Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.4 KB, 58 trang )

Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Đảng là hoạt động xây dựng đảng về mặt trí tuệ, tư tưởng và
chính trị, là công tác cách mạng trên lĩnh vực ý thức của con người, là làm
cho chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thấm nhuần trong Đảng
và giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Công tác xây dựng Đảng có ý nghĩa, vai trò to lớn và là một bộ phận
cấu thành đặc biệt trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Thực tiễn lịch sử 80
năm qua đã chứng minh được điều này. Từ khi Đảng ra đời cho đến nay,
công tác xây dựng Đảng đã góp phần quan trọng trong sự thắng lợi của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, là sự nghiệp sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Xây dựng Đảng theo văn kiện Đại hội VI gồm 4 mặt cơ bản: Xây
dựng Đảng về chính trị, về tư tưởng, về tổ chức và về phương thức lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng
luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Là người sáng lập, lãnh đạo và
rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến
việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh,
làm tốt vai trò là Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền, giữ trọn niềm tin yêu
của nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, với tư cách người khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định
một cách rõ ràng và dứt khoát rằng, trong suốt tiến trình công cuộc đổi mới
này, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Vị trí then chốt này không chỉ có
nghĩa đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, mà còn có nghĩa là nhiệm vụ


đóng vai trò chi phối, quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới.
Nguyễn Thị Phượng
K31

1

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến năm 1996, đất nước đạt nhiều thành
tựu đáng kể nhưng bên cạnh đó còn không ít những khó khăn, hạn chế.
Cuối năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
đã tác động sâu sắc đến cách mạng nước ta nói chung và Đảng ta nói riêng.
Đông đảo cán bộ và nhân dân lo lắng, một số người dao động, hoài nghi về
tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự kiện này cũng giúp cho Đảng ta
có thêm nhiều bài học về xây dựng Đảng: chống nguy cơ sai lầm về đường
lối, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, sai lầm về lựa chọn và bố
trí cán bộ, tệ quan liêu xa rời quần chúng... Cũng trong thời kỳ này, tình hình
xây dựng Đảng ta đạt nhiều thành công trong công tác xây dựng Đảng, tuy
nhiên, Đảng ta cũng bộc lộ những khuyết điểm và nhược điểm, có những
khuyết điểm đang trở thành nguy cơ không thể xem thường. Trước sự sụp đổ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, ngày 26-6-1992, Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VII) đã họp và ra nghị quyết số 03- NQ/ TW Về một
số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Tiếp đó vào tháng 1-1994, Hội nghị
đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII đã họp và chỉ rõ sự nghiệp đổi mới của Đảng
và nhân dân ta đang đứng trước những cơ hội lớn và thách thức lớn. Đứng

trước những thách thức đó, đòi hỏi Đảng ta phải tăng cường xây dựng Đảng,
bảo vệ nội bộ Đảng và đấu tranh chống “ diễn biến hòa bình ” của các thế lực
thù địch.
Từ năm 1991-1995, Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ đối ngoại. Thực hiện chủ trương này một mặt đem lại cho nước ta
những tác động tích cực, tuy nhiên bên cạnh đó, cơ chế thị trường cũng làm
nảy sinh những mặt tiêu cực tác động đến nước ta nói chung và Đảng ta nói
riêng. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường đã làm cho xã hội nước ta phân hóa

Nguyễn Thị Phượng
K31

2

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

thành thành nhiều khuynh hướng tư tưởng, trong đó, cần phải đặc biệt đề
phòng khuynh hướng, lối sống chạy theo đồng tiền. Khuynh hướng này đã
gây nên trở ngại rất lớn cho sự phát triển của đất nước ta. Trong khi đó, nhiệm
vụ của Đảng phấn đấu theo Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000 đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển,
cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện

cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XX. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990 là một
nhiệm vụ rất nặng nề, đòi hỏi sự quyết tâm và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân
mới có thể thực hiện được.
Ngày nay, trong bối cảnh khi chúng ta đang đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Mặt
khác, trong thời gian qua và cả hiện tại, các thế lực thù địch, phản động trong
và ngoài nước luôn luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng, chống phá sự
nghiệp đổi mới của chúng ta, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Những yếu tố đó đặt ra cho Đảng rất nhiều “ câu hỏi ” phải giải đáp,
phải làm sáng tỏ. Tình hình mới đó, đòi hỏi Đảng phải có những đổi mới,
những chủ trương, đường lối mới đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình
mới. Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
(6-1996) với chủ đề “ Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội ” đã đánh giá tổng quát tình hình đất nước
sau 10 năm đổi mới và 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội VII và đề ra
phương hướng phát triển đất nước trong những năm tiếp theo. Về công tác
xây dựng Đảng, Đại hội xác định vai trò rất lớn của Đảng đối với sự nghiệp

Nguyễn Thị Phượng
K31

3

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)


