Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ Thể Thao của trường THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.52 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm tới công tác Thể dục thể thao nói
chung và Giáo dục thể chất trong nhà trường nói riêng, coi sức khỏe là một
trong những vốn quý nhất của con người. Điều 41 Hiến pháp nước Công hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi: “Quy định chế độ giáo dục thể
chất bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình
thức tổ chức thể dục thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo các điều kiện cần
thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục thể thao quần chúng, bồi
dưỡng các tài năng thể thao”. Chỉ thị 36/CT – TƯ ngày 24.3.1994 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Thực hiện giáo dục thể
chất trong tất cả các trường học”
Hệ thống Giáo dục Thể chất trong các nhà trường là một bộ phận hữu
cơ của hệ thống Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Giáo dục thể chất được hiểu
là: “Quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể
chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con
người”. Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình
sư phạm với đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ
chức hoạt động của nhà sư phạm phù hợp với học sinh, sinh viên tuân theo
nguyên tắc sư phạm. Giáo dục thể chất chia thành hai mặt tương đối độc lập:
Dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể lực. Trong hệ
thống giáo dục, nội dung đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với
giáo dục toàn điện Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao động nhằm phát triển toàn diện con
người. Điều 20 “Luật thể dục, thể thao” đã nêu Giáo dục thể chất và thể thao
trong nhà trường, “Giáo dục thể chất là môn học chính khóa thuộc chương trình
giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học
thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo
dục toàn diện; Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của
người học được tổ chức theo phương thức ngoại khóa phù hợp với sở thích, giới
1



tính, lứa tuổi và sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui
chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao” cho học sinh, sinh viên – những
chủ nhân tương lai của đất nước.
Chính vì vị trí Giáo dục thể chất là một môn học bắt buộc, tuy nhiên
trong đó chứa đựng rất nhiều yếu tố nội dung, hình thức, phương pháp và yêu
cầu kiểm tra đánh giá phụ thuộc vào năng lực, sở thích cũng như thực trạng cơ
sở vật chất, đối tượng dạy và học,…
Trên con đường phát triển, những năm gần đây trường THPT Chuyên
(trước đây là khối Toán – Tin của trường ĐHSP HN) đã đạt được những thành
công đáng khích lệ về công tác hoạt động giáo dục thể chất. Nhưng bên cạnh
những kết quả đạt được thì công tác giáo dục thể chất của trường cũng còn có
những hạn chế. Bên cạnh đó thì nhu cầu tập luyện thể thao của học sinh trong
nhà trường tăng lên nhất là những học sinh chuyên Anh và một số em có nhu
cầu đi du học các em cần chơi được một môn thể thao để phục vụ quá trình du
học vì yêu cầu của các nước mà các em du học yêu cầu ngoài lực học cần biết
chơi thể thao và theo những học sinh đã đi du học việc học thể chất ở các nước
yêu cầu rất cao.
Vì vậy các câu lạc bộ thể dục thể thao trong nhà trường đã được thành lập
như CLB Bóng bàn, CLB Bóng chuyền, CLB Cầu lông, CLB Cờ Vua – Cờ
Tướng để đáp ứng được nhu cầu tập luyện TDTT của học sinh trong nhà trường.
Câu lạc bộ cho phép học sinh đăng ký môn học do chính các em quyết
định đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng và sở thích của học sinh. Thời gian lựa
chọn môn học được linh hoạt đảm bảo thời gian học tập phù hợp của từng học
sinh. Thông qua hoạt động giúp học sinh mở rộng giao lưu, tăng cường tình
đoàn kết, sự hiểu biết lẫn nhau giữa học sinh trong nhà trường. Điều quan
trọng là đem lại cho học sinh sự hiểu biết tri thức sâu hơn môn học. Mặt khác
giáo viện được giảng dạy chuyên môn của mình, điều này nâng cao chất lượng
giáo dục thể chất, hiệu quả giáo dục đào tạo trong nhà trường.


2


Xuất phát từ những vấn đề nêu trên chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nâng
cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ Thể Thao của trường THPT Chuyên
ĐHSP Hà Nội”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục thể chất theo hướng tổ chức câu
lạc bộ nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập và rèn luyện
của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các CLB Thể
thao của trường THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
câu lạc bộ Thể thao.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu cách thức hoạt động thể dục thể thao của học sinh trường
THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các CLB Thể thao trường
THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu phát triển được các câu lạc bộ Thể thao cho học sinh trường THPT
Chuyên ĐHSP Hà Nội theo hường phù hợp năng lực, hứng thú, điều kiện của
học sinh thì sẽ tích cực hóa hoạt động học tập, nâng cao hiệu quả giáo dục thể
chất và giáo dục đào tạo trong nhà trường.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dụng nghiên cứu: Các môn thể thao: bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông…
+ Nhu cầu của học sinh đối với quá tình học tập môn thể dục.

+ Nhu cầu của học sinh đối với hình thức tổ chức câu lạc bộ Thể thao.

3


7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận.
Hệ thống hóa các công trình nghiên cứu và tài liệu khoa học có liên
quan tới việc xây dựng cơ sở lý luận về đổi mới hình thức thực hiện chương
trình giáo dục thể chất cho học sinh trường THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội theo
hướng tổ chức câu lạc bộ Thể thao.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra xã hội học
Điều tra hình thức tổ chức giảng dạy – học tập thể dục thể theo đối với
học sinh trường THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội nhằm thu thập thông tin về các
hình thức tổ chức quá trình dạy học môn thể dục, làm căn cứ để định hướng
đổi mới hình thức thực hiện chương trình môn thể dục cho học sinh trường
THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội theo hướng tổ chức câu lạc bộ Thể thao.
7.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp này để nắm
bắt thông tin các vấn đề liên quan trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng
tôi tiến hành quan sát các hoạt động của câu lạc bộ Thể thao trong nhà trường
đồng thời quan sát các buổi tập luyện của sinh viên. Kết quả của các buổi quan
sát được chúng tôi ghi chép lại một cách đầy đủ về các hoạt động của câu lạc
bộ Thể thao của nhà trường.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm
mục đích tìm hiểu thực trạng hoạt động ngoại khoá thể thao, các khó khăn
thuận lợi khách quan và chủ quan để trên cơ sở đó xây dựng được mô hình
phù hợp cho hoàn thiện mô hình câu lạc bộ thể thao trong trường trung học

phổ thông Chuyên ĐHSP Hà Nội.
Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và phương pháp phỏng vấn
bằng phiếu hỏi đối với các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý giáo dục, giáo
viên Giáo dục Thể chất và học sinh trường Chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội.
4


