Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Những thách thức từ Kinh tế Xã hội bắt nguồn từ sự khác biệt về cấu trúc tuổi của dân số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.65 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐHQG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
KHOA XÃ HỘI HỌC

XÃ HỘI HỌC PHÁT TRIỂN
Đề tài: Những thách thức từ Kinh tế -Xã hội bắt nguồn từ
sự khác biệt về cấu trúc tuổi của dân số

NĂM HOC: 2015-2016

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................................2
PHẦN 1. MỞ ĐẦU.............................................................................................................3
1.Đặt vấn đề....................................................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................................4
2.1. Mục tiêu chung......................................................................................................4
2.2. Mục tiêu cụ thể.....................................................................................................4
PHẦN II. NỘI DUNG.........................................................................................................4
1.Các khái niệm liên quan...................................................................................................4
1.1.Cấu trúc tuổi của dân số.........................................................................................4
1.2.Già hóa dân số...........................................................................................................4
1.3.Dân số vàng..............................................................................................................5
1.4.Tỷ suất phụ thuộc................................................................................................5
Tổng tỷ suất phụ thuộc là đại lượng được xác định bởi số người trong độ tuổi (0-14)
cộng với số người trong độ tuổi (65+) chia cho số người trong độ tuổi (15 – 64). 5
2.Thực trạng cấu trúc tuổi của dân số Việt Nam............................................................5
Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc và các tệ nạn xã
hội khác,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được thu nhập sẽ ngày càng trở lên


khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta có thể sẵn sàng làm mọi việc,
kể cả phạm tội. Mặt khác, dân số tăng cao khiến cho việc kiểm soát xã hội trở nên khó
khăn. Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất
sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột giữa các nhóm
người trong xã hội, gây nên những hậu quả to lớn.........................................................13
3.Các yếu tố tác động của sự khác biệt về cấu trúc tuổi dân số Việt Nam ......................13
PHẦN 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP..........................................................................................18
PHẦN IV. CÂU HỎI THẢO LUẬN...................................................................................20

2


Đề tài: Những thách thức từ Kinh tế -Xã hội bắt nguồn từ sự khác biệt về cấu
trúc tuổi của dân số
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Một báo cáo mới của Phòng kinh tế và xã hội (DESA) thuộc Ban thư ký
LHQ cho thấy dân số thế giới vẫn tiếp tục chuyển từ giai đoạn tỉ lệ sinh và tỉ lệ tử
cao sang giai đoạn tỉ lệ sinh và tử thấp.
Một trong những đặc điểm nổi bật của quá trình này là tỉ lệ người già ngày
càng tăng. Hiện nay cứ 10 người thì có một người trên 60 tuổi và theo dự đoán của
DESA đến năm 2050 tỉ lệ này sẽ là 5/1 và đến năm 2150, tỉ lệ này thậm chí sẽ là
3/1.
Ngoài ra, chính người già hiện cũng đang già hơn. Những người già hơn 80
tuổi hiện đang chiếm 11% trong số những người già nhưng tới năm 2050 sẽ tăng
lên 19%. Số người trên 100 tuổi vào khoảng 145.000 người năm 1999 và đến năm
2050 dự kiến sẽ lên khoảng 2,2 triệu người. Hiện tại, ở một số quốc gia phát triển,
tỉ lệ người già trong dân số đã xấp xỉ tỉ lệ 5/1 và dự kiến tỉ lệ này đến giữa thế kỷ
sẽ đạt là 4/1 và thậm chí ở một số nước là 2/1.
Với tình trạng dân số già ngày một gia tăng như hiện nay sẽ kéo theo hàng

loạt những hệ lụy về kinh tế và xã hội gây ra những tổn thất cho các quốc gia do:
sự suy giảm về kinh tế vì thiếu nguồn nhân lực, cùng với đó là vấn đề tăng cường
trợ cấp các khoản phúc lợi xã hội,…Trong đó, Nhật Bản, Đức là những nước có
dân số già trong thời điểm hiện tại và hiện nay đã và đang phải đối mặt với những
thử thách và khó khăn mới khi tỷ lệ người già tăng nhanh.
Qua đó, nhóm tác giả cũng tìm hiểu về tình hình cơ cấu dân số tại Việt
Nam qua những dự báo và thống kê từ công trình nghiên cứu trước đó để hiểu rõ
3


hơn về những thách thức kinh tế - xã hội từ sự khác biệt về cơ cấu dân số Việt
Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
- Tìm hiểu những thách thức kinh tế - xã hội bắt nguồn từ sự khác biệt về cấu trúc
tuổi của dân số Việt Nam
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Thực trạng cấu trúc tuổi của dân số Việt Nam
- Các tác động kinh tế - xã hội từ sự khác biệt về cấu trúc tuổi của dân số Việt
Nam
PHẦN II. NỘI DUNG
1.

Các khái niệm liên quan

1.1. Cấu trúc tuổi của dân số
Theo PGS.TS. Nguyễn Đình Cử thì cơ cấu dân số hay cấu trúc dân số theo
tuổi là sự phân chia tổng số dân theo từng độ tuổi hay nhóm tuổi.1
1.2.