Khóa luận tốt nghiệp

cách mạng của nhân dân ta “ Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công
cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự
lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành
tựu đổi mới ”.
Việc tổng kết công tác Xây dựng Đảng qua từng thời kỳ là một việc
làm rất cần thiết và quan trọng trong quá trình phát triển. Thông qua đó, Đảng
rút ra cho mình những bài học, phát huy những thành tựu, hạn chế, sửa chữa
khuyết điểm, tồn tại của mình, làm cho công tác xây dựng Đảng có hiệu quả
hơn. Các Đại hội Đảng, nhiều Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đều
có tổng kết về công tác xây dựng Đảng, ngoài ra cũng có các công trình
nghiên cứu, bài viết, bài nói của nhiều tác giả đề cập tới vấn đề xây dựng
Đảng. Tuy nhiên mới chỉ đề cập đến một vấn đề hay khía cạnh nào đó, cũng
như trong một thời gian ngắn, chưa có cái nhìn khái quát cả một thời kỳ dài.
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của công tác xây dựng Đảng, với
mong muốn tái hiện, đánh giá một cách khái quát, hệ thống về công tác xây
dựng Đảng trong cả một thời kỳ, tác giả khóa luận mạnh dạn chọn vấn đề
“Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2006” làm khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về vấn đề công tác xây dựng Đảng đã có nhiều công trình khoa học,
các tác phẩm, bài viết, bài nói của nhiều tác giả đề cập đến như:
“Kỷ yếu tổng kết công tác xây dựng Đảng thời kỳ 1975-1995” của tiểu
ban tổng kết xây dựng Đảng (nhiệm kỳ đại hội VII) Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2001; “Về xây dựng Đảng” của
nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994; “Mấy
vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới” của Vũ
Oanh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1999; “Xây dựng Đảng là then chốt”


Nguyễn Thị Phượng
K31

4

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

của Lê Đức Bình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003; “Xây dựng Đảng
về tổ chức” của Ngô Đức Tính, Phạm Mạnh Thuật, Vũ Đình Khôi, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, 2003; “Công tác xây dựng Đảng thời kỳ đẩy mạnh
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước” của Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc
Anh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005; “Về nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng”- Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (VI, VII,
VIII, IX) của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005; “Xây dựng chỉnh đốn
Đảng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Phú Trọng, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, 2005; “Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay”
của Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Hòa, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, 2005; và một số bài báo, bài viết khác.
Tuy số lượng các công trình, tác phẩm nói về xây dựng Đảng thời gian
qua khá nhiều, mặc dù vậy các công trình hay tác phẩm trên mới chỉ đề cập
đến từng khía cạnh, từng vấn đề của công tác xây dựng Đảng như xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng hoặc tổ chức, trong những vấn đề ấy lại đề cập
hay xem xét dưới những góc độ khác nhau như xây dựng đường lối, xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, công tác tư tưởng, công tác lý luận, về bản chất

của Đảng, về phương thức lãnh đạo của Đảng; về các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt của Đảng. Nhìn chung các vấn đề được đề cập và nghiên cứu khá
toàn diện, sâu sắc về công tác xây dựng Đảng.
Tuy vậy, như đã nói ở trên các tác phẩm đó mới chỉ dừng lại ở các vấn
đề riêng lẻ, hay những thời kỳ nhất định. Chưa có một tác phẩm hay công
trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách hệ thống toàn bộ các vấn đề về xây
dựng Đảng trong suốt thời kỳ 1996-2006, chưa tạo được một cái nhìn tổng
quát, về các quan điểm, chủ trương của Đảng, cũng như những thành tựu mà
công tác xây dựng Đảng đã đạt được trong suốt thời gian qua.

Nguyễn Thị Phượng
K31

5

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Do vậy tác giả khóa luận chọn đề tài “ Xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam từ năm 1996-2006 ” với mong muốn góp một chút vào công tác tổng
kết những thành tựu công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua khóa luận làm sáng tỏ một cách có hệ thống các quan điểm
về xây dựng Đảng, những thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng
Đảng, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng thời

kỳ 1996-2006. Từ đó có một tiếng nói nhỏ, góp phần bổ sung cho công tác
xây dựng Đảng trong thời gian tới hiệu quả hơn, làm cho Đảng ngày càng
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và phương thức lãnh đạo, đáp
ứng yêu cầu và đòi hỏi của tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu văn kiện Đảng và các sự kiện lịch sử của Đảng,
khóa luận tiến hành phân tích, tìm hiểu, hệ thống, tổng hợp lại để tìm ra các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng Đảng, từ đó rút ra
được những thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ
1996-2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thành khóa luận, em đã sử dụng rất nhiều phương pháp:
- Về phương pháp luận: Dựa trên quan điểm Triết học của chủ nghĩa
Mác -Lênin, xem xét các sự vật, hiện tượng trong mối tương quan tác động
qua lại một cách toàn diện trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
- Về phương pháp lịch sử - lôgíc: Dựa trên các sự kiện lịch sử của
Đảng, xem xét các sự kiện trong mối quan hệ qua lại có trước, có sau, trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Nguyễn Thị Phượng
K31

6

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp


Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng các phương pháp cụ thể trong nghiên
cứu lịch sử cùng các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, trừu tượng
hóa, thống kê, so sánh…
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình hình thành và phát triển đường lối của Đảng trong công tác
xây dựng Đảng từ năm 1996-2006.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận đề cập đến công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ 1996-2006.
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận đã có một các nhìn khái quát, tái hiện một cách có hệ thống
các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng Đảng; đánh giá
được những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong
thực hiện công tác xây dựng Đảng; từ đó nêu lên được những kinh nghiệm
trong công tác xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về xây dựng Đảng thời kỳ đổi mới
Chương 2: Quá trình đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng (1996-2006)
Chương 3: Kết quả, kinh nghiệm xây dựng Đảng (1996-2006)

