B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
---------&---------
NG NGC C
Trò chơi kĩ thuật và vận dụng
trong dạy học môn Công nghệ
ở trung học phổ thông
Chuyờn ngnh : Lý lun v Phng phỏp dy hc b mụn KTCN
Mó s
: 60140111
LUN VN THC S GIO DC HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Nguyn Trng Khanh
H NI - 2015
Lời cám ơn
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới :
Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Trung tâm Thông tin - Thư viện và
các Thầy, Cô ở khoa Sư phạm kĩ thuật - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã
quan tâm, tạo điều kiện để tác giả học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
của mình.
Đặc biệt, tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS. Nguyễn Trọng
Khanh đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình học tập
và hoàn thành bản luận văn này.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và các Thầy, Cô ở
trường Trung học phổ thông Thanh Bình, Thanh Hà, Hải Dương đã quan tâm,
tạo điều kiện, góp ý cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn toàn thể gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm giúp
đỡ, động viên tác giả!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Tác giả
Đặng Ngọc Ước
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
CNTT
GD&ĐT
GV
HS
KHKT
KTDH
PPDH
THPT
Viết đầy đủ
Công nghệ thông tin
Giáo dục và đào tạo
Giáo viên
Học sinh
Khoa học kĩ thuật
Kĩ thuật dạy học
Phương pháp dạy học
Trung học phổ thông
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân phối chương trình chung môn Công nghệ 12 ....................33
tại tỉnh Hải Dương..........................................................................................33
Bảng 2.2. Phân phối chương trình chi tiết môn Công nghệ 12....................34
tại tỉnh Hải Dương.........................................................................................34
Bảng 3.1. Nhận thức của HS về hình thức và PPDH môn Công nghệ 12...63
Bảng 3.2. Hứng thú của HS với các loại trò chơi dạy học môn Công nghệ
12.....................................................................................................................64
Bảng 3.3. Mức độ sử dụng trò chơi hợp lý trong giờ học môn Công nghệ 12
.........................................................................................................................66
Bảng 3.4. Thái độ của HS khi tham gia trò chơi..........................................66
Bảng 3.5. HS ứng xử với trò chơi khi GV tổ chức.......................................67
Bảng 3.6. GV nhận định về tác dụng của việc sử dụng trò chơi.................70
Bảng 3.7. Mức độ phân bổ thời gian sử dụng trò chơi trong dạy học.........71
môn Công nghệ 12........................................................................................71
Bảng 3.8. Hiệu quả sử dụng các loại trò chơi trong dạy học môn Công nghệ
12.....................................................................................................................72
Bảng 3.9. Quan điểm lựa chọn căn cứ xây dựng và sử dụng trò chơi của
GV...................................................................................................................73
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Cấu trúc của trò chơi.....................................................................11
Hình 2.1. Ô chữ từ khóa: CHỈNH LƯU........................................................45
Hình 2.2. Sơ đồ mạch tạo xung đa hài đối xứng..........................................47
Hình 2.3.1. Sơ đồ mạch điều khiển quá điện áp...........................................49
Hình 2.3.2. Sơ đồ hoàn chỉnh mạch điều khiển quá điện áp........................49
Giáo viên là người tổ chủ trì trong tổ chức, hướng dẫn và điều hành quá
trình chơi của học sinh. Sau đây là khái quát về nội dung chính của trò chơi
tìm chỗ sai trên video. (Hình 2.4. Tìm và sửa sai trên hình vẽ)..................51
Hình 2.4.1.......................................................................................................51
Hình 2.5. Một số hình ảnh về hệ thống điện quốc gia..................................57
Hình 2.6. Sơ đồ khối về hệ thống điện quốc gia..........................................57
Hình 3.2. Tần số sử dụng trò chơi của GV theo đánh giá của HS...............65
Hình 3.3. Độ khó của trò chơi theo ý kiến của HS.......................................67
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, nhà trường và các thầy
cô giáo luôn chú trọng tới việc tích cực hóa người học, tạo ra những cơ hội và
điều kiện học tập thuận lợi cho người học phát huy tính tích cực, chủ động và
sáng tạo. Đồng thời, để người học phát triển toàn diện, phát triển năng lực
nhận thức và năng lực hành động, việc tạo ra những hình thức tổ chức dạy
học phong phú, hấp dẫn cũng là một hoạt động giáo dục được nhà trường và
các bộ phận quản lí, chỉ đạo quan tâm.
Ngày 2 tháng 11 năm 2012, Bộ trưởng Bộ GDĐT đã ban hành thông tư
số 38/2012/TT - BGDĐT về quy chế Cuộc thi khoa học kĩ thuật (KHKT)
dành cho học sinh trung học Vietnam Science and Engineering Fair - ViSEF
(Sau đây gọi tắt là Cuộc thi KHKT). Cuộc thi KHKT nhằm khuyến khích học
sinh trung học nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghệ, kĩ thuật và vận
dụng kiến thức học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong cuộc sống.
Cuộc thi cũng góp phần thúc đẩy đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp
dạy học, đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập, phát
triển năng lực học sinh (HS), nâng cao chất lượng dạy học. Tạo cơ hội để HS
trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu KHKT của mình, tăng cường trao đổi,
giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa phương và hội nhập quốc tế.
Yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực đã đặt ra những đòi hỏi phải đổi
mới mục tiêu, nội dung của quá trình đào tạo ở mọi cấp học, bậc học trong hệ
thống giáo dục quốc dân ở nước ta. Các trường trung học phổ thông (THPT)
nói chung đã có nhiều cải tiến trong công tác đảm bảo chất lượng đào tạo
nhằm phát huy năng lực cho HS. Đã có nhiều hoạt động nhằm đổi mới
phương pháp dạy học đã được phát động và triển khai dưới nhiều hình thức
khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều biện pháp dạy học phát huy tính tích cực
1
học tập cho HS vẫn chưa được triển khai, một trong những kĩ thuật dạy học
chưa được đông đảo giáo viên quan tâm sử dụng đó là kĩ thuật sử dụng trò
chơi trong dạy học.
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học là một biện pháp dạy học phù hợp
với xu hướng đổi mới dạy học.
Ở các trường THPT, môn Công nghệ là môn có tính thực tiễn cao, việc
sử dụng biện pháp dạy học của GV có ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập
kinh nghiệm trong giảng dạy và tổ chức hoạt động giáo dục của HS về sau.
Trong chương trình dạy học môn Công nghệ, nhiều nội dung nếu được thiết
kế để tổ chức theo trò chơi dạy học sẽ phát huy được tính tích cực học tập của
HS và mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học theo xu hướng hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Trò chơi kĩ thuật và vận
dụng dạy học môn Công nghệ ở trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề sử dụng trò
chơi dạy học, thiết kế và tổ chức thực hiện một số trò chơi trong dạy học môn
Công nghệ 12 nhằm tạo hứng thú học tập, tích cực hóa hoạt động học tập của
HS, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn học ở trường THPT.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động dạy và học môn Công nghệ 12 ở các trường THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống các trò chơi dạy học trong dạy học môn Công nghệ ở trường
THPT.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ luận văn tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng
và sử dụng trò chơi kĩ thuật và vận dụng trong dạy học môn Công nghệ 12 ở
2
trường THPT. Thực nghiệm được tổ chức tại trường THPT Thanh Bình Thanh Hà - Hải Dương.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng một số trò chơi kĩ thuật trong dạy học môn
Công nghệ 12 thì sẽ tạo được hứng thú học tập, phát huy tính tích cực học tập
cho HS, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học môn học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng và
sử dụng trò chơi trong dạy học môn Công nghệ.
5.2. Khảo sát thực trạng việc xây dựng và sử dụng trò chơi trong dạy
học môn Công nghệ 12 ở trường THPT.
5.3. Xây dựng hệ thống các trò chơi kĩ thuật trong dạy học môn Công
nghệ 12 và nghiên cứu các biện pháp sử dụng hệ thống trò chơi đã xây dựng.
5.4. Kiểm nghiệm, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của biện pháp đã đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
Quá trình thực hiện đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí
luận như: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa,… các tài liệu có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quá trình thực hiện đề tài cũng đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu thực tiễn như: phương pháp quan sát, phương pháp chuyên gia, phương
pháp điều tra bằng phiếu Anket, phương pháp phỏng vấn, phương pháp thực
nghiệm, phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục,… để xây dựng cơ sở
thực tiễn và kiểm nghiệm biện pháp đã đề xuất của đề tài.
3
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lí kết quả thu thập
được trong khảo sát và kiểm nghiệm, đánh giá.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng trò chơi trong
dạy học.
Chương 2. Xây dựng và sử dụng trò chơi kĩ thuật trong dạy học môn
Công nghệ 12.
Chương 3. Kiểm nghiệm và đánh giá.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG DẠY HỌC
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRÒ CHƠI
TRONG TRƯỜNG HỌC
1.1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển trò chơi trong trường học trên
thế giới
Trò chơi có ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học trước đây đã nhìn thấy
vai trò của trò chơi trẻ em. Một trong những nhà triết học lớn thời cổ đại là
Platon khi phân chia các giai đoạn trong hệ thống giáo dục đã cho rằng, trẻ từ
3 - 4 tuổi được giáo dục tại gia đình, trẻ chơi những trò chơi cùng nhau dưới
sự hướng dẫn của phụ nữ. Ông khuyên "Đừng ép buộc, cưỡng bức dạy trẻ nhỏ
những kiến thức khoa học mà thông qua trò chơi khi ấy anh dễ nhìn thấy trẻ
hướng về cái gì".
Quan điểm bản chất xã hội của trò chơi, người đầu tiên đưa ra quan
điểm này là nhà triết học người Đức V.Vunt. Ông viết: "Trò chơi đó là lao
động của trẻ nhỏ, không có một trò chơi nào là không có trong mình một
nguyên mẫu, một dạng lao động nghiêm túc" [2].