Già hóa dân số

Khái niệm già hóa dân số chỉ quá trình già của dân số, khi trong cơ cấu dân số
số người cao tuổi chiếm tỷ lệ ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, tỷ lệ người cao tuổi
trong tổng dân số đến “ngưỡng” nào thì dân số được coi là già hóa, hiện vẫn có sự
khác biệt. Theo một số tác giả, khi trong tổng dân số, số người từ 65 tuổi trở lên
chiếm từ 7% đến 9,9% thì dân số đó được coi là bước vào quá trình “già hóa”
(theo Cowgill và Holmes, 1970). Một số tác giả và tổ chức quốc tế lại cho rằng khi
tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% trong tổng dân số thì dân số đó được coi
1

PGS.TS. Nguyễn Đình Cử, Cơ cấu dân số Việt Nam có gì mới, trích nguồn từ trang website:
/>
4


là “già hóa” (Dương Quốc Trọng, 2011). Còn khái niệm dân số già là khi trong
quy mô dân số, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 10%-19,9% (Cowgill) hoặc
14% (Dương Quốc Trọng)2.
1.3.

Dân số vàng
Là thời kì mà cơ cấu dân số thể hiện số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ

trọng cao hơn số người phụ thuộc hay nói cách khác là tổng tỷ suất phụ thuộc nhỏ
hơn 50.3
1.4.

Tỷ suất phụ thuộc


Tổng tỷ suất phụ thuộc là đại lượng được xác định bởi số người trong độ tuổi
(0-14) cộng với số người trong độ tuổi (65+) chia cho số người trong độ tuổi (15 –
64). 4
2. Thực trạng cấu trúc tuổi của dân số Việt Nam
Từ cuộc tổng điều tra dân số đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất ( 1975 – nay),
“bức tranh dân số” nước ta đã thay đổi nhanh chóng. Quy mô dân số đã tăng từ
52,742 triệu dân (1979), lên 85,155 triệu dân (2007); 2008 ước tính 86,16 triệu người
cơ cấu dân số cũng thay đổi mạnh đặc biệt là cơ cấu dân số theo nhóm tuổi; tỉ lệ
những người trong độ tuổi lao động tăng từ 51% lên 65%. Tương ứng, tỷ lệ những
người ngoài độ tuổi lao động giảm từ 49% xuống còn 35%.
Bảng 1: Cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam (1979-2007)
Đơn vị : %
Nhóm tuổi
0-4
5-9
10 – 14
15 – 19

1979
14,62
14,58
13,35
11,40

1989
14,0
13,3
11,7
10,5


2

1999
9,52
12,00
11,96
10,77

2007
7,49
7,84
10,18
10,71

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội ở thế kỉ 21, trích nguồn từ trang
website: />3
Lâm Thị Diệu Quyên, Dân số vàng và bài toán phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, Tuyển tập Báo cáo
Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 8 Đại học Đà Nẵng năm 2012
4
Lâm Thị Diệu Quyên, Dân số vàng và bài toán phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, Tuyển tập Báo cáo
Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 8 Đại học Đà Nẵng năm 2012

5


20 – 24
25 – 29
30 – 34
35 – 39
40 – 44

45 – 49
50 – 54
55 – 59
60 – 64
65 – 69
70 – 74
75 – 79
80 – 84
85+
Tổng cộng
Nguồn:

9,26
7,05
4,72
4,04
3,80
4,00
3,27
2,95
2,28
1,90
1,34
0,90
0,38
0,16
100,0

9,5
8,8

7,3
5,1
3,4
3,1
2,9
3,0
2,4
1,9
1,2
0,8
0,4
0,3
100,0

8,86
8,48
7,86
7,27
5,91
4,07
2,80
2,36
2,31
2,20
1,58
1,09
0,55
0,38
100,0


8,69
7,66
7,71
7,66
7,51
6,44
5,23
3,43
2,27
7,18

100,0

- TĐTDS 1979, 1989, 1999
- Điều tra biến động DS-KHHGĐ năm 2007
Số liệu bảng 1 cho thấy cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam thay đổi
nhanh chóng: tỷ lệ dân số của các nhóm tuổi đều tăng lên hoặc giảm đi một cách
rõ rệt. đặc biệt, tỷ lệ trẻ em ở nhóm (0 – 4) tuổi, năm 2007 so với năm 1979 chỉ
còn khoảng 1/2 . Ngược lại, trong 20 năm, tỷ lệ nhóm tuổi từ 5 trở lên tăng tới hơn
2 lần: từ 0,16% năm 1979 tăng lên 0,38% năm 1999. Điều này báo hiệu tuổi thọ
tăng lên và xu hướng già hóa dân số đang diễn ra.
• Dân số trong độ tuổi lao động tăng nhanh cả số tuyệt đối và tương đối
Sự phát triển của đất nước phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn lao động, cả số lượng
lẫn chất lượng. Vì vậy, khi phân tích cơ cấu dân số theo tuổi ta chủ yếu xét các nhóm
dân số “trong độ tuổi lao động” và “ngoài độ tuổi lao động” như: (0 – 14), (15 – 59)
và nhóm 60 tuổi trở lên.
Bảng 2: Cơ cấu dân số Việt Nam theo nhóm tuổi phản ảnh khả năng tham gia lao
động
Năm