Nguyễn Thị Phượng
K31

7

Lịch sử Đảng



Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ XÂY DỰNG ĐẢNGTHỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
1.1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản
1.1.1.1. Quan điểm C.Mác và Ăngghen về xây dựng Đảng Cộng sản
C. Mác và Ăngghen đã đề ra những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và
hoạt động của Đảng vô sản. “ Đồng minh những người cộng sản ” (18471852) cũng như Hội liên hiệp công nhân quốc tế thành lập và hoạt động dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của C. Mác và Ăngghen là sự thể hiện những nguyên tắc
đó trên thực tiễn. Hai ông đã viết “ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ”, một
văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản. Tác phẩm
thiên tài đó đã trình bày một cách hoàn chỉnh, rõ ràng lý luận của chủ nghĩa
xã hội khoa học, chỉ rõ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản, nêu
lên những luận điểm cơ bản về Đảng của giai cấp công nhân, mục đích nhiệm
vụ của Đảng, những cơ sở lý luận chung của chiến lược và sách lược của cuộc
đấu tranh cách mạng.
“ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã chỉ rõ khác với các Đảng công
nhân khác trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc
khác nhau, những người Cộng sản luôn luôn đặt lên hàng đầu và bảo vệ
những lợi ích dân tộc của giai cấp công nhân, của nhân dân các nước khác.
Chính những người Cộng sản là những chiến sỹ đấu tranh triệt để và kiên
quyết nhất cho lợi ích dân tộc của tất cả các đội ngũ trong phong trào cách
mạng thế giới, của nhân dân tất cả các nước.
Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu lên luận điểm

cho rằng cuộc đấu tranh để giành mục đích cuối cùng của phong trào công

Nguyễn Thị Phượng
K31

8

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

nhân – xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản – cần phải được kết hợp với cuộc đấu
tranh nhằm thực hiện những nhiệm vụ trước mắt. Coi thường những lợi ích
trước mắt, cấp bách của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động,
nhất định sẽ dẫn đến chỗ tách rời Đảng với quần chúng, biến Đảng thành một
nhóm biệt phái. Ngược lại, nếu chỉ hạn chế hoạt động của Đảng bằng cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện những nhiệm vụ trước mắt thì sẽ đưa đến làm tiêu
tan tiền đồ cách mạng. “ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã nêu lên một
trong những luận điểm cơ bản luôn chỉ đạo các Đảng cách mạng của giai cấp
vô sản là “ Những người cộng sản chiến đấu cho những lợi ích và những mục
đích trước mắt của giai cấp công nhân; nhưng đồng thời, trong cuộc vận
động hiện tại họ cũng bảo vệ và đại diện cho tương lai của cuộc vận
động”[12, tr.493].
Xuất phát từ chỗ cho rằng Đảng Cộng sản là đội tiên phong có tổ chức
của giai cấp công nhân, toàn bộ đời sống và hoạt động của Đảng được xây
dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa cộng sản khoa học, Mác - Ăngghen đã
chứng minh luận điểm cho rằng Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải

có tổ chức chặt chẽ về tư tưởng và tổ chức của Đảng.
Trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” (1845-1846), tác phẩm chung của
Mác - Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, trong thế giới đang tồn tại, khái niệm “
người Cộng sản ” có nghĩa là “ người trung thành của một đảng cách mạng
nhất định”[12, tr.41]. Ăngghen nhấn mạnh “ không có một Đảng chính trị
nào có thể tồn tại được nếu không có tổ chức”[12, tr.416]. Chỉ có thể kết hợp
chặt chẽ sự thống nhất về tư tưởng với sự thống nhất về tổ chức, dựa trên nền
tảng vững chắc của chủ nghĩa xã hội khoa học, mới làm cho Đảng trở thành
một lực lượng chính trị có khả năng thu hút được quần chúng nhân dân theo
mình và bảo đảm giải quyết được những nhiệm vụ lịch sử toàn thế giới đặt ra
cho Đảng.

Nguyễn Thị Phượng
K31

9

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Các văn kiện của “ Đồng minh những người cộng sản” của Quốc tế thứ
nhất (1864-1872) và hoạt động thực tiễn nói lên rằng, cơ sở để xây dựng tổ
chức là nguyên tắc tập trung dân chủ, mặc dù trong lúc đó chưa có thuật ngữ
này. Sinh hoạt nội bộ của các tổ chức được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Tất
cả các thành viên của “ Đồng minh” đều tham gia bầu cử và bầu cơ quan lãnh
đạo, tham gia việc dự thảo và thông qua Cương lĩnh, Điều lệ. Chế độ tập

trung được thực hiện chặt chẽ, các cơ quan cấp dưới phải phục tùng các cơ
quan cấp trên, thiểu số phải phục tùng đa số. Việc phát huy dân chủ được thực
hiện gắn liền với việc tôn trọng kỷ luật của Đảng, là kỷ luật bắt buộc với mọ i
đảng viên, không trừ một đảng viên nào và gắn liền với việc thực hiện các yêu
cầu của Cương lĩnh và Điều lệ Đảng.
Kinh nghiệm của “ Đồng minh những người cộng sản”, đặc biệt là của
Quốc tế thứ nhất đã chỉ rõ rằng tuân thủ đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ
là điều kiện có ý nghĩa quyết định để đảm bảo sức chiến đấu của một Đảng vô
sản, làm cho Đảng thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình.
Mác và Ăngghen đã không ngừng đấu tranh để củng cố sự thống nhất
về tư tưởng và tổ chức đội ngũ của các tổ chức vô sản, kiên quyết chống lại
các phần tử cơ hội chủ nghĩa và xét lại, chống lại tất cả những người vi phạm
kỷ luật của Đảng.
Những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã đặt vấn đề thành
phần xã hội của một Đảng cách mạng một cách hết sức nghiêm túc. Mác và
Ăngghen viết:
“ Nếu các đại biểu của các giai cấp khác tham gia vào phong trào vô
sản thì trước hết phải đòi hỏi họ không được mang theo các quan điểm của
giai cấp tư sản, tiểu tư sản, các thành kiến tư tưởng, mà phải tiếp thu vô điều
kiện thế giới của giai cấp vô sản” [12, tr.322].