G.V. Plêkhanôv đã khẳng định trò chơi xuất hiện trước lao động và trên
cơ sở của lao động. Ông cho rằng trò chơi là một phản ánh, thông qua trò
chơi, trẻ có thể lĩnh hội những kĩ năng lao động, thói quen và các nguyên tắc
ứng xử của người lớn trong xã hội. Từ đó ông đi đến kết luận: "Trò chơi
mang bản chất xã hội, nó xuất hiện để đáp ứng với xã hội mà trẻ đang sống và
nhu cầu được trở thành thành viên tích cực của xã hội đó" [2].
5
Người có công lớn đặt nền móng cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu trò
chơi là nhà tâm lí học Xô Viết L.X.Vugôtxki. Ông cho rằng về trò chơi thì có
những vấn đề sau [33]:
- Khẳng định bản chất xã hội và tính hiện thực của trò chơi trẻ em.
- Khẳng định vai trò trung tâm của trò chơi trẻ em đối với sự phát triển tâm
lí của trẻ. Trò chơi chính là động lực phát triển và tạo ra "vùng phát triển gần".
- Trò chơi trẻ em không nảy sinh một cách tự phát mà do ảnh hưởng có
ý thức và không có ý thức từ phía người lớn xung quanh.
- Sự cần thiết phải vận dụng phương pháp phân tích, xác định "cấu trúc
đơn vị" của C.Mac vào nghiên cứu các chức năng tâm lí, trong đó có việc
nghiên cứu trò chơi.
- Không nên dừng lại ở nghiên cứu quan sát mà cần thiết phải tổ chức
các nghiên cứu thực nghiệm về trò chơi.
Như vậy trên thế giới, vấn đề kĩ năng tổ chức trò chơi đã có từ rất sớm
và ngày càng được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Hướng mới nhất hiện
nay các nhà nghiên cứu đang chú trọng đến là hoàn thiện các kĩ năng tổ chức
những trò chơi đa dạng mang tính tích hợp các môn học để tạo hứng thú trong
dạy học.
1.1.2. Sơ lược sự hình thành và phát triển trò chơi trong trường học ở
Việt Nam
Trong đời sống con người, ngoài các hoạt động lao động, học tập, chiến
đấu,… còn có hoạt động vui chơi, giải trí. Mỗi hoạt động vui chơi, giải trí
được tổ chức nhằm một mục đích nhất định, có nội dung nhất định và tuân
theo những quy định nào đó. Mỗi hoạt động đó được gọi là một trò chơi.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ,… trò chơi
nói chung cũng được phát triển không ngừng. Trong quá trình phát triển của
mình, có những trò chơi mới xuất hiện, có những trò chơi dần mất đi, có
6
những trò chơi được đổi mới mục đích, đổi mới nội dung, đổi mới quy định,
thể lệ v.v…
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, trò chơi dân gian ngày
càng phát triển và hầu như không thể vắng trong các cuộc lễ hội. Tuy nhiên,
tùy theo từng vùng miền, tùy theo từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử mà có thể
vẫn tồn tại cả những trò chơi có mặt tốt và mặt xấu của nó.
Trong trường học, lớp học, trò chơi cũng là một hoạt động không thể
thiếu. Ban đầu, trò chơi thường do học trò tự phát, tự tổ chức như “đánh
khăng”, “đánh đáo”, “đuổi mắt bắt dê”, “đánh gụ”, “nhảy dây”, “chọi gà”
(bằng cỏ gà), “cướp cờ” v.v… Mục đích của trò chơi kiểu này chủ yếu nhằm
giải trí đầu óc sau những giờ học căng thẳng, mệt mỏi và phần thưởng cho
người thắng cuộc thường cũng chẳng có gì. Nội dung của các trò chơi này
cũng đơn giản và thể lệ cuộc chơi cũng chỉ một vài quy định đơn giản, dễ
nhớ. Những trò chơi kiểu này có ưu điểm nổi bật là người chơi được huy
động cả trí tuệ và sức lực nên người chơi vừa thoải mái đầu óc, rèn luyện trí
tuệ vừa được rèn luyện thể lực.
Khi khoa học công nghệ phát triển, đặc biệt là sự phát triển của công
nghệ thông tin, các trò chơi game trên máy tính ngày càng phát triển do sự
hấp dẫn, tiện lợi của nó. Nhìn chung các trò chơi trên máy tính chỉ có thể giúp
người chơi giải trí và rèn luyện trí tuệ trong một chừng mực nào đó. Các trò
chơi này hầu như không giúp người chơi rèn luyện thể lực, thậm chí nếu
người chơi quá ham mê sẽ dẫn tới hậu quả xấu cả về trí tuệ và thể lực.
Nguyễn Thị Ngọc Chúc với tác phẩm "Hướng dẫn tổ chức học tập vui
chơi" đã đề cập đến các loại trò chơi, mức độ các mối quan hệ trong trò chơi.
Đó là chơi không có tổ chức, chơi một mình, chơi cạnh tranh nhau, chơi với
nhau trong một thời gian ngắn, chơi với nhau lâu trên cơ sở hứng thú với nội
7
dung chơi. Tác giả đã khẳng định kết quả của hai mức độ cuối phụ thuộc vào
kĩ năng hướng dẫn người học chơi của mỗi giáo viên [2].