Tỷ trọng từng nhóm tuổi trong tổng số dân
6

Tổng số


1979

0-14
42,55

(%)
15-59
50,49

1989

39,00

54,00

7,00

100

1999

33,48

58,41


8,11

100

2007

25,51

65,04

9,45

100

60+
6,96

100

Nhìn vào bảng 2, ta thấy rõ các nhóm dân số trên đều biến đổi nhanh chóng.
Sau gần 30 năm, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của Việt Nam đã tăng từ khoảng
50% - 65%, nghĩa là tăng thêm 15%. Nói khác đi, so với năm 1979, số người trong độ
tuổi lao động trong 100 người dân, năm 2007 đã tăng thêm 15 người.
• Nguồn dự trữ lao động dồi dào
Ở góc độ kinh tế, khi xem xét mối tương quan tiêu dùng và tích lũy, người ta
thường so sánh bộ phận dân số “trong độ tuổi lao động” và bộ phận dân số “ngoài độ
tuổi lao động” tại thời điểm điều tra. Tương quan giữa hai bộ phận này được thể hiện
qua “tỷ số phụ thuộc” hay còn gọi là “gánh nặng phụ thuộc”, là số người “ngoài độ
tuổi lao động” tương ứng với 100 người “trong độ tuổi lao động”.

Bảng 3: Phụ thuộc trẻ và phụ thuộc già
Năm
1979

Tỷ số phụ thuộc trẻ
84,2

Tỷ số phụ thuộc già
13,8

Tổng tỷ số phụ thuộc
98

1989

72,0

13,0

85

1999

57,1

13,9

71

2007


39,2

14,5

53,7

7


Nguồn: Tác giả tự tính toán từ số liệu Bảng 2
Từ năm 1979 đến 2007 tỷ số phụ thuộc không ngừng giảm xuống nhưng nếu
phân tích tỷ số này thành tổng của “tỷ số phụ thuộc trẻ” và “tỷ số phụ thuộc già” thì
sẽ thấy hai chiều hướng biến đổi ngược hẳn nhau: “tỷ số phụ thuộc trẻ” không ngừng
giảm xuống, “tỷ số phụ thuộc già” không ngừng tăng lên.
Sau 28 năm, “tỷ số phụ thuộc trẻ” đã giảm mạnh từ 84,2% xuống còn 39,2%
năm 2007 và trở thành nhân tố quyết định “tỷ số phụ thuộc” nói chung. Trong khi đó,
“tỷ số phụ thuộc già” tăng lên đôi chút, từ 13,8% lên 14,5%. Điều đó cho thấy tốc độ
già hóa dân số nhanh hơn tốc độ tăng “dân số trong độ tuổi lao động”. “phụ thuộc trẻ”
giảm, “phụ thuộc già” tăng sẽ tạo ra những vận hội và thách thức khác khau.
Qua các “Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động” và “Tỷ số phụ thuộc”, cho thấy,
Việt Nam không chỉ đổi mới nhanh chóng về kinh tế xã hội mà còn đổi mới nhanh
chóng về cơ cấu dân số. Sự thay đổi này vừa là một thuận lợi vừa gây ra áp lực giải
quyết việc làm đối với nước ta trong nhiều thập kỷ tới.
Cấu trúc dân số là một trong những nhân tố được đánh giá là nguồn lực quan trọng
của việc phát triển kinh tế xã hội của một đất nước. Những vấn đề biến động về cấu
trúc dân số bao gồm các nội hàm của nó có những ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho
việc tính toán cân đối sự phát triển về kinh tế xã hội sao cho phù hợp. Trong những
vấn đề thuộc về biến động của cấu trúc dân số, chúng ta cần đặc biệt lưu ý về cơ cấu
tuổi trong dân số. Bởi lẽ đây là vấn đề mang tính chất quyết định trực tiếp đến nguồn

lao động, lực lượng lao động - một nguồn lực cơ bản của việc tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội.
Đặt trong mối quan hệ giữa cơ cấu tuổi và việc phát triển kinh tế xã hội của một
quốc gia, mà cụ thể ở đây là Việt Nan, chúng ta dễ dàng nhận ra đó là mối quan hệ
tương hỗ tác động qua lại lẫn nhau luôn bao gồm 2 mặt hỗ trợ phát triển và tạo ra thử
thách. Nói cách khác, không một tình trạng dân số nào nói chung và cấu trúc tuổi nói
8


riêng là hoàn hảo cho sự phát triển của xã hội. Chúng luôn đan xen giữa những yếu tố
tích cực và hạn chế. Vấn đề là cần phải tận dụng tính tích cực của nguồn lực và tìm ra
giải pháp cho những thách thức.
Việt Nam hiện nay đang được đánh giá là một trong những quốc gia tồn tại một cơ
cấu tuổi dân số có nhiều yếu tố thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội hay còn gọi
là Dân số vàng. Đây là một thuận lợi mà Nhà nước cần tận dụng để phát huy tối đa cơ
hội của nguồn lực này. Tuy nhiên ngay cả trong tình hình thuận lợi nêu trên, chúng ta
vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều thử thách xuất phát từ thực trạng cơ cấu tuổi hiện
nay
Từ số liệu của bảng 1 và bảng 2 ở trên ta nhận thấy sau gần 30 năm, tỷ lệ người
trong độ tuổi lao động của Việt Nam đã tăng từ khoảng 50% lên 65%, nghĩa là tăng
thêm 15%. Nói khác đi, so với năm 1979, số người ở độ tuổi lao động trong 100
người dân, năm 2007 đã tăng thêm 15 người. Năm 2005, ở các nước phát triển, tỷ lệ
người trong độ tuổi lao động là 63%, các nước đang phát triển khoảng 61,1% còn các
nước kém phát triển nhất chỉ có 52,6%. Như vậy, có thể nói số người trong độ tuổi lao
động tại Việt Nam hiện nay đang ở mức độ rất lý tưởng cho việc phát triển kinh tế xã
hội. Tuy nhiên, một trong những thách thức mà Việt Nam gặp phải chính là trình độ
lao động chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.
Bảng 4. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua
đào tạo phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 5