Nguyễn Thị Phượng
K31

10

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)


Khóa luận tốt nghiệp

Những kẻ mang theo các quan điểm tư sản và tiểu tư sản là những phần
tử xa lạ trong Đảng công nhân, nếu những kẻ đó chiếm được vị trí lãnh đạo
trong Đảng là điều hết sức nguy hiểm. Lịch sử Đảng xã hội - Dân chủ Đức và
các đảng trong Quốc tế thứ hai, những đảng mà người lãnh đạo là phần tử cơ
hội chủ nghĩa đã hoàn toàn xác nhận tính đúng đắn của những lời cảnh cáo
đó. Ngày nay, sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, những lời chỉ giáo đó
vẫn giữ nguyên giá trị.
Mác và Ăngghen đã khẳng định củng cố hàng ngũ Đảng, loại khỏi
Đảng các phần tử thù địch và cơ hội chủ nghĩa là điều kiện cần thiết để phát
triển Đảng, củng cố sức chiến đấu của Đảng. Ăngghen viết: “ Phong trào vô
sản nhất thiết phải trải qua các bước phát triển khác nhau, mỗi bước phát
triển đó đều có một số người dừng lại, họ không đi xa hơn được nữa”[12,
tr.322]. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng vô sản là phải loại trừ
những con người đó và bổ sung vào đội ngũ của mình trước hết những người
công nhân tiên tiến.
Mác và Ăngghen đã đấu tranh kiên quyết chống các quan điểm chống
chống chủ nghĩa xã hội của bọn Bacunin và những phần tử cơ hội chủ nghĩa
khác chui vào Quốc tế thứ nhất và đã thực hiện việc khai trừ chúng ra khỏi
Đảng. Mác viết: “ Công khai đứng ngoài quốc tế, những con người đó không
nguy hiểm, nhưng là những phần tử thù địch nằm trong quốc tế thì chúng sẽ
phá vỡ phong trào ở tất cả những nước mà chúng tìm được đất hoạt
động”[12, tr.496].
Những luận điểm về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng vô sản
do Mác và Ăngghen đề ra, hoạt động của Quốc tế thứ nhất đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến toàn bộ sự phát triển sau này của phong trào công nhân quốc tế,
đã chuẩn bị cơ sở để thành lập các đảng vô sản ở các nước.


Nguyễn Thị Phượng
K31

11

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Khi lý luận những tư tưởng về Đảng và Xây dựng Đảng, Mác và
Ăngghen cho rằng những tư tưởng đó không hình thành một lần và vĩnh cửu
mà nó phụ thuộc vào điều kiện và thời gian hoạt động của Đảng, phụ thuộc
vào những nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết. “ Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” theo Ăngghen đó là Cương lĩnh chung của hàng triệu công nhân trên tất
cả các nước từ Xêbêri đến Caliphoócnia, nhưng khi vận dụng sao cho phù hợp
ở từng nước, từng giai đoạn, không nên quá câu nệ vào một số biện pháp đã
nêu vì tiến hành cuộc vận động những biện pháp ấy để vượt qua bản thân
chúng... Do đó, phát triển, bổ sung là nhiệm vụ của Đảng cách mạng.
1.1.1.2. V.I.Lênin phát triển tư tưởng của C.Mác và Ăngghen về xây
dựng Đảng Cộng sản
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ đánh dấu một bước ngoặt
trong phong trào công nhân quốc tế. Lúc này Chủ nghĩa tư bản đã bước vào
giai đoạn phát triển đế quốc chủ nghĩa, giai đoạn phát triển cao nhất và cuối
cùng của nó. Phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen, Lênin đã đề
ra các cơ sở tư tưởng, chính trị, tổ chức của một Đảng kiểu mới, các tiêu
chuẩn về sinh hoạt Đảng, các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.
Những cơ sở tư tưởng của Đảng: Khi nói về bản chất của một Đảng

kiểu mới, Lênin chỉ ra rằng:
“ Chúng ta phải tự gọi mình là Đảng Cộng sản như Mác và Ăngghen đã
tự gọi mình như vậy…
Chúng ta cần phải nhắc lại chúng ta là những người Mác xít và cơ sở
của chúng ta là “Tuyên ngôn của những người cộng sản”.
Học thuyết cách mạng Mác - Lênin là cơ sở tư tưởng để xây dựng Đảng
và liên kết với tất cả mọi đảng viên của Đảng, là cơ sở để vạch ra cương lĩnh
hành động, chiến lược, sách lược của Đảng. Trong mọi hoạt động của mình,
Đảng cách mạng của giai cấp công nhân tuân theo những kết luận cơ bản sau
đây của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Nguyễn Thị Phượng
K31

12

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, nó đã trở
thành vật kìm hãm sự tiến bộ của xã hội vì vậy nhất định bị diệt vong, xu
hướng hợp với quy luật của sự phát triển xã hội là sự quá độ của loài người từ
Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội; mục tiêu đấu tranh cuối cùng của giai
cấp công nhân là xây dựng Xã hội Cộng sản.
Sự quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội không phụ thuộc
vào hình thức và tốc độ của nó thế nào, chỉ có thể thực hiện được bằng con
đường cách mạng khi điều kiện phải thiết lập nền chuyên chính vô sản dưới

các hình thức khác nhau và thực hiện vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
cho tới khi xây dựng xong Chủ nghĩa Cộng sản.
Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền, nhiệm vụ chủ yếu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa mang tính sáng tạo là: thực hiện sự cải biến
cơ bản về xã hội - kinh tế, quốc hữu hóa các tư liệu sản xuất và tổ chức sản
xuất theo kế hoạch nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân lao động, thủ tiêu các giai cấp bóc lột, phát triển toàn diện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo mọi điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong việc thủ tiêu chế độ
tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội mới. Nhiệm vụ của Đảng là đoàn kết họ
chung quanh giai cấp vô sản và dẫn dắt họ đi lên Chủ nghĩa xã hội, biểu hiện
cụ thể là xây dựng và ra sức củng cố khối liên minh giữa giai cấp công nhân
với nông dân và các tầng lớp không vô sản khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, lực lượng xã hội quyết định trong cuộc đấu tranh lật đổ các giai
cấp thống trị và xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Chỉ có thể chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, xây dựng thành công Chủ nghĩa
xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản nếu có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Đảng
công nhân được vũ trang bằng lý luận Mác - Lênin và biết vận dụng một cách
sáng tạo lý luận đó vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, liên minh chặt chẽ với
quần chúng nhân dân và đại biểu cho quyền lợi cơ bản của họ.
Nguyễn Thị Phượng
K31