- Phỏng vấn học sinh về nhu cầu học tập môn thể dục theo hình thức
câu lạc bộ TDTT.
- Phỏng vấn Hiệu Trưởng, giáo viên về nhu cầu thực tiễn xã hội tại cơ
sở nhà trường.
- Hình thức phỏng vấn: Trực tiếp và gián tiếp theo phiếu hỏi (phụ lục).
Tất cả các phiếu đều có hướng dẫn trả lời cụ thể, ngắn gọn. Vừa không
gây mất thời gian cho các đối tượng phỏng vấn, vừa có thể thu thập được số
liệu cụ thể.
7.2.4. Phương pháp toán học thống kê
Những số liệu thu thập được qua phân tích và tổng hợp tài liệu, qua
phỏng vấn, … sẽ được dùng phương pháp toán học thống kê để xử lý và tính
toán các số liệu nghiên cứu. Dựa trên những kết quả tính toán chúng tôi đi đến
kết luận của đề tài. Phương pháp toán học thống kê được sử dụng để thu thập
và xử lý số liệu. Các công thức toán học đề tài sử dụng là:
- Công thức tính số trung bình cộng:
X=
x:

∑x

i

n


Trong đó:



: Giá trị tổng.

Giá trị trung bình.

xi: Giá trị quan sát thứ i.
n: Số lần quan sát.
-Công thức tính tỷ lệ %:
x
n

Tỷ lệ % = × 100 0 0
8. Kế hoạch và tổ chức nghiên cứu
8.1. Thời gian nghiên cứu
- Giai đoạn 1: Từ tháng 4 năm 2011 đến tháng 6 năm 2011.
+ Xác định đề tài nghiên cứu
+ Bảo vệ đề cương nghiên cứu
- Giai đoạn 2: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 5 năm 2012.

5


+ Thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài
+ Đánh giá được thực trạng tổ chức hoạt động câu lạc bộ TDTT trường
THPT Chuyên ĐHSP HN.
+ Đánh giá hiệu quả thực hiện các biện pháp nâng cao hoạt động của

các CLB TDTT.
- Giai đoạn 3: Từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 8 năm 2011.
+ Hoàn thiện luận văn và chuẩn bị báo cáo.
8.2. Địa điểm nghiên cứu
Trường THPT Chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội.
9. Những đóng góp mới của đề tài.
- Nêu được thực trạng tổ chức hoạt động CLB Thể thao trường THPT
Chuyên ĐHSP Hà Nội.
- Đề xuất được biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động CLB Thể thao
trường THPT Chuyên ĐHSP Hà Nội.

6


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các quan điểm về Giáo dục thể chất
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước rất coi trọng công tác giáo dục
thể chất trường học, nhằm đào tạo những lớp người phát triển toàn diện, kế
tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng kinh tế xã hội theo định hướng XHCN và
bảo vệ tổ quốc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo đất nước luôn dựa trên cơ
sở nền tảng của học thuyết Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để làm kim
chỉ nam và đã đạt thắng lợi ở nhiều lĩnh vực trong đó có Giáo dục và Đào tạo,
Thể dục thể thao. Cốt lõi của học thuyết và những nguyên lí đó là đề cao vai
trò giá trị của con người, phương thức giải phóng và giáo dục con người phát
triển toàn diện về: Đức, Trí, Thể, Mĩ, Lao. Con người được giải phóng và phát
triển toàn diện vừa là hạnh phúc của mỗi người, của mỗi dân tộc, vừa là hạnh
phúc của nhân loại.
1.1.1. Quan điểm của Mác-Lê Nin về giáo dục toàn diện
Các Mác và Ăng ghen đã chứng minh sự phụ thuộc của giáo dục vào

điều kiện sống vật chất, khám phá ra bản chất của xã hội và giai cấp của giáo
dục, đồng thời còn chỉ rõ rằng, trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai, con
người phát triển toàn diện là một tất yếu khách quan, bởi vì đó là nhu cầu của
xã hội.
Các mối quan hệ biện chứng giữa các mặt giáo dục cho chúng ta thấy
được tầm quan trọng của giáo dục thể chất và các hoạt động thể thao. Với nền
giáo dục trong thời đại tương lai Các Mác nhấn mạnh “Lao động sản xuất sẽ
được kết hợp với trí dục và thể dục, không chỉ với tư cách là một phương pháp
tăng mức sản xuất xã hội mà còn với tư cách là một phương pháp duy nhất để
đào tạo những con người được phát triển toàn diện…Theo Mác, giáo dục ở nhà
trường có ba điều cần quan tâm đó là giáo dục trí tuệ, giáo dục thể chất và giáo
dục kỹ thuật. Vì thế Mác đã viết “Kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể
7


dục. Đó không những là biện pháp để tăng thêm sức sản xuất của xã hội, mà
còn là biện pháp duy nhất để đào tạo những con người phát triển toàn diện”.
Phát triển sâu hơn học thuyết giáo dục toàn diện Lê Nin cho rằng:
“Thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, cần có thể thao lành mạnh,
thể dục, bơi lội, tham gia các bài tập thể lực, những hứng thú phong phú về
tinh thần, học tập, phân tích nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả các hoạt
động ấy với nhau”. Để khẳng định tính biện chứng của sự phát triển hài hòa
giữa thể chất và tinh thần, Lê Nin còn khẳng định: “Tinh thần khỏe mạnh phụ
thuộc vào thân thể khỏe mạnh”.
1.1.2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về thể dục thể thao
Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa của thế giới, là nhà chính trị và
văn hóa lỗi lạc. Bác là người trung thành với học thuyết Mác – Lê Nin. Trong
chỉ đạo công tác cách mạng và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, Bác
cũng rất quan tâm đến TDTT, coi đó là mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh thiếu niên. Bác quan tâm tới vấn đề

sức khỏe cho nhân dân và việc rèn luyện thân thể, luyện tập TDTT cho mọi
người để có sức khỏe.
Kế thừa, phát huy và ứng dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lê Nin vào
thực tiễn nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam, lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc qua hai cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ. Về giáo dục và TDTT, đặc biệt thể thao trường
học, Bác cũng thể hiện sự quan tâm sâu sát, Người coi đó là mục tiêu quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho thế hệ thanh niên, SV,
HS. Nhằm tăng cường và mở rộng các hoạt động TDTT và trực tiếp chỉ đạo
công tác giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ: Ngày 30-01-1946, Bác đã kí sắc lệnh
số 14 thành lập Nhà Thể dục Trung ương với nhiệm vụ: “ Liên lạc mật thiết
với Bộ Y tế và Bộ Giáo dục để nghiên cứu phương pháp và thực hành thể dục
trong toàn quốc”. Nhằm mục đích: “Xét vấn đề thể dục rất cần thiết để tăng bổ
sức khỏe quốc dân và cải tạo nòi giống Việt Nam…”
8