Việc nghiên cứu kĩ năng tổ chức trò chơi cho học sinh THPT ở Việt
Nam còn nhiều hạn chế, hầu như rất ít giáo viên sử dụng phương pháp này
trong dạy học vì: Mất thời gian thiết kế, xây dựng, số lượng học sinh thụ động
còn nhiều, bao quát lớp của GV gặp khó khăn,... đặc biệt nhất là tổ chức vận
dụng trò chơi kĩ thuật trong dạy học môn Công nghệ chưa còn nhiều hạn chế
hơn. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu vấn đề này trở lên cần thiết, nhằm tích
cực hóa học tập của học sinh, tạo hứng thú học tập, phát huy tính sáng tạo và
phát triển tư duy học sinh góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và học
đối với chương trình dạy học nói chung và môn Công nghệ nói riêng.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Trò chơi
1.2.1.1. Chơi và hoạt động chơi
- Chơi là một trong những hoạt động của con người, có mặt trong đời
sống con người ở mọi lứa tuổi, mặc dù hình thức chơi thay đổi khi một người
lớn lên, già đi. Khi chơi, cả người lớn lẫn trẻ em đều say mê, vui vẻ, thoải
mái. Đối với người lớn, hoạt động chơi chiếm một vị trí nhất định trong cuộc
sống của họ. Còn đối với trẻ mẫu giáo, hoạt động chơi là nội dung chính của
cuộc sống, là hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “chơi”, có thể điểm qua
một vài định nghĩa về “chơi” như:
+ “Chơi là hoạt động chỉ nhằm cho vui mà thôi, không có mục đích
gì khác”.
+ “Chơi là hoạt động giải trí hoặc nghỉ ngơi”.
+ “Chơi là một hoạt động vô tư, người chơi không chú tâm vào một lợi
ích thiết thực nào cả, trong khi chơi các mối quan hệ của con người với tự
8
nhiên với xã hội được mô phỏng lại, nó mang đến cho người chơi một trạng
thái tinh thần vui vẻ, thoải mái, dễ chịu”.
+ “Chơi là kiểu hành vi hoặc hoạt động tự nhiên, tự nguyện, có động cơ
thúc đẩy là những yếu tố bên trong quá trình chơi và chủ thể không nhất thiết
theo đuổi những mục tiêu và lợi ích thực dụng một cách tự giác trong quá
trình đó. Bản thân quá trình chơi có sức cuốn hút tự thân và các yếu tố tâm lý
của con người trong khi chơi nói chung mang tính chất vui đùa, ngẫu hứng, tự
do, cởi mở, thư giãn, có khuynh hướng thể nghiệm những tâm trạng hoặc tạo
ra sự khuây khỏa cho mình”.
Rõ ràng khó có thể đưa ra một khái niệm chung cho một hiện tượng
“chơi” trong toàn bộ phạm vi hoạt động rộng lớn của con người vì hình thức
thể hiện của hoạt động chơi vô cùng đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức.
- Hoạt động chơi là hình thái đặc biệt của sự chơi và chỉ có ở con
người. Quá trình chơi diễn ra ở 2 cấp độ: cấp độ hành vi và cấp độ hoạt động.
Với tư cách là hoạt động, sự chơi diễn ra theo nhu cầu của chủ thể, được điều
khiển bởi động cơ bên trong quá trình chơi. Yếu tố động cơ là căn cứ phân
biệt rõ hoạt động chơi với những dạng hoạt động khác. Hoạt động chơi là
dạng chơi có ý thức, cả nội dung văn hóa xã hội, dựa trên các chức năng tâm
lý cấp cao và chỉ có ở người, không có ở động vật. Như vậy “Loại hoạt động
nào có cấu trúc động cơ nằm trong chính quá trình hoạt động, đó chính là
hoạt động chơi”.
Tóm lại, hoạt động chơi cả trẻ em và người lớn đều có cùng bản chất tự
nhiên, ngây thơ, vô tư vì nó là một trường hợp của chơi nhưng đây là dạng
chơi ở người có ý thức, có động cơ xã hội và văn hóa, có nội dung nhận thức,
tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ.
Hoạt động chơi đương nhiên là chơi nhưng không phải mọi hiện tượng
chơi nào cũng là hoạt động chơi – có nhiều hiện tượng chơi chỉ là hành vi hay
động thái biểu hiện những khả năng và nhu cầu bản năng của cá thể sinh vật
hoặc người.
9
1.2.1.2. Trò chơi
Trò: Là hoạt động diễn ra trước mắt người khác để mua vui.
Chơi: là hoạt động giải trí hoặc nghỉ ngơi, chỉ nhằm mục đích cho vui
mà thôi.
- Trò chơi là một loại hình văn hóa dân gian rất quen thuộc, gần gũi với
mọi người và mang tính chất truyền thống. Hay là một loại hình sinh hoạt,
giao lưu văn hóa của con người, thường được tổ chức vào các dịp lễ, hội, tết...
thông qua đó giáo dục con người những kinh nghiệm sản xuất, phẩm chất đạo
đức, tri thức khoa học...
- Trò chơi mang lại cho con người sự vui vẻ, đoàn kết, giúp con người
bộc lộ những tình cảm, thể hiện ước mơ, sự phấn đấu...