13

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)


Khóa luận tốt nghiệp

Cơ sở tổ chức của Đảng: Nếu chỉ có sự thống nhất về tư tưởng thì chưa
đủ để Đảng có thể thực hiện thắng lợi vai trò của mình là đội ngũ tiên phong
của giai cấp công nhân, lãnh tụ người động viên và tổ chức tất cả quần chúng
lao động trong hoạt động sáng tạo cách mạng của họ. Sự thống nhất về tư
tưởng của Đảng cần được bổ sung bằng sự thống nhất về tổ chức trong hàng
ngũ Đảng. Tuân theo những tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin đã đề ra
những cơ sở tổ chức Đảng cộng sản.
Tác phẩm “ Một bước tiến, hai bước lùi ” (1904) có ý nghĩa cực kỳ to
lớn để hiểu rõ những cơ sở tổ chức của đảng cách mạng của giai cấp công
nhân. Những cơ sở đó là:
Thứ nhất: Đảng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của
giai cấp công nhân.
Đảng là bộ phận của giai cấp công nhân là đội tiên phong, giác ngộ của
giai cấp công nhân. Từ đó thấy rằng, không phải tất cả những người tình
nguyện, mà chỉ có những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của các
tầng lớp nhân dân lao động, những người trên thực tế có khả năng đứng trong
đội tiền phong của quần chúng, dẫn dắt quần chúng theo mình mới có thể
được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng.
Đảng không chỉ là đội tiên phong, giác ngộ của giai cấp công nhân mà
là đội ngũ có tổ chức của giai cấp công nhân.
Lênin viết: “ Giai cấp công nhân vẫn trở thành và tất nhiên sẽ trở thành
một lực lượng vô địch chỉ vì một lý do này: sự thống nhất về tư tưởng của giai
cấp vô sản dựa trên cơ sở những nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng
sự thống nhất vật chất của tổ chức, tập hợp hàng triệu người lao động thành
một đạo quân của giai cấp công nhân. Đương đầu với đạo quân ấy thì tất cả
các chính quyền già cỗi của chế độ Nga hoàng lẫn cái uy lực đang già cỗi của
tư bản đế quốc cũng đều không thể nào chống lại nổi ”[43, tr.354]


Nguyễn Thị Phượng
K31

14

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Chỉ có tính tổ chức cao mới có thể biến Đảng thành một tổ chức vững
mạnh và có sức chiến đấu, mới có thể đem lại cho Đảng sức mạnh gấp nhiều
lần số lượng của Đảng. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, tổ chức nhân sức
mạnh lên gấp hàng chục lần. Khi nói về thực chất công thức của mình trong
chương I của Điều lệ Đảng, trong cuốn sách “ Một bước tiến, hai bước lùi”,
Lênin viết: “ Tôi muốn trình bày một cách tuyệt đối rõ ràng và chính xác
rằng tôi muốn và tôi đòi hỏi Đảng, đội tiên phong của giai cấp, phải hết sức
có tổ chức”[43, tr.286].
Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền giai cấp vô sản không có một
thứ vũ khí nào khác là tổ chức. Khi phê phán chủ nghĩa cơ hội trong những
vấn đề tổ chức, Lênin đã chỉ ra rằng trong một Đảng không cho phép pha trộn
những phần tử có tổ chức với những phần tử vô tổ chức, pha trộn những
người phục tùng sự lãnh đạo với những kẻ không phục tùng, những phần tử
tiên tiến với những những phần tử lạc hậu. Lênin cho rằng sư pha trộn như
vậy, một sự pha trộn mà bọn Mensêvích đã đẩy Đảng vào, là nguy hiểm và rất
tai hại đối với Đảng. Chỉ có tính tổ chức cao, Đảng mới có thể bảo đảm sự
thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động của mọi đảng viên.
Đảng Cộng sản là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiền phong của giai

cấp công nhân với hàng triệu công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Trong khi giải quyết mọi nhiệm vụ, Đảng luôn luôn dựa vào quần
chúng, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Sức mạnh của Đảng là
mối liên hệ với nhân dân. Mặt khác, chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản thì năng lực sáng tạo to lớn của nhân dân mới thực sự được bộc lộ và tác
động đúng hướng vào tiến trình phát triển của xã hội.
Nguyên tắc chỉ đạo trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng
là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc đó kết hợp một cách hữu cơ giữa
tập trung và dân chủ, là thuộc tính vốn có của Đảng cách mạng của giai cấp