Trình độ chuyên môn

2010

2011

2012

2013

Sơ bộ Prel.
2014

Chưa đào tạo chuyên môn kỹ thuật

5

85,4

Niên giám thống kê 2014, Dân số và Lao động, trang 127

9

84,5

83,4

82,1

81,8



Dạy nghề

3,8

4,0

4,7

5,3

4,9

Trung cấp chuyên nghiệp

3,4

3,7

3,6

3,7

3,7

Cao đẳng

1,7


1,7

1,9

2,0

2,1

Đại học trở lên

5,7

6,1

6,4

6,9

7,6

(Nguồn: Niên giám thống kê 2014, Dân số và lao động)
Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo khá cao, chiếm 82,1% năm 2013. Thời
gian dân số vàng gần kết thúc, lực lượng lao động chủ yếu lại chưa được đào tạo.
Kinh tế đất nước sẽ như thế nào khi lực lượng lao động chính đa phần chưa được
đào tạo? Số liệu trên có thể chúng ta nhận thấy tình trạng thiếu trình độ cao trong
lực lượng lao động hiện nay đang ở mức đáng báo động. Điều này có nghĩa là Việt
Nam đang có một lực lượng lai động rất hùng hậu về số lượng. Tuy nhiên cần xem
lại về chất lượng nguồn lao động.
Theo ông Nguyễn Đại Đồng- vụ trưởng vụ chính sách lao động và việc làm
(Bộ LĐ-TB-XH) cho biết: "Lực lượng lao động trẻ (tuổi 15-34) của VN chiếm

64,78% dân số. Trong đó, hầu hết chỉ học tới bậc phổ thông cơ sở và phổ thông
trung học. Số được đào tạo bậc ĐH và dạy nghề còn rất ít. Điều này gây ra nhiều
khó khăn trong quá trình tìm việc của thanh niên"6.
Thanh niên đi tìm việc lần đầu thường ở độ tuổi 20, nữ mất nhiều thời gian
tìm việc hơn nam. Những cản trở chính trong quá trình xin việc là thiếu kinh
nghiệm, không có cơ hội đào tạo, trình độ chưa đạt, không đủ việc. Về phía nhà
tuyển dụng, đa số muốn tuyển lao động nam trong nhóm 18-24 tuổi, đã qua đào
tạo ĐH, trung học hoặc học nghề. Tuy nhiên, họ gặp phải những bất lợi do người
được tuyển dụng thiếu kinh nghiệm, chưa có ý thức làm việc, ý thức kỷ luật kém.
6

Như Trang, Trình độ lao động trẻ Việt Nam còn thấp, trích nguồn trang website:
/>
10


Qua thống kê, năm 2008 là năm nhu cầu việc làm tăng mạnh mẽ (tăng 67%
so với năm 2007), nhưng vẫn bị bỏ lại phía sau, tạo thành một khoảng cách khá
lớn giữa nhu cầu nhân tài và nguồn nhân lực có sẵn trên thị trường. Sân khấu còn
bị chiếm lĩnh bởi những ngành nghề "nóng" như: Bán hàng, tiếp thị, tài chính-kế
toán, kỹ thuật ứng dụng, hành chính-thư ký, công nghệ thông tin-phần mềm, ngân
hàng- đầu tư, sản xuất và quản lý điều hành. Mặc dù thứ tự xếp hạng thay đổi hàng
quý nhưng những ngành này luôn nằm trong danh sách những ngành thống lĩnh thị
trường lao động trong năm qua.
Trong quý 2/2008, nhu cầu tuyển dụng ứng viên có kinh nghiệm không
thuộc cấp quản lý chiếm 66,7%, giảm 0,8% so với quý trước, nhưng vẫn chiếm ưu
thế. Cơ hội nghề nghiệp đối với người tìm việc ở cấp độ trưởng nhóm/giám sát
chiếm 9,3%, tăng 0,6% so với quý 1/2008.
Điều này nói lên rằng thị trường lao động Việt Nam vẫn trong “cơn khát”
lao động trung và cao cấp. Nhu cầu tuyển dụng nhân viên mới ra trường/thực tập

chiếm 3,4%, tăng nhẹ 0,8% so với quý trước; theo sau là cấp quản lý với 17,4%;
giám đốc 3,1%; trưởng đại diện (CEO)/chủ tịch/phó chủ tịch với 0,1%.
Thực trạng này cho thấy sự mất cân bằng trong mối quan hệ cung cầu của
thị trường lao động giữa một bên thừa lao động phổ thông và sự thiếu hụt về nhu
cầu lao động trình độ cao, có chuyên môn kỹ thuật. Điều này đã gây ra nhiều khó
khăn trong việc giải quyết các vấn đề việc làm của Nhà nước và ổn định thị trường
lao động trong nước. Bên cạnh đó, lực lượng lao động đông nhưng trình độ thấp
còn gây ảnh hưởng đến năng suất lao động của doanh nghiệp nói riêng và toàn xã
hội nói chung.
• Tỉ lệ sinh và số người trong độ tuổi sinh đẻ cao.
Quy mô dân số nước ta hiện là 86 triệu người. Mỗi năm số phụ nữ bước
vào độ tuổi sinh đẻ cao gấp 3 lần số phụ nữ hết tuổi sinh đẻ, cho dù số chị em này
11