Có rất nhiều định nghĩa về trò chơi như sau:
- Một số nhà tâm lý – giáo dục học theo trường phái sinh học như
K.Gross, S.Hall, V.Stern ... cho rằng, trò chơi là do bản năng quy định, chơi
chính là sự giải tỏa năng lượng dư thừa.
- Còn G.Piagie cho rằng, trò chơi là hoạt động trí tuệ thuần túy là một
nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ.
- Trên quan điểm macxit, các nhà khoa học Xô Viết đã khẳng định
rằng, trò chơi có nguồn gốc từ lao động và mang bản chất xã hội. Trò chơi
được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng con đường giáo
dục [11].
- Theo tác giả Đặng Thành Hưng thì trò chơi là một thuật ngữ có hai
nghĩa khác nhau tương đối xa.
+ Một là kiểu loại phổ biến của chơi. Nó chính là chơi có luật (tập hợp
quy tắc định rõ mục đích, kết quả và yêu cầu hành động) và có tính cạnh tranh
hoặc tính thách thức đối với người tham gia.
10
+ Hai là những thứ công việc được tổ chức và tiến hành dưới hình thức
chơi, như chơi bằng chơi, chẳng hạn: học bằng chơi, giao tiếp bằng chơi, rèn
luyện thân thể dưới hình thức chơi v.v...
- Theo từ điển tiếng Việt thì trò chơi là "Hoạt động bày ra để vui chơi,
giải trí" [P1; tr.1001].
Tóm lại, trò chơi chính là sự chơi có luật, những hành vi chơi tùy tiện,
bất giác không gọi là trò chơi [19].
Các trò chơi đều có luật lệ, quy tắc, nhiệm vụ, yêu cầu tức là có tổ chức
và thiết kế, nếu không có những thứ đó thì không có trò chơi mà chỉ có sự
chơi đơn giản.
Qua sự phân tích các quan niệm, ý kiến về trò chơi, qua xem xét nội
dung và mục đích của trò chơi hiện nay, có thể hiểu: Trò chơi là một loại hoạt
động tạo cho người tham gia được vui chơi, giải trí, rèn luyện trí tuệ và sức
lực, nó mang một chủ đề, nội dung nhất định, có tổ chức của nhiều người
tham gia (Từ hai người trở lên) và có những quy định, những luật lệ buộc
người chơi phải tuân theo. Đồng thời, trò chơi còn là hoạt động rèn luyện
cho người chơi cả về phẩm chất như lòng kiên trì, sự tự tin, sự tương trợ giúp
đỡ cộng đồng v.v…
Trò chơi được cấu trúc từ những yếu tố: Cốt trò, Đề trò, Luật trò,
Thưởng phạt. Có thể mô tả cấu trúc trò chơi như trên hình 1.1.
Trò chơi
Cốt trò
Đề trò
Luật trò
Hình 1.1. Cấu trúc của trò chơi
11
Thưởng phạt
- Cốt trò: là bộ xương của trò chơi, là cái tạo lên trò chơi, là mục tiêu
mà trò trơi muốn đạt được.
- Đề trò: là hình thức thể hiện trò chơi, là bước dẫn dắt trò chơi, là tình
huống nhằm thu hút, lôi cuốn, kích thích cho người chơi tham gia một cách
tích cực.
- Luật trò: là những quy định, quy tắc mà bất cứ người chơi nào cũng
phải tuân thủ. Luật trò phải được phổ biến trước khi chơi để những người chơi
nắm được mà thực hiện đúng luật, tránh vi phạm khi chơi.
- Thưởng phạt: Trò chơi bao giờ cũng có kẻ thắng, người thua và đi
kèm có thưởng cho người (hoặc nhóm) thắng cuộc và có thể có phạt cho
người (hoặc nhóm) thua cuộc. Tuy nhiên thưởng, phạt chỉ mang tính tượng
trưng đơn giản, vui vẻ, khích lệ.
1.2.2. Trò chơi dạy học
1.2.2.1. Khái niệm trò chơi dạy học
Cho đến nay vẫn có những quan niệm khác nhau về trò chơi dạy học.
- Trong lý luận dạy học, tất cả những trò chơi gắn với việc dạy học như
là phương pháp, hình thức tổ chức và luyện tập,... không tính đến nội dung và
tính chất của trò chơi thì đều được gọi là trò chơi dạy học.
- Do những lợi thế của trò chơi có luật được quy định rõ ràng (gọi tắt là
trò chơi có luật), trò chơi dạy học còn được hiểu là loại trò chơi có luật, có
định hướng đối với sự phát triển trí tuệ của người học, thường do giáo viên
nghĩ ra và dùng nó vào mục đích giáo dục và dạy học.
- Trò chơi dạy học có nguồn gốc trong nền giáo dục dân gian, trong
những trò chơi đầu tiên của mẹ với con, trong các trò vui và những bài hát
khôi hài làm cho đứa trẻ chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó
và dùng hình thức đó để dạy con, những trò chơi đó có chứa đựng các yếu tố
dạy học. [31].
12
- A.I Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù
của trò chơi dạy học: "Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là hình
thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi... Khi các mối quan hệ chơi bị
xóa bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy trò chơi biến thành tiết học,
đôi khí biến thành sự luyện tập". [28].