Tiếp ngay sau đó, ngày 27-03-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành
Sắc lệnh số 33 thành lập Nha Thanh Niên và Thể dục thuộc Bộ Quốc gia giáo
dục. Đồng thời ngày 27-03-1946, trong bài báo “Sức khỏe và thể dục” Bác Hồ
đã cho chúng ta thấy vai trò và vị trí của sức khỏe: “Giữ gìn dân chủ, xây
dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành
công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi
một người dân mạnh khỏe, tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe. Vậy nên
luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe, tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe.
Vậy nên tập luyện thể dục, bồi bổ sức khỏe, tức là góp phần cho cả nước mạnh
khỏe và là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Việc đó không tốn kém,
khó khăn gì, gái trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi người
lúc ngủ dậy, tập ít phút thể dục, ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông,
tinh thần đầy đủ. Như vậy là sức khỏe. Dân cường thì nước thịnh. Tôi mong

đồng bào ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi ngày nào cũng tập”.
Duy trì và tăng cường thể chất của nòi giống Việt Nam, trước hết cho
thế hệ trẻ, thông qua TDTT trường học là một biện pháp quan trọng, thiết thực
mang lại sức khỏe cường tráng cho mọi người. Vì vậy, rất nhiều lần Bác đã
khuyên bảo thiếu nhi và thanh niên, HS, SV, bộ đội hãy cố gắng tập luyện
TDTT để cho thân thể khỏe mạnh. Đối với thế hệ trẻ, Bác quan tâm sâu sắc
đến việc bồi dưỡng và phát triển về mọi mặt. Bác đã nói: “Thanh niên phải rèn
luyện TDTT vì thanh niên là tương lai của đất nước”. Ngày 02-11-1956, tại
Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam, Người
có dặn dò các đoàn viên thanh niên phải gương mẫu trên 4 mặt hoạt động,
trong đó “…Phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới đủ
sức để tham gia một cách dẻo dai bền bỉ những công việc ích nước vì dân”.
Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là phương pháp
giáo dục con người toàn diện. Muốn xây dựng và hoàn thiện con người theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là giáo dục và tự giáo dục. Đây là phương pháp
tốt nhất để đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt
9


Nam và làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Người
nhấn mạnh: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa” và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người”. Vì thế, nền giáo dục mới phải thực hiện
phương pháp dạy và học mới để đạt mục tiêu: “ Học để làm việc, làm người,
làm cán bộ. Học để phụng sự toàn thể , giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân
loại”. “ Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng, học để hành”.
Tư tưởng này không chỉ phản ánh truyền thống quý báu của dân tộc ta mà còn
phản ánh yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của đất nước trong tiến trình đi lên
xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “phải chú trọng các

mặt; đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao
động và sản xuất”. Đây là những nhiệm vụ giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó
chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam mới.
Nhà trường phải đảm bảo cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ kho tàng kiến thức
văn hóa của nhân loại, trang bị đầy đủ vốn hiểu biết về văn hóa, tri thức khoa
học, công nghệ. Thế hệ trẻ cần được giáo dục về lý tưởng và đạo đức xã hội
chủ nghĩa – hạt nhân của nhân cách người lao động mới. Người căn dặn phải
có phương pháp giáo dục tốt để giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và
thanh niên. Theo người:”Đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống.
Nó đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như
ngọc càng mài cáng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Tư tưởng bao chùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền
TDTT mới của nước ta là: Sự khẳng định có tính chất cách mạng của công tác
TDTT là nhu cầu khách qua của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mỗi
người dân yêu nước. Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức
khỏe của nhân dân, góp phần cải tạo nòi giống, làm cho dân cường nước thịnh.
Những ý tưởng đó được xuyên suốt trong các văn kiện, bài viết của Bác. Cho
đến tận ngày nay, tư tưởng của Bác vẫn còn nguyên giá trị và luôn được Đảng,
10


Nhà nước ta trân trọng, phát huy trên mọi lĩnh vực, gần đây nhất là cuộc vận
động mọi tầng lớp nhân dân trong cả nước “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục thể chất
Đảng ta xác định quan điểm, đường lối TDTT trong các nghị quyết và
các chỉ thị về công tác TDTT. Quan điểm, đường lối TDTT của Đảng định
hướng và chỉ đạo sự nghiệp phát triển TDTT của đất nước, góp phần quan
trọng giữ gìn và nâng cao sức khỏe, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân,
phục vụ tích cực công cuộc xây dựng xã hội mới vì dân giàu nước mạnh.

Năm 1964 Đảng ta đã có chủ trương: “Phải thực hiện giáo dục toàn diện
cho thanh thiếu niên, thiếu nhi trong trường học” và quyết định: “Bắt đầu đưa
việc dạy học thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học
tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp và Đại học”.
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu giáo
dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
GDTC học đường là một bộ phận của phong trào TDTT, cũng góp
chung vào sự nghiệp giáo dục toàn diện và phát triển thể chất đó, có vai trò tác
dụng to lớn trong việc bảo vệ và tăng cường sức khỏe, nâng cao thể lực cho
học sinh, sinh viên góp phần tích cực bồi dưỡng đào tạo lớp người phát triển
toàn diện để xây dựng và bảo vệ tổ quốc có hiệu quả. GDTC học đường còn
có tác dụng tạo ra tiềm năng lớn về lực lượng vận động viên năng khiếu, cung
cấp cho đất nước ngày càng nhiều tài năng thể thao.
Tại đại hội lần thứ VI (1986) Đảng ta đã khẳng định: “… cùng với công
tác y tế, công tác thể dục thể thao góp phần khôi phục và tăng cường sức khỏe
của nhân dân…”. Điều này cho thấy tầm quan trọng của công tác TDTT trong
thời kì khôi phục đất nước, đảm bảo nguồn nhân lực có thể chất tốt phục vụ
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chính vì vậy việc mở rộng và
nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng là hết sức cần thiết. Từ đó
11


“Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường” và giáo dục cho các
thế hệ trẻ rèn luyện thân thể thành thói quen hằng ngày.
Trong Luật Thể dục, Thể thao do Quốc hội ban hành năm 2006 và có
hiệu lực bắt đầu từ 1/1/2007. Trách nhiệm của Nhà nước đối với TDTT trường
học được quy định đầy đủ tại Điều 21. Trong đó, đồng bộ các cơ quan chức
năng của bộ máy Nhà nước ta từ địa phương đến Trung ương đều phải đặc biệt
quan tâm phát triển TDTT trường học: “Bộ trưởng Bộ GD và ĐT phối hợp với

Bộ trưởng, Chủ nhiệm UB TDTT xây dựng chương trình giáo dục thể chất,
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, giảng viên TDTT, hướng dẫn nội dung hoạt
động TDTT ngoại khóa trong nhà trường. Bộ, Cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc TƯ có trách nhiệm chỉ
đạo, tổ chức thực hiện việc xây dựng cơ sở vật chất, nhà tập đa năng, bảo đảm
trang thiết bị, dụng cụ thể thao, chỉ tiêu biên chế giáo viên, giảng viên TDTT
cho các trường công lập thuộc địa phương. Thực hiện chính sách ưu đãi về đất
đai theo quy định của pháp luật đối với trường tư thục, trường dân lập để các
trường có điều kiện xây dựng cơ sở vật chất phục vụ giáo dục thể chất và thể
thao trong nhà trường.
Bên cạnh đó đối với đối tượng thanh niên lứa tuổi HS, SV Nhà nước
còn có chính sách “Bảo đảm cho thanh niên hoàn thành chương trình phổ cập
giáo dục, tạo điều kiện học nghề, lựa chọn việc làm, vui chơi giải trí, hoạt
động văn hóa nghệ thuật, TDTT phù hợp với khả năng và lứa tuổi” với thanh
niên có tài năng.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng sử
dụng những thanh niên có năng khiếu, có thành tích xuất sắc trong học tập,
hoạt động TDTT… Để trở thành những người tài năng. Tôn vinh và tạo điều
kiện cho thanh niên tài năng phát triển và làm việc để phát huy khả năng đóng
góp cho đất nước.
Theo luật của Bộ GD và ĐT điều 20. Giáo dục về thể chất và thể thao
trong nhà trường:
12


“GDTC là môn học chính khóa thuộc chương trình giáo dục nhằm cung
cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập
và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện”.
Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 24/3/1994 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam về công tác thể thao trong giai đoạn mới đã khẳng

định “Phát triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, nhằm bồi dưỡng, phát triển nhân tố con
người, công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo
dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu
của lực lượng vũ trang”.
Chỉ thị còn nêu rõ: “Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác thể dục thể
thao là hình thành nền thể dục thể thao phát triển và tiến bộ, góp phần nâng
cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân và
phấn đấu đạt vị trí xứng đáng trong hoạt động thể thao quốc tế, trước hết là
khu vực Đông Nam Á”.
Tiếp tục hoàn thiện định hướng và phát triển thể dục thể thao, tại chỉ thị
7/CT/TW, Đảng có nêu rõ quan điểm về việc phát triển TDTT đến 2010: …
đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học” “bảo đảm mỗi trường học đều có
giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, xem đây là
một tiêu chí xét công nhận trường chuẩn quốc gia”, “tiếp tục đẩy mạnh xã hội
hóa TDTT…”. Việc đẩy mạnh xã hội hóa TDTT trong giai đoạn nền kinh tế
thị trường trên cơ sở định hướng chủ nghĩa xã hội như hiện nay sẽ tạo điều
kiện TDTT ngày càng phát triển và đảm bảo nhu cầu về TDTT ngày càng cao
của nhân dân.
Dưới sự quan tâm, lãnh đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước, công tác
TDTT đã phát triển ngày càng rộng rãi, mạnh mẽ và đúng hướng. Điều này đã
thực sự góp phần nâng cao sức khỏe của nhân dân, đóng góp tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thắt chặt tình hữu nghị, sự hiểu biết, cảm
thông giữa Việt nam và các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới.
13


1.1.4.Quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối
với TDTT thời kì những năm đổi mới (1986 – 2005)

Quá trình xây dựng và trưởng thành của TDTT luôn gắn liền với sự vận
dụng sáng tạo Chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nửa thế kỉ qua sự nghiệp TDTT nước ta không
ngừng phát triển và góp phần đắc lực vào mục đích tăng cường sức khoẻ, phát
triển thể chất, bồi dưỡng tinh thần cho nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh
Cách mạng và giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Những tư tưởng nêu trên còn được tiếp tục bổ sung hoàn thiện và phát
triển qua các thời kì, được thể hiện tập trung qua các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng – Nhà nước có liên quan đến công tác này. Hiện nay mục đích cao cả và
bao trùm của các ngành công nghiệp va nông nghiệp, quốc phòng an ninh,
giáo dục, khoa học kĩ thuật, đối ngoại, văn hoá (trong đó có TDTT)… là góp
phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc theo mục
đích và chức năng cụ thể của mình. Ngành TDTT có nhiệm vụ tổ chức, quản
lí, hướng dẫn các hoạt động TDTT nhằm mục đích chính là tăng cường thể
chất cho nhân dân. Xét về mục đích, đó là đặc trưng cơ bản nhất trong TDTT
so với các bộ phận khác trong nền văn hoá nói chung, đồng thời việc nâng cao
trình độ thể thao để đề cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc cũng rất quan trọng.
Là một bộ phận của nền văn hoá, TDTT không chỉ có tác dụng đến sức khoẻ,
thể chất mà còn góp phần nâng cao sức khoẻ về tinh thần làm phong phú đời
sống văn hoá, văn minh chung của toàn xã hội. Phát triển TDTT trong từng
thời kì phát triển kinh tế xã hội sẽ góp phần thúc đẩy các sự nghiệp khác phát
triển và ngược lại. Bởi vậy TDTT nước ta có những nhiệm vụ chính sau đây:
- Nâng cao thể chất và sức khoẻ cho nhân dân.
- Nâng cao trình độ đất nước, từng bước vươn lên những đỉnh cao quốc
tế, trước hết là khu vực
- Góp phần làm phong phú, lành mạnh đời sống văn hoá, tinh thần và
giáo dục con người mới.
14