chỉ có từ 1-2 con thì việc tăng dân số ở nước ta trong thời gian tới là khó tránh
khỏi. Mỗi năm, có trên 1 triệu phụ nữ mang thai và sinh con, trong đó khoảng 1/5
là các trường hợp sinh con thứ 3 trở lên. Riêng trong quý I/2008, số trẻ sinh tăng
7,2%, trong đó số sinh là con thứ 3 trở lên tăng 17,3% so với cùng kỳ năm 2007.
Để đạt được mục tiêu ổn định dân số ở mức 115 – 120 triệu người vào giữa thế kỷ
21 đang là một thách thức lớn đối với nước ta trong những năm tới. Trong khi đó,
Pháp lệnh Dân số có hiệu lực được 6 năm, nhưng một bộ phận người dân, thậm
chí cả cán bộ, Đảng viên vẫn sinh con thứ ba, điều này làm cho công tác thông tin,
giáo dục, tuyên truyền về chính sách dân số gặp không ít khó khăn. Hiện nước ta
đã có 45/64 tỉnh, thành phố có số người sinh con thứ 3 trở lên tăng cao, trong đó
dẫn đầu là tỉnh Cà Mau với tốc độ tăng 100%, Trà Vinh 97%, Bạc Liêu 87%...
Mặt khác, số người trong độ tuổi lao động cao đồng nghĩa với việc số người trong
độ tuổi sinh đẻ cũng chiếm tỷ lệ cao trong dân số. Điều này tiếp tục phản ánh
những nguy cơ tiềm ẩn về việc bùng nổ dân số trong tương lai nếu không có biện
pháp kiểm soát hợp lý.

Hiện mật độ dân số Việt Nam đã cao gấp 5 lần so với mật độ trung bình thế
giới và gấp 1,5 lần nếu so với Trung Quốc. Dân số tăng nhanh trong khi cơ sở hạ
tầng xã hội không đáp ứng kịp đã dẫn tới chất lượng cuộc sống toàn dân không
được cải thiện. Tình trạng mỗi gia đình đông con dẫn đến việc con người bị hạn
chế về cơ hội tiếp cận những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạn chế cả về cơ
hội phát triển của mỗi cá nhân.
Về mặt vĩ mô, sự gia tăng dân số không phù hợp với điều kiện cơ sở hạ
tầng của đất nước sẽ tạo ra những áp lực to lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau:
- Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1% thì thu nhập
quốc dân phải tăng khoảng 4%. Điều đó là vô cùng khó khăn ngay cả với một
quốc gia phát triển chứ đừng nói là một quốc gia đang phát triển. Trong phạm vi
một quốc gia, việc bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống của người dân trong
12


nước bị hạ xuống,mức sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ chăm sóc tối
thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi quốc tế, bùng nổ dân
số sẽ dẫn tới sự chênh lệch trong phân phối của cải giữa các khu vực, khiến cho
những nước giàu vẫn cứ giàu, những nước nghèo vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất
lượng dân số của thế giới bị kéo tuột xuống.
- Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để đảm bảo cho cuộc sống của mỗi
nguời, theo thống kê, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản trong lòng
đất. Như vậy, dân số tăng nhanh sẽ dẫn đến hậu quả cạn kiệt tài nguyên trong một
tương lai gần. Bên cạnh đó, nước ngọt cũng là một vấn đề đáng báo động. Hiện
nay tại Việt Nam đã có những dấu hiệu cho thấy sự quá tải dân số torng điều kiện
cơ sở hạ tầng không đảm bảo ở một số nơi đã dẫn đến tình trạng nước ngọt khan
hiếm.
Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn cướp bóc và các tệ
nạn xã hội khác,…Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được thu nhập sẽ
ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn cho mình người ta

có thể sẵn sàng làm mọi việc, kể cả phạm tội. Mặt khác, dân số tăng cao
khiến cho việc kiểm soát xã hội trở nên khó khăn. Nghiêm trọng hơn, xuất
phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc thiếu đất sống, thiếu “không
gian sinh tồn” có thể dẫn tới các cuộc xung đột giữa các nhóm người trong
xã hội, gây nên những hậu quả to lớn.
3. Các yếu tố tác động của sự khác biệt về cấu trúc tuổi dân số Việt Nam
3.1 Tác động đến thị trường lao động
Với xu hướng dân số già tăng lên sẽ làm cho dân số tham gia vào lực
lượng lao động càng ngày suy giảm, sự thiếu hụt nguồn lao động trong tương lai,
thiếu nguồn lực tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Mặt khác, lại làm gia tăng tỷ lệ
người phụ thuộc, thụ hưởng cụ thể là nhóm người cao tuổi. Không những vậy xu
hướng dân số trên đà già hóa sẽ làm giảm dần quy mô lực lượng lao động .7 Sự
7