- Tác giả Trần Thị Ngọc Trâm cho rằng: "Trò chơi dạy học là một
trong những phương tiện có hiệu quả để phát triển các năng lực trí tuệ, trong
đó có khả năng khái quát hóa là một năng lực đặc thù của khả năng con
người".[26].
- Tổng hợp các lý thuyết nghiên cứu về trò chơi dạy học của các nhà
nghiên cứu Xô Viết, tác giả Trương Thị Xuân Huệ trong công trình nghiên
cứu: “Sử dụng phương pháp trò chơi trong công tác chuẩn bị trí tuệ cho trẻ
em học toán lớp 1”, khẳng định rằng trò chơi dạy học được hiểu là trò chơi có
nhiệm vụ giáo dục, trò chơi dạy học là trò chơi có nội dung và luật chơi cho
trước do người lớn sáng tác và đưa vào cuộc sống của trẻ. [16].
- Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, lịch sử phát triển trò
chơi, các nhà tâm lí học Xô viết trước đây đã cho rằng: "Trò chơi là một nghệ
thuật xuất hiện sau lao động và một hiện tượng mang tính chất xã hội".
- Còn theo tác giả Đặng Thành Hưng thì những trò chơi giáo dục được
lựa chọn và sử dụng trực tiếp để dạy học, tuân theo mục đích, nội dung, các
nguyên tắc và phương pháp dạy học, có chức năng tổ chức, hướng dẫn và
động viên trẻ hay học sinh tìm kiếm và lĩnh hội tri thức, học tập và rèn luyện
kĩ năng, tích lũy và phát triển các phương thức hoạt động và hành vi ứng xử
xã hội, văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật, khoa học, ngôn ngữ, cải thiện
và phát triển thể chất, tức là tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập của học
sinh khi họ tham gia trò chơi gọi là trò chơi dạy học.
13
Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các quan hệ trong trò chơi dạy học
được tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ các nhiệm vụ dạy học và
được định hướng vào mục tiêu, nội dung học tập.
Trò chơi dạy học được sáng tạo ra và được sử dụng bởi các nhà giáo và
người lớn dựa trên những khuyến nghị của lý luận dạy học, đặc biệt là của lý
luận dạy học các môn học cụ thể. Chúng phản ánh lý thuyết, ý tưởng, mục
tiêu của nhà giáo, là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài
bản cứng nhắc như những giờ học.
Cũng cần lưu ý rằng, cách gọi tên trước đây là trò chơi học tập thật ra
chưa chính xác, bởi vì học sinh không xây dựng và thiết kế chúng, ý tưởng và
mục tiêu của trò chơi không phải do học sinh đề ra, học sinh cũng không tiến
hành trò chơi mà là tham gia trò chơi. Đó là một loại hoạt động giáo dục do
GV tiến hành để dạy học là một “trò” của GV chứ không phải trò của học
sinh [19].
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về trò chơi dạy học là: : Trò chơi dạy
học là một loại hoạt động mang tính giáo dục, tạo cho người tham gia được
vui chơi, giải trí, rèn luyện trí tuệ, sáng tạo và sức lực, nó mang một chủ đề,
nội dung nhất định liên quan đến nội dung dạy học, đồng thời rèn luyện cho
người chơi cả về phẩm chất như lòng kiên trì, sự tự tin, sự tương trợ giúp đỡ
nhau trong học tập v.v…
1.2.2.2. Các loại trò chơi trong trường học
a) Phân loại trò chơi theo cách tiếp cận:
Trong việc phân loại trò chơi cũng có một số quan điểm khác nhau. Ở
đây, theo tác giả Đặng Thành Hưng, có thể phân loại theo một số cách tiếp
cận sau:
14
* Theo tiếp cận văn hoá, có các loại:
- Những trò chơi nhại lại hay phóng tác (Simulations): Đó là sự trừu
tượng hoá và tái tạo một mảng hiện thực dưới hình thức chơi, với những đối
tượng, quá trình, quan hệ và tình huống mô phỏng nhưng phản ánh nhu cầu
giải quyết vấn đề, nhận thức, đánh giá, tạo dựng cái gì đó thiết thực trong
cuộc sống của con người.
- Những trò chơi sáng tạo hay kiến tạo (games): Đó là tổ hợp những
hoạt động được tiến hành theo những luật, quy tắc, phần thưởng hay phần
thắng và mục đích chơi mới được đặt ra một cách chủ động, không phụ thuộc
vào những tiền lệ một cách trực tiếp. Kiểu trò chơi này có thể gồm một vài
yếu tổ đơn lẻ mang tính chất phóng tác, nhưng chúng không giữ vai trò quan
trọng trong mục đích, luật và quy tắc chơi.
- Những trò chơi nửa phóng tác nửa sáng tạo của (simualated Games):
Đó là những hoạt động và mục đích và phần thưởng hay giải thưởng thường
phỏng theo những tiền lệ đã có, tức là phóng tác những thói thường, những
các lụật lệ, quy tắc của trò chơi lại là những yếu tổ mới được đặt ra, không
dựa vào tiền lệ nào có sẵn. Và trường hợp ngược lại, trò chơi này gồm các
luật lệ, quy tắc phóng tác và những mục đích, cách đặt giải thưởng có tính rất
sáng tạo.