Những quan điểm phát triển TDTT trong thời kì đổi mới là những định
hướng cơ bản để xác định vị trí và các mối quan hệ của toàn bộ sự nghiệp
TDTT đối với đời sống kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc luôn được xác định
trong nhiều văn kiện Đại hội Đảng, trong các Chỉ thị của Trung ương Đảng về
công tác TDTT qua các thời kì phát triển đất nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) Đảng đã xác định
quan điểm, chủ trương về phát triển TDTT là:
… “Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng,
từng bước đưa việc rèn luyện thân thể thành thói quen hàng ngày của đông
đảo nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ. Nâng cao chất lượng GDTC trong các
trường học. Củng cố và mở rộng hệ thống trường lớp năng khiếu thể thao,
phát triển lực lượng vận động viên trẻ. Lựa chọn và tập trung nâng cao thành
tích một số môn thể thao. Coi trọng việc giáo dục đạo đức, phong cách thể
thao xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đảm bảo các điều kiện về cán bộ khoa học kĩ
thuật, cơ sở vật chất và nhất là về tổ chức quản lí cho công tác TDTT”
Thực hiện đường lối đổi mới về TDTT do Đại hội Đảng VI đề ra, Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Chỉ thị 112-CP ngày 9/5/1989
nhằm mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động TDTT theo tinh thần xã hội hoá,
chuyển một bộ phận hoạt động TDTT sang các tổ chức xã hội, liên đoàn. Đặc
biệt trong chỉ thị đã nhấn mạnh: “Nâng cao thể chất cho học sinh các trường
học, duy trì và phát triển phong trào TDTT trong các lực lượng vũ trang,
trong công nhân, viên chức và trong nhân dân”…
Trong thời kì đổi mới, Nghị quyết TW lần thứ 4 (khoá VII) xác định
“Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của Cách mạng” và con người
Việt Nam phải là “ Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức” càng đòi hỏi TDTT với
nhận thức mới mang tính thời đại. Vì vậy đồng chí Đỗ Mười khi là Tổng bí
thư Ban chấp hành TƯ Đảng đã nói “Phát triển TDTT được coi là biện pháp

15



hàng đầu để tăng cường sức khoẻ, nâng cao khả năng chống đỡ bệnh tật của
con người…”
Xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng đối với sự nghiệp TDTT
việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lí TDTT là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ
sự nghiệp Cách mạng. Nhà nước có nhiệm vụ chăm lo phát triển TDTT. Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã nói rõ trong bức thư gửi ngành TDTT năm 1992 trong
đợt kỉ niệm “ Ngày thể thao Việt Nam”: “ TDTT là lĩnh vực liên quan chặt chẽ
đến việc nâng cao thể lực toàn dân, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc góp
phần lành mạnh hoá xã hội xây dựng kinh tế đất nước và giáo dục quốc tế.”
Trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
tại điều 41 đã xác định:
- Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa học và nhân dân.
- Nhà nước thống nhất quản lí sự nghiệp phát triển TDTT; quy định chế
độ GDTC bắt buộc trong trường học khuyến khích và giúp đỡ phát triển các
hình thức tổ chức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện cần thiết để
không ngừng mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng hoạt động
thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao.”
Khi phân tích về các lợi thế và nguồn nhân lực của đát nước, Đại hội lần
thứ VII của Đảng đã xác định; “…Nguồn lao động và con người Việt Nam có
truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, cần có nền tảng văn hóa, giáo dục, có
khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ…, đó là nguồn nhân lực quan
trọng nhất”, đồng thời cũng chỉ rõ rằng “Người Việt Nam đang có nhưng hạn
chế về thể lực, kiến thức, tay nghề”. Khắc phục được những nhược điểm đó
thì nguồn nhân lực và nhân tố con ngươì mới thực sự trở thành thế mạnh của
đất nước. Như vậy có thể nói phát triển TDTT để tăng cường sức khỏe, nâng
cao thể chất của nhân dân là một yêu cầu khách quan, không những đó là
chính sách xã hội mà còn là biện pháp tích cực chuẩn bị và bồi dưỡng con
người sẵn sàng lao động có hiệu quả và tham gia bảo vệ tổ quốc.


16


Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII của Đảng
(1/1994) trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành TW Đảng khi đề cập về
công tác TDTT đã đặt ra nhiệm vụ “…phát triển rộng rãi phong trào TDTT
quần chúng trong cả nước, trước hết là trong thanh niên, học sinh, từng bước
hình thành TDTT chuyên nghiệp đỉnh cao” [3].
TDTT ngày nay đã và đang ngày càng thu hút được rất nhiều đối tượng
tham gia tập luyện, để thực hiện tốt công tác chỉ đạo các hoạt động rộng rãi
trong cả nước ngày 24/3/1994 Ban bí thư TW Đảng cộng sản Việt Nam ban
hành chỉ thị số 36/CTTW về công tác TDTT trong giai đoạn mới. Các quan
điểm của Đảng về TDTT, các mục tiêu và nội dung chỉ đạo nâng cao chất
lượng GDTC và sức khỏe cho sinh viên là một yêu cầu cấp bách đối với ngành
GD-ĐT và TDTT.
Phát triển TDTT là một bộ phận hữu cơ trong chính sách phát triển
khinh tế xã hội nhằm bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người có trí tuệ có
sức khỏe và lối sống văn minh tiến bộ, Công tác GDTC phải góp phần tích
cực nâng cao tầm vóc và thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành
mạnh và làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần cho sinh viên trước yêu
cầu của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vì vậy, Chỉ thị đã xác định một nhiệm vụ cơ bản của ngành TDTT và
GD-TC:
“… Thực hiện GDTC trong tất cả các hệ thống trường học, làm cho
việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh
viên, thanh niên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, cán bộ công nhân viên chức
và một số bộ phận nhân dân…”[14] .
Để quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị 36-CT/TW, Ban khoa giáo TW đã
có công văn hướng dẫn ( số 222-KG/TW) tiến hành một số công việc sau:

Hình thành hệ thống phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng TT ( câu lạc
bộ, thể theo lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng, trường lớp năng khiếu TT…) hoàn