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong thế kỷ 21”, trích nguồn từ

trang website: />
13


chênh lệch về dộ tuổi tròn cơ cấu dân số làm thay đổi cơ cấu lao động, “tỷ lệ
người ở độ tuổi cao (từ 45-60 tuổi) sẽ tăng lên và tỷ lệ gia nhập thị trường lao
động sẽ có xu hướng giảm đi. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho nền
kinh tế, các nước phải sử dụng lao động già hơn (đồng nghĩa với việc tăng tuổi
nghỉ hưu để có thêm nhân lực cho nền kinh tế)”8. Ngoài ra, với lực lượng lao
động già hóa làm cho năng suất lao động sẽ kém hơn nhóm trẻ. Vì thế ảnh hưởng
đến thu nhập của cả nước nói chung và của từng gia đình nói chung 9. Một vấn đề
có thể nói người cao tuổi họ có nhiều hạn chế trong việc tiếp thu và sử dụng các
công nghệ khoa học trong sản xuất vì thế năng suất không cao. Khó khăn trong
việc tich lũy nói chung cũng gặp nhiều khó khăn khi chi phí chăm sóc sức khỏe,

dịch vụ xã hội khác tăng cao10.
3.2 Áp lực cho phúc lợi xã hội và an sinh xã hội
Lượng người cao tuổi tăng nhanh sẽ gây áp lực cho hệ thống an sinh xã
hội, lương hưu phải tăng lên, chi phí chăm sóc người cao tuổi, phúc lợi xã hội
khác tăng cao , chi phí chăm sóc cho người cao tuổi cao gấp 5-6 lần so với khi
còn trẻ, gấp 7-8 lần trẻ em. Hằng năm bảo hiểm xã hội nói chung, và quỹ hưu chí
nói riêng chi cho lương hưu sẽ nhiều hơn và dài hạn hơn khi tuổi thọ trung bình
ngày càng tăng. Không những vậy, với tình hình người cao tuổi tăng cao nhưng
hiện nay với trình độ phát triển của Việt Nam, thì y tế là một lĩnh vực sẽ chịu
nhiều áp lực, không trang bị đủ cơ sở hạ tầng, trang thiết bị không đáp ứng được
nhu cầu chăm sóc, điều trị bệnh cho đối tượng này. 11 Một số nhận định cho rằng
với tính trạng của cấu trúc dân số mà tỷ lệ người phụ thuộc tăng lên, trong khi số
người đóng góp thì lại có xu hướng giảm, điều đó làm cho nền kinh tế gặp nhiều
8

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong thế kỷ 21”, trích nguồn từ

trang website: />9

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong thế kỷ 21”, trích nguồn từ

trang website: />10

Lê Tiến Dũng, 2008, “Sự già hoá dân sốvà những ảnh hưởng tới sựphát triển
kinh tế- xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học công nghệ số 2(46), tr. 64.
11

Mai Nguyên, 11/05/2014, “Cơ cấu dân số già những thách thức tiềm ẩn”, Báo nhân dân, truy cập:
/>
14



áp lực hơn12. Ngoài ra, Với đặc điểm điển hình của Việt Nam là một trong những
quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình thấp, thu nhập của người lao động
đôi khi không đủ chi tiêu trước mắt, vì vậy cũng không có khả năng tích lũy để
chi dùng khi lớn tuổi, chính điều đó sẽ làm một gánh nặng cho con cái, nhưng khi
bước chân vào xã hội già hóa dân số thì chi phí, áp lực này sẽ đổ vào cho an sinh
xã hội.13
3.3 Ảnh hưởng đến quy mô gia đình
Do số con ngày càng giảm đi cho nên quy mô gia đình cũng có những thay
đổi, gia đình mở rộng, nhiều thế hệ đã giảm nhiều, thay vào đó là những gia đình
hạt nhân. Con cái ít sống gần bố mẹ, vì thế nhiều trường hợp người cao tuổi rơi
vào tình trạng sống cô đơn hoặc sống chỉ có hai vợ chồng già. Trong khi hệ thống
dịch vụ chăm sóc người cao tuổi ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là một
trong những rũi ro của người cao tuổi. Đồng thời, nó cũng là một áp lực đối với
chính sách an sinh xã hội của nước ta trong thời gian tới. 14 Theo báo cáo của cuộc
điều tra mức sống hộ gia đình giai đoạn 1992-2008 cho thấy tỷ lệ người cao tuổi
sống với con cháu giảm từ 80% (năm 1992) còn 62% vào năm 2008. Trong khi
đó tỷ lệ người cao tuổi sống cô đơn hoặc chỉ có hai vợ chồng tăng lên hơn hai lần
từ 3,47% năm 1992/93 lên 6,14% năm 200815.
3.4. Tình trạng quá tải đáp ứng nhu cầu xã hội
Một tỷ lệ người phụ thuộc cao sẽ tạo sức ép lên ngành y tế, giáo dục. Việc
chăm lo cho nhóm đối tượng này không chỉ là trách nhiệm của mỗi gia đình mà
còn là vấn đề cần phải giải quyết của nhà nước. Trong đó nhu cầu thiết yếu cơ bản
là y tế, giáo dục. Vì nhóm đối tượng này không thuộc độ tuổi lao động nên không
12

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong thế kỷ 21”, trích nguồn từ

trang website: />13


PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong thế kỷ 21”, trích nguồn từ

trang website: />14

PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong thế kỷ 21”, trích nguồn từ

trang website: />15

UNFPA, 2011, Báo cáo già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam, thực trạng, dự báo và một số
khuyến nghị chính sách.