Nguyễn Thị Phượng
K31

15

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

công nhân. Không thể tưởng tượng được một Đảng cách mạng chân chính,
một Đảng mác xít lại không có tập trung, Lênin đã chỉ rõ rằng trong Đảng chỉ
có một kỷ luật bắt buộc như nhau đối với tất cả mọi người, từ đảng viên
thường cho đến các cán bộ lãnh đạo. Cũng không thể có một đảng mác xít mà
lại không có dân chủ trong Đảng. Nếu không có tập trung, Đảng sẽ biến thành
một câu lạc bộ cãi vã, không có khả năng thống nhất hành động một cách tích
cực; cũng vậy nếu không có dân chủ, Đảng sẽ có nguy cơ thoái hóa thành một
tổ chức quan liêu, kỷ luật trong Đảng sẽ được phục tùng mù quáng, do đó

không thể bền vững được. Chỉ có thể kết hợp đúng đắn giữa tập trung và dân
chủ mới đảm bảo được khả năng chiến đấu của Đảng, Đảng mới thực hành
được vai trò của mình là lãnh tụ chính trị của quần chúng.
Khi Đảng Cộng sản Liên Xô vừa mới ra đời, những đại biểu của phái
Bun đã đòi hỏi Đảng phải xây dựng trên cơ sở liên bang, Đảng phải là sự liên
hiệp các tổ chức dân tộc độc lập với Trung ương chung của Đảng. Lênin và
những người ủng hộ Lênin đã chứng minh rằng việc xây dựng Đảng như vậy
chỉ có thể dẫn đến chỗ phân hóa Đảng thành các đội ngũ dân tộc biệt lập, và
như vậy là trái ngược với nguyên tắc quốc tế vô sản, một nguyên tắc thể hiện
bản chất của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Lênin nói: “ chính vì
thế mà về nguyên tắc chúng tôi bác bỏ chế độ liên bang, bác bỏ ngay từ
ngưỡng cửa”[43, tr.325].
Thứ hai: Lênin còn đề cập đến những tiêu chuẩn sinh hoạt và nguyên
tắc lãnh đạo của Đảng.
Những tiêu chuẩn sinh hoạt đó là quy tắc điều hòa sinh hoạt nội bộ
Đảng xác định các hình thức tổ chức của Đảng, các phương pháp công tác và
tư cách của đảng viên. Nhờ những tiêu chuẩn của Lênin, mà Đảng điều chỉnh
các mặt quan trọng nhất trong đời sống và hoạt động của mình.

Nguyễn Thị Phượng
K31

16

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp


Những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng: lãnh đạo tập thể; có quan điểm
giai cấp đối với các hiện tượng xã hội; có căn cứ khoa học đối với các quyết
định thông qua, đấu tranh không điều hòa với chủ nghĩa chủ quan và chủ
nghĩa duy ý chí; sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn; giữa công tác chính
trị với công tác tổ chức; kết hợp tính kế thừa những kinh nghiệm của quá khứ
với việc đề ra và giải quyết một cách sáng tạo những vấn đề do cuộc sống và
thực tiễn của sự phát triển của xã hội đặt ra; lựa chọn, bố trí và đào tạo cán bộ.
Phương pháp lãnh đạo chủ yếu của Đảng là thuyết phục, là sự tác động
về tư tưởng, là công tác chính trị và công tác tổ chức quần chúng. Đảng kiên
quyết bác bỏ các đòi hỏi của các phần tử Tơrốtkít âm mưu đòi Đảng áp dụng
phương pháp mệnh lệnh hành chính đối với các Xô viết, các công đoàn và các
tổ chức quần chúng khác của nhân dân lao động. Đồng thời, Đảng kiên quyết
bác bỏ đòi hỏi của nhóm “ công nhân đối lập”, chủ trương Đảng “ không
được can thiệp” vào hoạt động của các tổ chức đó.
Trong quá trình hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam những nguyên
lý về xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác- Lênin luôn được Đảng ta vận dụng
đúng và sáng tạo tùy thuộc vào hoàn cảnh. Điều này đã góp phần tạo nên sức
mạnh cho Đảng trong quá trình lãnh đạo tiến trình cách mạng dân tộc.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản
Trong toàn bộ di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phần nói về
Đảng và xây dựng Đảng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng và có nội dung
rất phong phú, đặc sắc, toàn diện và hoàn chỉnh. Có thể nói, tất cả những điều
Hồ Chí Minh nói và viết về Đảng và xây dựng Đảng cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Từ việc phân tích sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo “ để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp khắp mọi nơi”, đến việc khẳng định Đảng Cộng sản
Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân

Nguyễn Thị Phượng

K31

17

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

và phong trào yêu nước Việt Nam; từ những nguyên tắc chung về xây dựng
Đảng đến yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể ở mỗi giai đoạn cách mạng, những đòi
hỏi cụ thể ở mỗi giai đoạn cách mạng, những đòi hỏi cụ thể đối với người cán
bộ, đảng viên như rèn luyện tư tưởng, chính trị, đạo đức cách mạng, nâng cao
giác ngộ và trình độ hiểu biết các mặt, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, đào tạo và sử dụng cán bộ, xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân
dân… Tất cả đến nay vẫn đúng. Tất cả đều toát lên một tinh thần nhất quán,
một sự mong mỏi tha thiết của Hồ Chí Minh: phải hết sức coi trọng và thường
xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng: “ phải xây dựng Đảng ta thật trong
sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng tuy giản dị nhưng hết sức
sâu sắc, bình dị mà vĩ đại, có tác dụng soi sáng lâu dài cho chúng ta trong việc
chăm lo xây dựng, củng cố và đổi mới chúng ta.
Trong tác phẩm: “ Thường thức chính trị” Hồ Chí Minh viết “ xây
dựng Đảng có ba mặt: Tư tưởng, chính trị và tổ chức.
1.1.2.1. Xây dựng Đảng về chính trị
Về chính trị, cán bộ, đảng viên phải nhận thức được rằng: “ Đảng
không phải là một tổ chức làm quan phát tài ”. “ Vào Đảng để làm đầy tớ cho
nhân dân”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không

phải làm “quan” nhân dân ”[28, tr.222]. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng
viên phải khắc cốt ghi tâm rằng:
“ Đảng ta là Đảng lãnh đạo cách mạng, ngoài lợi ích của nhân dân,
Đảng ta không có lợi ích nào khác. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải một lòng
một dạ phục vụ nhân dân, phải là đầy tớ hết sức trung thành của nhân dân
”[28, tr.337].
Theo Hồ Chí Minh, Xây dựng Đảng về chính trị nhằm vào giải quyết
các vấn đề lớn sau đây:

Nguyễn Thị Phượng
K31

18

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng ở trong mọi tình
huống. Lúc thuận lợi cũng như khó khăn Đảng không bao giờ hy sinh lợi ích
của giai cấp công - nông.
Đối với nhân dân, Đảng phải yêu kính quần chúng, gần gũi quần
chúng, tin tưởng lực lượng vĩ đại và đầu óc thông minh của quần chúng, học
hỏi quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng để đoàn kết và lãnh đạo quần
chúng: “ Ta có kính dân, yêu dân; dân mới yêu ta, kính ta ”.
Đối với kẻ địch, kẻ địch ở bên trong như những tư tưởng sai lầm, những
xu hướng sai lệch: chủ quan, bệnh hẹp hòi, thiếu tổ chức kỷ luật, bệnh tự cao,

tự mãn, bảo thủ trì trệ, bệnh xa rời quần chúng… mỗi chứng bệnh là một kẻ
địch. Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ thù bên ngoài. Địch bên
ngoài không đáng sợ, địch bên trong đáng sợ hơn vì nó phá hoại từ bên trong
phá ra. Kẻ địch bên ngoài là đế quốc, phong kiến cùng tất cả những kẻ phản
cách mạng, thì phải kiên quyết dũng cảm chống lại, nhất định không được
nhượng bộ, không tha thứ.
Đối với công việc: Đảng phải thấy trước, lo trước, tính trước. Phải cân
nhắc kỹ những điều kiện thuận lợi và khó khăn, để kiên quyết vượt qua mọi
khó khăn, phát triển mọi thuận lợi. Bất kỳ công việc to hay nhỏ, đều phải rất
cẩn thận, không hấp tấp, không rụt rè, thắng không kiêu, bại không nản. Tuyệt
đối tránh chủ quan nông nổi. Đảng phải biết rút kinh nghiệm, biết học hỏi để
tiến bộ.
Về xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách và đề ra khẩu hiệu:
trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta căn cứ vào tình hình trong nước và
trên thế giới, đề ra khẩu hiệu, mục đích, kế hoạch đấu tranh. Đảng quy định ở
giai đoạn nào thì phải dựa vào lực lượng nào, đoàn kết lực lượng nào, cô lập
và phân hóa lực lượng nào để tiêu diệt kẻ thù của giai cấp, của nhân dân.

Nguyễn Thị Phượng
K31

19

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp


Khẩu hiệu chính trị đúng thì toàn dân thấy rõ phương hướng, nhận rõ ai
là bạn, ai là thù, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng, để đánh thắng kẻ thù
của cách mạng.
Có khẩu hiệu chung chưa đủ, Đảng còn phải căn cứ theo lợi ích của nhân
dân trong giai đoạn đó, đề ra những khẩu hiệu mới để động viên quần chúng, để
làm mục đích và vạch đường lối cho quần chúng đấu tranh; đồng thời huấn
luyện, giáo dục quần chúng, thực hiện những khẩu hiệu mới để động viên quần
chúng, để làm mục đích và vạch đường lối cho quần chúng đấu tranh; đồng thời
huấn luyện, giáo dục quần chúng, thực hiện những khẩu hiệu này, tức là đẩy cách
mạng tiến tới và giúp cho khẩu hiệu chung thực hiện.
Lật đổ chế độ xã hội cũ, xây dựng nên chế độ xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa là một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Mỗi cán bộ, đảng
viên phải phấn đấu theo tiêu chí: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng. Đó là tiêu chí chủ chốt. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của
Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn
dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của
mình và cùng đồng chí mình tiến bộ. Đối với Đảng không được sai lầm về
đường lối.
1.1.2.2. Xây dựng Đảng về tư tưởng
Tầm quan trọng của xây dựng Đảng về tư tưởng: theo Hồ Chí Minh “
cần nhất trí về tư tưởng, về hành động, về tình cảm” thì mới nâng cao tinh
thần trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân, mới tăng cường đoàn kết
nhất trí. “ Đoàn kết nhất trí là sức mạnh, là then chốt của thành công ”. Ở Hồ
Chí Minh, xây dựng Đảng về tư tưởng là nhằm nâng cao trình độ tư tưởng về

Nguyễn Thị Phượng
K31


20

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

chính trị của cán bộ, đảng viên, tẩy bỏ tư tưởng phi vô sản, thống nhất về tư
tưởng, thống nhất hành động, đoàn kết toàn Đảng để Đảng làm tròn nhiệm vụ
nặng nề và vẻ vang của mình. Xây dựng Đảng về tư tưởng không phải là phát
động những cuộc chiến về tư tưởng để quy kết lẫn nhau, làm cho Đảng ta bị
chia rẽ, bị suy yếu.
Nội dung Xây dựng Đảng về tư tưởng: Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học tập lý
luận Mác - Lênin, kinh nghiệm cách mạng các nước, học Nghị quyết của
Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí
Minh viết: “ Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mệnh
vận động… Chỉ có theo lý luận cách mạng tiền phong, Đảng cách mệnh mới
làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong ”[28, tr.259].
Người cũng chỉ rõ: “ Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có lý luận cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bản chỉ nam ”[28, tr. 268]. Ngày
nay, “ lý luận chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê nin ”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là “ trí khôn ” của Đảng, là kim chỉ nam chỉ ra
phương hướng và phương pháp cách mạng. Vì vậy, cán bộ, đảng viên và quần
chúng cách mạng cần học lý luận Mác - Lênin.
Cách học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là:
“ Học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với