17


thiện hệ thống thi đấu nâng cao chất lượng Hội khỏe Phù đổng, đại hội TDTT
các cấp, các địa phương… [9].
Củng cố tổ chức TDTT, đặc biệt là hình thành các tổ chức xã hội về
TDTT (các hội, liên đoàn, CLB, hội đồng TDTT… [9].
Trước tình hình đổi mới của đất nước, đặc biệt là từ khi toàn Đảng, toàn
dân bước vào thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quán triệt sâu
sắc học thuyết Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược phát triển
xã hội theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam
lần thứ VIII (6-1996), báo cáo chính trị của ban chấp hành TW Đảng tiếp tục
nhấn mạnh nội dung công tác TDTT với nhiệm vụ là “ …phát triển TDTT sâu
rộng trong cả nước, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên tạo chuyển biến
tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, trong
các lực lượng dự bị quốc phòng và lực lượng vũ trang…”[19] .
Trong phần phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
năm 1996-2000 của văn khiện Đại hội còn đề ra chỉ tiêu về công tác TDTT là:
“ …Đạt 8-10% dân số tập luyện TDTT thường xuyên, 50% trường học các
cấp thực hiện GDTC có nề nếp, hình thành hệ thống đào tạo tài năng quốc gia,
nâng cao thành tích các môn thể thao. Xây dựng quy hoạch và xúc tiến đầu tư
phát triển các cơ sở vật chất về TDTT cho các trường học và các địa bàn dân
cư. Xây dựng các trung tâm thể thao quốc gia, Tăng cường đào tạo cán bộ và
nghiên cứu khoa học của ngành TDTT” [19].
Trong cuộc họp các ngành Giáo dục- Đào tạo và TDTT về công tác
TDTT năm 1998 Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đã đặt ra yêu cầu “ … Sự
nghiệp TDTTphải đảm bảo phục vụ nâng cao đời sống tinh thần, sức khỏe của

nhân dân, góp phần tạo nên sức mạnh về thể lực và trí lực của đân tộc…” Phó
Thủ tướng còn nhấn mạnh nhiệm vụ của ngành TDTT “…TDTT là một yếu tố
tích cực tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân cũng như tiếp tục nêu cao và
khẳng định vị thế Việt Nam trong xu thế mở rộng, giao lưu, hợp tác quan hệ
quốc tế…”
18


Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng-Nhà nước đối với công tác TDTT nói
chung và GDTC đối với học sinh, sinh viên nói riêng là một chủ trương thống
nhất nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho Đất nước phục vụ cho sự ngiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm cuối của thế kỷ 20 khi nước ta tiến vào giai
đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hóa đòi hỏi hoàn chỉnh luật pháp về TDTT. Thường
vụ Quốc hội đã xem xét quyết định ban hành pháp lệnh TDTT.
Tại pháp lệnh TDTT số 28/2000/PL-UBTVQH10 ngày 9/10/2000 điều
14 nêu rõ:
-

Thể dục thể thao trường học bao gồm giáo dục thể chất và hoạt

động thể dục, thể thao ngoại khóa người học.
-

Giáo dục thể chất cho người học là chế độ giáo dục bắt buộc nhằm

tăng cường sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho người học.
-

Nhà nước khuyến khích TDTT ngoại khóa trong nhà trường.


Ngày 26/3/2002 Ủy ban TDTT đã phát động phong trào “ toàn dân tập
luyện TDTT theo gương Bác Hồ vĩ đại” trong cả nước. Lễ phát động luyện tập
TDTT cũng lần lượt được tổ chức trong cả nước trên 61 tỉnh thành và đã đạt
được kết quả đáng kể. Theo số liệu thống kê năm 2001 cả nước đã có 14.8%
dân số tập luyện TDTT thường xuyên, có 79.2% số trường học thực hiện
chương trình GDTC , có 7-8% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao, có
khoảng 13.000 câu lạc bộ TDTT . Cuộc vận động luyện tập TDTT đã tạo nên 1
qui mô mới trong TDTT quần chúng và cả nước, sự kết hợp các hoạt động văn
hóa TDTT ngày càng thể hiện rõ rệt ở các cơ sở trên địa bàn cả nước.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới về xây dựng và phát triển đất nước trong
những năm đầu thế kỉ 21, ngày 3/10/2002 Ban bí thư TW Đảng đã chỉ ra Chỉ thị
số 17/CTTW về phát triển TDTT đến năm 2010, đề ra 1 số nhiệm vụ cụ thể để
phát triển sự nghiệp TDTT. chỉ thị đã chỉ rõ định hướng trong văn kiện của Đại
hội VII của Đảng là: “... nâng cao thể trạng. tàm vóc người Việt Nam, Phát triển
phong trào TDTT quần chúng với mạng lưới rộng khắp …”.
19

[24]


1.2. Đặc điểm về giáo dục thể chất trường học:
1.2.1. Khái niệm về giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất: Là bộ phận của giáo dục nói chung cũng như các
ngành giáo dục khác, giáo dục thể chất bao gồm những nhiệm vụ giáo dục,
giáo dưỡng thông qua quá trình sư phạm hoặc dưới hình thức tự giáo dục.
Trong giáo dục thể chất có hai bộ phận đặc thù cơ bản là giảng dạy và các
động tác (các hành vi vận động) và giáo dục các yếu tố chất thể lực (các năng
lực thể chất). Nói cách khác đặc điểm giáo dục thể chất là giảng dạy kỹ thuật
động tác và bồi dưỡng thể lực cho người học, đồng thời thông qua lượng vận