* Theo tiếp cận lịch sử, có các loại:
- Những trò chơi dân gian, có tính truyền thống: Đó là những trò chơi
thường đi kèm với lễ hội, liên hoan và sinh hoạt cộng đồng truyền thống múa lân, chơi cầu mây, thi nấu cơm trên thuyền, chơi trốn tìm, thi vật
v.v....chúng thường có hình thức đặc trưng của văn hoá dân tộc và có nội
dung nghiêng về giải trí, tiêu khiển, thư giãn, vui vẻ, bồi dưỡng đời sống tinh
thần của con người.
15
- Những trò chơi hiện đại, có tính chất công nghiệp và văn minh phổ
biến: Đó là những trò chơi được thiết kế và tổ chức theo phong cách hiện đại,
có sự tham gia của các yếu tổ quan lý, công nghệ, nghệ thuật, sư phạm, tâm lý
và các khoa học khác, với nội dung phản ánh các hoạt động, quan hệ, quá
trình và tình huống xã hội hiện đại. Ví dụ: Trò chơi xây dựng hay lắp ráp các
cấu kiện, mô hình kỹ thuật, trò chơi điện tử như lái xe, bắn súng, các môn thi
đấu thể thao mới xuất hiện,... Chúng thường phổ biến ở nhiều nền văn hoá
khác nhau và có nội dung nghiêng về phản ánh hiện thực đương đại.
* Theo tiếp cận tâm lý, có các loại:
- Những trò chơi thi đấu, có tính chất tranh đua để giành thành tích tốt
nhất hoặc vượt qua thử thách một cách xuất sắc nhất: Đó là những trò chơi có
tập hợp quy tắc, luật lệ chặt chẽ nhằm định rõ mục đích, kết quả, hoặc yêu cầu
về thành tích phải vượt qua, buộc những người tham gia phải nỗ lực ganh đua
với nhau để giành thành tích cao nhất.
- Những trò chơi không thi đấu, không có tính chất thi thố, tranh đua:
Đó là những trò chơi chỉ có mục đích thắng đối thủ, loại đối thủ khỏi cuộc
chơi hoặc thắng chính trò chơi, có tính chất "không nhất thì bét", không thắng
thì thua, mà không có quá trình đánh giá, xem xét và xếp hạng thành tích.
Chẳng hạn các trò đánh cờ vây đôi, đánh cờ với máy tính điện tử, chọi gà,
chơi quyền anh, giải các bài toán vui hay lắp ghép các mô hình kĩ thuật,... là
những trò chơi không thi đấu.
* Theo tiếp cận chức năng, có các loại:
- Những trò chơi giải trí, tiêu khiển: Đó là kiểu trò chơi có chức năng
cứu rỗi, giải toả bớt những căng thẳng tâm lý do công việc, quan hệ, đời sống
lao động và đấu tranh gây ra. Chúng có thể có tính chất thi đấu hoặc không thi
đấu, có giải thưởng hay không có giải thưởng... Nói chung, các trò chơi giải
trí không nhằm những mục đích hay lợi ích công việc. Ví dụ: Đánh bài, thi
16
hát đối, chơi cờ, chơi đố chữ,... cốt để vui vẻ trong những lúc rỗi rãi, đàn đúm
bạn bè, họp mặt, hội hè.
- Những trò chơi công vụ: Gồm những trò chơi nhằm những mục đích
công việc nghiêm túc, trong đó các hoạt động của người tham gia tuy có hình
thức là chơi song nội dung và nhiệm vụ phải giải quyết lại là những công việc
nhất định. Trò chơi công vụ, luật chơi chỉ là hình thức và chỉ dẫn công việc
phải làm, người tham gia hầu như không thực sự tiến hành hoạt động chơi, mà
tiến hành những hoạt động khác.
- Những trò chơi dùng sức lực thể chất: Chúng đồng thời có chức năng
chủ yếu là cải thiện và phát triển thể chất của người tham gia, về hình thể, sức
vóc, sức mạnh cơ thể, khả năng vận động cơ thể, độ khéo léo của chân tay hay
tư thế của thân thể, vận động và chức năng của các giác quan....
- Những trò chơi trí tuệ: Có tác động chủ yếu đến các chức năng và quá
trình tâm lý của con người, cải thiện các yếu tổ tâm trí đồng thời cũng đòi hỏi
người tham gia phải huy động và vận dụng các sức mạnh tâm trí của mình để
thực hiện những hoạt động cần thiết trong trò chơi.
b) Phân loại trò chơi theo chức năng:
Căn cứ vào chức năng, trò chơi dạy học được chia ra 3 nhóm sau:
* Nhóm 1: Trò chơi phát triển nhận thức.
