn cảnh thường xuyên xảy ra chiến tranh
đàn ông ra trận, đàn bà lo toan việc nhà. Chính vai trò của người phụ nữ trong
gia đình đã làm cho gia đình Việt Nam chính thống khác với gia đình Nho
giáo chính thống. Gia đình Nho giáo khẳng định quyền uy của người chồng,
người cha. Người đàn ông gia trưởng là người chủ duy nhất trong nhà đồng
thời cũng là người đại diện cho gia đình trong quan hệ với xã hội. Còn gia

25



×