động của các bài tập mà kích thích điều chỉnh sự phát triển các đặc tính tự
nhiên của cơ thể: sức mạnh, sức bền … nhờ các bài tập cơ thể tạo ra những
biến đổi thích nghi ngày càng tăng của cơ thể như: hoàn thiện các chức năng
điều chỉnh của hệ thần kinh, làm tăng trưởng cơ bắp, tăng thêm khả năng chức
phận của hệ tim mạch.
1.2.2. Đặc điểm của giáo dục thể chất trường học:
GDTC là một quá trình sư phạm nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục,
giáo dưỡng nhất định. Đặc điểm của quá trình này là tất cả những dấu hiệu đặc
trưng của quá trình sư phạm như:
Người học vừa là chủ thể của quá trình nhận thức vừa là đối tượng giáo
dục. Người dạy giữ vai trò chủ đạo: Lãnh đạo, tổ chức, điều khiển quá trình
giáo dục có mục tiêu, có phương tiện, có phương pháp, có tổ chức – kiểm tra
và đánh giá kết quả…
Tuy nhiên, GDTC khác với giáo dục văn hóa, giáo dục đạo đức ở chỗ nó
mang tính chất chuyên môn giáo dục – giáo dưỡng, nhằm hoàn thiện thể chất, tài
năng thể thao và nhân cách của học sinh. Sản phẩm của nó là phát triển toàn diện
con người, bởi trong quá trình giáo dục thể chất, hình thái và chức năng của các
cơ quan trong cơ thể được từng bước hoàn thiện, hình thành và phát triể các
phẩm chất thể lực, kỹ năng – kỹ xảo vận động và hệ thống tri thức chuyên môn.
GDTC có vai trò đặc biệt trong việc hoàn thiện năng lực vận động của con người.
20


1.2.3. Ý nghĩa của GDTC trường học:
GDTC là bộ phận cấu thành quan trọng của nền giáo dục toàn diện, thể
dục là biện pháp quan trọng nâng cao sức khỏe người dân, tăng cường thể
chất, làm phong phú đời sống văn hóa xã hội, nâng cao sức sản xuất xã hội.
Giáo dục thể chất theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo
dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe. Hiện nay GDTC nhà trường phải chú ý làm tốt
hai việc: thể dục và vệ sinh sức khỏe. GDTC trong nhà trường có ý nghĩa quan

trọng sau:
GDTC có thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thể khỏe mạnh, tăng
cường thể chất cho học sinh.
GDTC là bộ phận không thể thiếu để thúc đẩy sự phát triển toàn diện
của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của giáo dục toàn diện. Thân
thể khỏe mạnh là cơ sở vật chất để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục khác.
GDTC liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm
mỹ và lao động.
GDTC không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh
mà còn làm cho tinh thần con người khỏe mạnh, cuộc sống văn minh, vui vẻ,
có ý nghĩa tạo nên hành vi và thói quen văn minh như tôn trọng kỉ luật, có
trách nhiệm với tập thể, tôn trọng, tuân theo trật tự công cộng, giữ gìn môi
trường sạch đẹp, giữ gìn vệ sinh.
1.3. Các hình thức hoạt động thể dục thể thao trường học.
Để GDTC và thể thao trường học thực sự có vị trí quan trọng trong việc
góp phần đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, hoàn thiện về nhân cách, trí
tuệ và thể chất sức khỏe, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, giữ vững tăng cường an ninh quốc phòng. Đồng thời xây dựng nhà
trường thành những cơ sở phong trào TDTT quần chúng của học sinh - sinh
viên. Quán triệt sâu sắc nội dung của các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Hiến
pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và các văn bản
pháp lệnh của Chính phủ về công tác TDTT trong tình hình mới. Đồng thời,
21


để khắc phục thực trạng giảm sút sức khỏe thể lực của học sinh, sinh viên hiện
nay, hai ngành giáo dục đào tạo và TDTT đã thống nhất những nội dung, biện
pháp và hợp đồng trách nhiệm chỉ đạo nhằm đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
GDTC của học sinh, sinh viên: "Hai ngành nhất trí xây dựng chương trình
nâng cao GDTC, sức khỏe, bồi dưỡng năng khiếu thể thao học sinh, sinh

viên... kiến nghị với Nhà nước phê duyệt thành chương trình quốc gia và được
đầu tư kinh phí thỏa đáng" [12].
Với nội dung phối hợp chỉ đạo giữa hai ngành là chỉ đạo các cấp học
giảng dạy TDTT nội khóa theo chương trình kế hoạch có nề nếp, đảm bảo
thực hiện nghiêm túc quy phạm đánh giá quá trình dạy học thể dục, quy chế
giáo dục thể lực cho học sinh, sinh viên và thực hiện kiểm tra tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể cho học sinh, sinh viên, điều chỉnh và ban hành tài liệu giảng
dạy, sách giáo Bộ môn, sách hướng dẫn phương pháp giảng dạy và tập luyện
TDTT. Phát động phong trào tập luyện rộng khắp trong nhà trường các cấp,
chỉ đạo việc cải tiến nội dung hình thức hoạt động ngoại khóa thể dục thể thao,
xây dựng quy hoạch đào tạo bồi dưỡng giáo viên TDTT và bảo đảm cơ sở vật
chất tôi thiểu để phục vụ thực hiện chương trình nội khóa và tập luyện thể thao
ngoài giờ của học sinh - sinh viên.
Hai ngành: Giáo dục - Đào tạo và Thể dục thể thao đã thống nhất những
biện pháp chủ yếu, để nhằm tăng cường đẩy mạnh nâng cao chất lượng công
tác GDTC trong nhà trường các cấp là: "Hai ngành thống nhất tổ chức cuộc
vận động tuyên truyền rộng khắp nhằm có được nhận thức đúng về vị trí quan
trọng của công tác giáo dục thể chất trong chiến lược phát triển con người tới
đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đào tạo và TDTT, học sinh, sinh
viên và toàn xã hội. Kiện toàn tổ chức chỉ đạo và quản lý GDTC từ Trung
ương tới trường học. Cần có hình thức chỉ đạo linh hoạt, gắn hoạt động
GDTC với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, TDTT, văn hóa, kinh tế - xã hội".
Cũng như: "Xác định rõ trách nhiệm hiệu trưởng nhà trường các cấp và toàn
thể đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đối với công tác GDTC. Kiến nghị với
22


các cấp, các ngành cần chấm dứt việc lấn chiếm sân chơi, bãi tập của nhà
trường. Các địa phương cần cấp đất đủ để xây dựng sân chơi bãi tập cho học
sinh, sinh viên trong trường học các cấp" [12].