Đó là loại trò chơi đòi hỏi người tham gia phải sử dụng các chức năng
nhận thức, nỗ lực hoạt động nhận thức, thực hiện các hành vi và hành động
nhận thức để tiến hành các nhiệm vụ chơi, tuân thủ những yêu cầu và mục
đích chơi, qua đó cải thiện và phát triển được khả năng, quá trình và kết quả
nhận thức của mình. Trò chơi phát triển nhận thức lại được phân thành một số
nhóm nhỏ:
- Các trò chơi phát triển cảm giác và tri giác: Ví dụ các trò chơi thi xếp
hình, ghép hình theo hình dạng, theo màu sắc; trò chơi nhận dạng các đồ vật,
17
con vật và đối chiếu các sự vật với mẫu, với vật thật, với mô hình, trò chơi
phân biệt các sắc thái của màu, phân biệt các bộ phận đồng nhất và khác nhau
giữa các sự vật; trò chơi nghe và nhận dạng âm thanh...
- Các trò chơi phát triển và rèn luyện trí nhớ: Ví dụ trò chơi kể và tiếp
nối các từ đồng nghĩa, các đồ vật, các con vật, các chữ cái: Trò chơi nhắc lại
các âm, các nốt nhạc, trò chơi nhận lại các hình sau khi quan sát, nhớ lại dạy
số, nhớ lại số lượng hay kích thức của vật....
- Các trò chơi phát triển tưởng tượng và tư duy: Ví dụ các môn cờ khác
nhau, các trò chơi xây dựng, lắp ghép mô hình, các trò chơi có vai (phóng
tác), phân vai (theo chủ đề) và đóng kịch ; các trò chơi thi giải đố, thi tính
toán thi với các thực nghiệm khoa học; các trò chơi thực hiện những thuật
toán như xếp đội hình, giải các bài tập theo chương trình; các trò chơi khoa
học vui...
* Nhóm 2: Trò chơi phát triển các giá trị.
Đó là những trò chơi có nội dụng văn hoá, xã hội, trong đó các quan hệ
chơi lý tưởng hoá các quan hệ đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, gia đình, xã hội,
chính trị, pháp luật, quân sự,... hiện thực và các quy luật hay quy tắc chơi
được định hướng vào việc kích thích, khai thác các thái độ, tình cảm tích cực,
động viên ý chí và nhu cầu xã hội, khuyến khích sự phát triển các phẩm chất
cá nhân của người tham gia. Ví dụ: Các trò chơi phân vai theo các chủ đề, các
trò chơi đóng kịch, các trò chơi dân gian có tính chất lễ hội,… như: thi nấu
cơm, thi kéo co, thi nhảy múa, thi đọc thơ, thi làm thơ; các trò chơi phóng tác
những nghề nghiệp hay quan hệ xã hội... Chúng là môi trường giao tiếp và
chia sẻ kinh nghiệm sống, giúp trẻ học và rèn luyện những kĩ năng xã hội, kỹ
năng cộng tác…
Một số trò chơi đòi hỏi khả năng đánh giá sự vật hay hành vi, hành
động, tính cách con người, khả năng giải đáp những tình huống khác nhau.
18
* Nhóm thứ 3: Trò chơi phát triển vận động.
Các trò chơi phát triển vận động là loại trò chơi có vi phạm rộng hơn.
Trò chơi vận động trực tiếp đòi hỏi các vận động phải tuân theo luật hay quy
tắc, và nội dung chơi chủ yếu là vận động. Nó đương nhiên có chức năng phát
triển vận động. Còn trò chơi phát triển vận động vừa gồm các trò chơi vận
động vừa gồm những trò chơi khác. Trò chơi phát triển vận động có hai loại:
- Hầu hết các trò chơi thể thao như chơi bóng, đá cầu, mang vác, leo
trèo, chạy nhảy, nhảy dây, đuổi bắt, xếp hình bằng đội ngũ...
- Các trò chơi phóng tác có nội dung quân sự, lao động, dịch vụ đòi hỏi
phải vận động thể chất và di chuyển cơ thể.
Chức năng của cá nhân ngày càng phát triển phân hoá theo sự tăng dần
của lứa tuổi và thể hiện cụ thể trong các lĩnh vực hành vi, hoạt động quan hệ
thực hiện của con người. Dạy học chính là dạy người ta lĩnh hội các phương
thức hành vi, hoạt động và quan hệ, hay như chúng ta quen gọi là các mặt
giáo dục và phát triển của trẻ em. Các lĩnh vực hay các mặt này là tầng phát
triển cụ thể hơn tầng chức năng, có nội dung bộ môn hay chuyên biệt, có tính
chất ngành. Nếu như các hành vi và hoạt động có cơ cấu ngành (lĩnh vực) thì
bản thân cơ cấu đó gợi ý cho ta phân loại và xác định các nhóm trò chơi dạy
học theo nguyên tắc ngành. Điều đó còn có nghĩa nếu cơ cấu ngành thay đổi
theo lứa tuổi học sinh, thì hệ thống trò chơi phải thay đổi [19 tr 411 - 415].
1.2.2.3. Chức năng dạy học của trò chơi
- Xây dựng mối quan hệ: Đó là những trò chơi được sử dụng để cải
thiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể. Các
thành viên sẽ họp lại thành nhóm và làm việc theo nhóm.
- Cải thiện khả năng giao tiếp: Loại trò chơi này được thiết kế và sử
dụng để người chơi thấy được cái họ cần cải thiện trong khả năng giao tiếp.
Khi một chương trình về kỹ năng giao tiếp người chơi cần phải đảm bảo tất cả
19