15


có đủ khả năng tự chăm lo cho bản thân trong những vấn đề nêu trên. Vì thế, số
lượng nhóm tuổi này sẽ gây áp lực giải quyết các vấn đề xã hội khác.
Trước hết là ở lĩnh vực giáo dục. Chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam trong
khoảng thời gian năm 2000-2005 rất lớn so với mức thu nhập của người dân và
thu nhập của cả nước. Một vài con số sau đây thể hiện điều đó:
- Chi tiêu cho giáo dục ở VN năm 2005 chiếm 8,3% GDP, vượt cả Mỹ chỉ
có 7,2%.
- Trong chi tiêu trên, dân các nước phát triển cao chi trả 20%, còn ở Việt
Nam dân chi trả tới 40%. Phần còn lại là nhà nước chi trả.
Có thể thấy, chi phí cho giáo dục ở Việt Nam rất lớn (bảng 5). Tỷ lệ chi phí
cho giáo dục trên GDP là 8,3% vượt xa các nước phát triển cao thuộc khối OECD
kể cả Mỹ, Pháp, Nhật và Hàn Quốc(bảng 1 và 2). Có người cho rằng cần phải so
sánh dựa trên chi phí tính bằng tiền đô la Mỹ, và như thế chi phí cho một HS ở
Việt Nam rất thấp. Nhưng điều này không hợp lý vì các nước có trình độ phát triển
khác nhau. Chỉ có so sánh dựa vào khả năng chi phí của nền kinh tế mới có giá trị

phân tích: đó chính là tỷ lệ chi phí trên GDP.
Kết quả này cũng cho ta so sánh mức trách nhiệm chi phí cho giáo dục: từ
ngân sách nhà nước và từ đóng góp của nhân dân (bảng 4). Người dân hiện nay ở
Việt Nam chi trả 40% chi phí giáo dục, trong khi ở các nước phát triển cao trung
bình dân chúng chỉ chi trả 20%, phần còn lại là từ ngân sách nhà nước.
Bảng 5. Tỷ lệ chi phí cho giáo dục ở Việt Nam 2000-2005

Tổng chi cho giáo
dục (tỷ)
Tỷ lệ chi/GDP (%)

2000

2001

2002

2003

2004

2005

23,219

25,882

34,088

37,552


54,223

68,968

5.3

5.4
16

6,4

6.1

7.6

8.3


Tỷ lệ ngân sách cho
giáo dục /GDP

3.2

3.2

3,8

3.7


4.6

5.0

(Nguồn: Bộ GD-ĐT và Ngân sách nhà nước)
Bảng 6. Số liệu so sánh chi tiêu cho giáo dục ở Việt Nam và các nước

Chi tiêu cho giáo
dục/GDP (%)
Từ ngân sách
Từ dân và các nguồn
khác

Việt Nam

Mỹ

Pháp

Nhật Hàn Quốc OCDE

8.3

7.2

6.1

4.7

7.1


6.1

5

5,3

5.7

3.5

4.2

4.9

3,3

1,9

0.4

1.2

2.9

1.2

(Nguồn từ OECD, Education at a Glance 2005)
Bên cạnh đó, y tế cũng chịu một áp lực rất lớn từ tỷ lệ phụ thuộc cao trong
xã hội. Trong những năm gần đây, quá tải bệnh viện đang là một trong những vấn

đề bức xúc của ngành y tế Việt Nam. Tình trạng quá tải phổ biến nhất là tại các
bệnh viện tuyến trung ương và bệnh viện nằm ở thành phố lớn. Các bệnh viện
đang phải tiếp nhận một lượng bệnh nhân vượt mức thiết kế cho phép và tình trạng
quá tải có nguy cơ làm giảm công bằng, hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân. Thông qua một cuộc nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách Y
tế đã kết hợp với Tổ chức Y tế thế giới ở các bệnh viện tuyến trung ương. Trong
đó có 2 bệnh viện đại diện cho khối bệnh viện đa khoa (Bạch Mai, Chợ Rẫy) và 3
bệnh viện đại diện cho nhóm bệnh viện chuyên khoa (Nhi Trung ương, Phụ sản
Trung ương, Phụ sản Từ Dũ). Kết quả cuộc nghiên cứu này cho thấy:
-Tất cả các bệnh viện được điều tra đều hoạt động vượt công suất thiết kế:
công suất sử dụng giường bệnh luôn từ 165 đến 200%; số giường bệnh thực kê
vượt so với số giường chỉ tiêu đến 200%; Số ngày sử dụng thực tế trung bình 1
giường bệnh/năm dao động từ 390 –774 ngày/giường bệnh/năm (bình thường 280
17


ngày/giường/năm). Tình trạng quá tải xảy ra ở cả khu vực điều trị nội trú và khám
bệnh ngoại trú. Đối với bệnh viện đa khoa, tình trạng quá tải trong điều trị nội trú
chủ yếu chỉ xảy ra ở các khoa điều trị các bệnh mạn tính, khó chữa.
-Lực lượng cán bộ chuyên môn luôn phải làm việc quá sức: Định mức cán
bộ y tế/giường bệnh thấp hơn so với quy định trong Thông tư liên tịch số
08/2007/TTLT-BYT-BNV. Tỷ lệ cán bộ y tế trên một giường bệnh chỉ tiêu dao
động từ 0,57 - 1,09 là quá thấp so với quy định (Quy định là từ 1.45-1,55 người/1
giường bệnh). Nếu so sánh tương quan giữa cán bộ y tế với số bệnh nhân thực tế
thì chỉ số này thấp hơn nhiều. Việc thiếu cán bộ đã ảnh hưởng rất nhiều đến chất
lượng khám chữa bệnh (thời gian khám bệnh trung bình/1 bệnh nhân chỉ 3-5 phút)
PHẦN 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực chính là đầu tư cho con người thông
qua các hoạt động giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ, tạo việc làm,
an sinh xã hội...nhằm phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu

kiến thức, tay nghề; tính năng động và sức sáng tạo của con người; cùng với việc
phát huy bản sắc nền văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc để hun đúc thành bản
lĩnh, ý chí của con người trong lao động. Đó chính là nguồn nội lực, là yếu tố nội
sinh, nếu được phát huy và sử dụng có hiệu quả sẽ là động lực, nguồn sức mạnh để
phục vụ cho chính con người và xã hội.
Thứ nhất, để nâng cao chất lượng lực lượng lao động này giải pháp cấp
bách hiện nay là tiếp tục đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, đồng thời có các giải pháp căn bản để chuyển đổi cơ cấu ngành
nghề, tích cực mở mang các cơ sở đào tạo nhằm từng bước nâng cao chất lượng
lao động tại các khu vực nông thôn và miền núi để có thể đáp ứng được yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngay trong từng
địa bàn của các địa phương trong cả nước.

18


Thứ hai, để tạo được sự chuyển biến về chất lượng trong giáo dục đại học,
trước mắt cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề then chốt:
+ Về hệ thống các cơ sở đào tạo, tạo ra một hệ thống các trường đại học có
tính cạnh tranh và tính thực nghiệm cao.
+Về cơ chế quản lý, thay đổi theo hướng tăng thêm tính chủ động cho cấp
dưới, cấp cơ sở. Cơ quan quản lý cấp trên phải kịp thời ban hành các chủ trương,
chính sách và thường xuyên giám sát thực hiện (điển hình là việc phát hành sách
giáo khoa, giáo trình của nhiều môn học trong các nhà trường).
+Về nội dung, chương trình cần chuyển mạnh từ những ưu tiên nặng về lý
thuyết sang tăng cường hệ thống tri thức vận dụng thực tế và đặc biệt hướng tới
phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh công tác xã
hội hóa giáo dục, cho phép các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia
vào quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam cũng

là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Ngoài ra, đất nước của chúng ta hiện nay cũng đang phải đối mặt với vấn
đề dân số già cho nên cần tập trung vào hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã
hội, nhất là chính sách bảo hiểm tuổi già. Cần xây dựng chính sách bảo hiểm hưu
trí, tuổi già tự nguyện với những mức phí linh hoạt cho phù hợp với điều kiện cụ
thể. Nghiên cứu và xây dựng cơ chế hợp tác liên kết giữa khu vực công và khu
vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và lương hưu người
cao tuổi. Xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe cho
người cao tuổi. Tăng cường năng lực quốc gia về chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi thông qua ưu tiên đầu tư phát triển mạng lưới viện lão khoa; từng bước xây
dựng và quản lý thống nhất mạng lưới trung tâm điều dưỡng người cao tuổi trên
cơ sở nhu cầu thực tế từng địa phương. Ðẩy mạnh hơn nữa tuyên truyền đến mọi
công dân cần ý thức giải quyết vấn đề an sinh xã hội, trong đó có bảo hiểm cho
19


tuổi già không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của nhiều
đối tác khác, trong đó việc "tự an sinh" là một năng lực cần có. Ðiều đó có nghĩa,
bản thân mỗi công dân nên có kế hoạch "bảo đảm tuổi già" ngay từ khi còn trẻ.
Ðây thực chất là việc giải quyết sự già hóa dân số một cách chủ động nhất, bởi lo
cho mình cũng chính là lo cho gia đình, cho cộng đồng và các thế hệ tương lai.
PHẦN IV. CÂU HỎI THẢO LUẬN
Hiện nay có 2 xu hướng phát triển về cấu trúc tuổi dân số đáng lưu ý. Đó
là dân số đang già hoá và dân số ta đang bước vào ngưỡng dân số Vàng. Có ý
kiến cho rằng 2 hiện tượng này mâu thuẫn nhau trong sự biến động cấu trúc dân
số. Bạn nghĩ gì về ý kiến trên.
PHẦN V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Đình Cử, Cơ cấu dân số Việt Nam có gì mới, trích nguồn
từ trang website: />2. Lê Tiến Dũng, 2008, “Sự già hoá dân sốvà những ảnh hưởng tới sự phát
triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học công nghệ số 2(46), tr.

64.
3. Mai Nguyên, 11/05/2014, “Cơ cấu dân số già những thách thức tiềm ẩn”,
Báo nhân dân, truy cập: Lâm Thị Diệu Quyên, Dân số vàng và bài toán phát triển nguồn nhân lực ở
Việt Nam, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần
thứ 8 Đại học Đà Nẵng năm 2012.
5. PGS.TS. Mạc Văn Tiến, “Xu hướng già hóa dân số và an sinh xã hội trong
thế kỷ 21”, trích nguồn từ trang website: />act=nctd_detail&idnctd=152&date=1424970000

20


6. Như Trang, Trình độ lao động trẻ Việt Nam còn thấp, trích nguồn trang
website: />7. Niên giám thống kê 2014, Dân số và Lao động, trang 127
8. UNFPA, 2011, Báo cáo già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam, thực
trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách.

21



×