Để đưa công tác GDTC trong nhà trường trở thành một khâu quan trọng
mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo, cũng như xác định đúng về vị trí GDTC
trong nhà trường các cấp phải được triển khai thực hiện đồng bộ với các mặt
giáo dục tri thức và nhân cách từ tuổi thơ cho đến Đại học. Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã có văn bản quyết định ban hành quy chế về công tác GDTC
trong nhà trường các cấp. Trong đó đã khẳng định: "Giáo dục thể chất được
thực hiện trong nhà trường từ mầm non đến đại học, góp phần đào tạo những
công dân phát triển toàn diện. GDTC là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu
giáo dục và đào tạo, nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". [10]
Nội dung của quy chế đã xác định phải đảm bảo thực hiện dạy và học
môn thể thao theo chương trình quan điểm cho học sinh, sinh viên trong tất cả
các trường từ mầm non đến cấp đại học, bao gồm nhiều hình thức có liên quan
chặt chẽ với nhau: giờ học thể dục, tập luyện thể thao theo chương trình tập
luyện của học sinh, sinh viên giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường,
nhằm phát triển thể lực và nhân cách của người học sinh, cũng như đã khẳng
định: "Nhà trường phải có kế hoạch hướng dẫn học sinh, sinh viên tự tập
luyện thường xuyên, tổ chức thi kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo
lứa tuổi và chỉ tiêu phát triển thể lực cho học sinh, sinh viên theo quy định của
chương trình GDTC" [10].
Trong các trường đại học, GDTC có tác dụng tích cực trong việc hoàn
thiện cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết cho nghiệp vụ và hoàn
thiện thể chất của sinh viên. Việc tiến hành GDTC nhằm giữ gìn sức khỏe và
phát triển thể lực, tiếp thu những kiến thức kỹ năng vận động cơ bản, còn có
tác dụng chuẩn bị tốt về mặt tâm lý và tinh thần của người cán bộ tương lai.
Đồng thời giúp họ hiểu biết phương pháp Bộ môn học, để tiếp tục rèn luyện
23


thân thể củng cố sức khỏe góp phần tổ chức xây dựng phong trào thể thao

trong nhà trường. Do vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình
GDTC trong các trường đại học: "Chương trình GDTC trong các trường đại
học nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục: trang bị kiến thức, kỹ năng về rèn
luyện thể lực của sinh viên, giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, cung cấp cho
sinh viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và phương pháp tập
luyện TDTT, góp phần duy trì và củng cố sức khỏe của sinh viên" [4].
Thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Đảng, Luật Thể dục, Thể thao đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006,
và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2007. Luật ra đời với
9 chương và 79 điều, đã thể chế hóa nhiều chủ trương đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, phục
vụ cho việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội. Tạo ra môi trường pháp
lý, tăng cường kỷ cương, đáp ứng những nhu cầu cấp bách của việc xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh trong lĩnh vực thể dục thể thao.
Giờ học thể dục là tên thường gọi để chỉ giờ học chính khóa, là hình thức
lên lớp bắt buộc, là hình thức tổ chức cơ bản của dạy học TDTT trường học, là lộ
trình chủ yếu để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học TDTT trường học.
Có 2 loại giờ học TD đó là giờ học lý thuyết và giờ học thực hành. Giờ
học lý thuyết trang bị cho học sinh kiến thức về TDTT và vệ sinh sức khỏe
cho học sinh. Giờ học thực hành là giờ học đặc trưng của dạy học TDTT,
được tiến hành trong nhà thể chất hoặc ngoài trời và căn cứ vào chương trình,
kế hoạch dạy học TDTT để tiến hành, nhằm hoàn thành nhiệm vụ truyền đạt
kiến thức, kỹ thuật, kỹ năng cơ bản về TDTT, nâng cao sức khỏe, tăng cường
thể chất, giáo dục tư tưởng và bồi dưỡng phẩm chất ý chí cho học sinh.
Nhiệm vụ trọng tâm của giờ học GDTC nội khóa là trang bị tri thức
chuyên môn, hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho cuộc sống và
cho thể thao. Trong các trường học, giờ học thể chất nội khóa có ưu điểm là
24



được tổ chức chặt chẽ theo thời khóa biểu trên sân tập hoặc trong nhà tập, ở bể
bơi … dưới sự điều khiển của giáo viên hoặc huấn luyện viên theo một kế
hoạch giảng dạy chung (thống nhất và có tính pháp quy), đối tượng là học
sinh, sinh viên cùng lứa tuổi và trình độ học vấn với số lượng ổn định.
1.4. Quan điểm thực hiện xã hội hóa TDTT ở nước ta
TDTT là một phần văn hoá không thể thiếu trong nền văn hoa dân tộc
cũng nhơ] nền văn minh của nhân loại. Trình độ thành tích thể thao là một
trong những dấu hiệu thể hiện trình độ văn hoá và năng lực của dân tộc, là
phương tiện để giao lưu văn hoá, mở rộng mối quan hệ ngoại giao ới các nước
trong khu vực và thế giới. Các hoạt động TDTT quần chúng cũng như các
phong trào, các giải thi đấu TDTT ngày càng trở thành nhu cầu cao trong đời
sống xã hội của mỗi người dân, mỗi tổ chức. Các hoạt động TDTT không chỉ
là một hình thức nghỉ ngơi thư giãn, giải trí mà trước hết nhằm nâng cao sức
khoẻ giảm stress đồng thời là cơ hội tăng cường sự đoàn kết hiểu biết lẫn nhau
giữa các dân tộc.
Ở nước ta sự nghiệp TDTT được gọi là một chính sách xã hội Nhà
nước. Vai trò quan trọng của Nhà nước trong lĩnh vực này khôg có nghĩa là
Nhà nước hoàn toàn bao cấp và điều hành hoạt động mà Nhà nước phải định
hướng bằng những chính sách và luật pháp đảm bảo những điều kiện cơ bản
cho sự phát biểu TDTT ( như cán bộ, cơ sở vật chất, KHKT,…) thực hiện sự
kiểm soát và thống nhất quản lí công tác này ở các cấp ngành tổ chức xã hội.
Xây dựng các tổ chức xã hội là một nội dung quan trọng để thực hiện xã
hội hoá công tác TDTT Một giải pháp có ý nghĩa chiến lược để phát triển nền
TDTT. Một giải pháp có ý nghĩa chiến lược để phát triển nền TDTT. Một giải
pháp có ý nghĩa chiến lược để phát triển nền TDTT nước ta hiện nay là xã hội
hoá. Tổ chức xã hội hoá là một cách đa dạng mới có khả năng tuyên truyền
thu hút đông đảo quần chúng tham gia hoạt động TDTT, mới tổ chức và điều
hành được hoạt động TDTT, mới tổ chức và điều hành được hoạt động TDTT
muôn hình muôn vẻ ở các cấp cơ sở, mới phát huy được năng lực sáng tạo vô

25


×