bản thân mình. Là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin
để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để làm,
lý luận đi đôi với thực tiễn ”[28, tr. 292].
Cán bộ, đảng viên phải học nghị quyết, quán triệt nghị quyết, tổ chức
thực hiện nghị quyết của Đảng. Phương pháp học nghị quyết theo Hồ Chí
Minh: thảo luận các văn kiện Đại hội Đảng là một dịp học tập tốt. Mỗi cán bộ,
đảng viên cần căn cứ vào những văn kiện đó, liên hệ với công tác thực tế của

Nguyễn Thị Phượng
K31

21

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

mình để nâng cao tư tưởng, ý thức tổ chức và kỷ luật đồng thời đẩy mạnh
công tác tiến bộ hơn nữa.
Nâng cao đạo đức, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh viết: “
Muốn làm cách mạng phải cải cách tính nết của mình trước tiên. Quần chúng
chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức, muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[28, tr. 525]. Đạo đức cách
mạng theo Hồ Chí Minh nêu 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Hồ Chí
Minh cho rằng 5 điều trên chính là đạo đức cách mạng.
Giáo dục đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là
một nội dung cốt lõi công tác tư tưởng của Đảng.

1.1.2.3. Xây dựng Đảng về tổ chức
Tổ chức là sức mạnh của Đảng. Đảng Cộng sản sinh ra để tổ chức giai
cấp công nhân và nhân dân lao động làm cách mạng vô sản, lật đổ chế độ cũ,
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Muốn tổ chức và lãnh đạo được cách
mạng thì bản thân Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ và khoa học.
Xây dựng Đảng về chính trị, Hồ Chí Minh đề cập đến 8 vấn đề lớn:
Giữ vững nguyên tắc xây dựng Đảng: Hồ Chí Minh thường dùng khái
niệm “ nguyên tắc ”, “ chế độ ”, “ luật ”… Người không nói có bao nhiêu
nguyên tắc, tập hợp các tác phẩm của Hồ Chí Minh nổi bật 3 nguyên tắc xây
dựng Đảng:
Nguyên tắc tập trung dân chủ: theo Hồ Chí Minh dân chủ không đối
lập với tập trung. Mặt đối lập với “ dân chủ ” là quan liêu, độc tài. Mặt đối lập
với “ tập trung ” là phân tán, cục bộ. Nguyên tắc tập trung dân chủ vừa bảo
đảm quyền chủ động của mọi thành viên trong tổ chức, vừa đảm bảo thống
nhất ý chí và hành động vì sự nghiệp chung. Hồ Chí Minh khẳng định nguyên
tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất để xây dựng
Đảng và xây dựng Nhà nước.

Nguyễn Thị Phượng
K31

22

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp


Nguyên tắc giữ gìn sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng: Giữ gìn sự
đoàn kết thống nhất trong Đảng được Hồ Chí Minh đề cập có tính xuyên suốt
trong công tác xây dựng Đảng và cuộc đời lãnh đạo cách mạng của Người.
Nguyên tắc phê bình và tự phê bình: Tự phê bình và phê bình được Hồ
Chí Minh nhấn mạnh gần như toàn bộ trong các tác phẩm, bài viết, bài nói về
Đảng và xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh coi tự phê bình là quy luật tồn tại và
phát triển của Đảng.
Về xây dựng tổ chức cơ cở Đảng: Hồ Chí Minh cho rằng: “ Chi bộ là
nền móng của Đảng. Chi bộ tốt thì mọi việc đều tốt”. Vì vậy, “ Đối với Đảng
ta, xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững là một việc vô cùng quan trọng”.
Về vấn đề cán bộ: Vấn đề cán bộ được Hồ Chí Minh tập trung giải
quyết sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm
việc”, Người giành hẳn phần IV để đi sâu phân tích vấn đề cán bộ:
Người định nghĩa cán bộ và tầm quan trọng của công tác cán bộ: “ Cán
bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng ”.
Vì vậy, “ cán bộ là gốc của mọi công việc”. “ Huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng ”. “ Cán bộ môn nào phải học cho thạo công việc ở
trong môn ấy ”.
Dạy cán bộ và dùng cán bộ: Hồ Chí Minh khẳng định: “ Công việc
thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải dạy cho
cán bộ như người làm vườn vun trồng cây cối quý báu, phải trọng nhân tài,
trọng mỗi người có ích cho công việc của chúng ta ”.
Lựa chọn cán bộ, phải đảm bảo các tiêu chuẩn: “ Những người tỏ ra
trung thành và hăng hái trong công việc, những người liên lạc mật thiết với
dân chúng, những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, những người
luôn giữ đúng kỷ luật ”.
Nguyễn Thị Phượng
K31


23

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Người chỉ rõ cách đối với cán bộ là: Chỉ đạo, nâng cao, kiểm tra, cải
tạo và giúp đỡ.
Hồ Chí Minh quan tâm vấn đề cán bộ với tầm nhìn xa trông rộng của
một kiến trúc sư về xây dựng Đảng cầm quyền, với sự ân cần trìu mến thiết
tha của người thầy, người cha rất đỗi gần gũi. Người đã dồn hết sức lực, tâm
huyết của mình để xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, của Nhà nước và cả hệ
thống chính trị. Người đặt niềm tin, tình yêu thương đối với các thế hệ cán bộ.
Chính vì lẽ đó mà trong bất cứ tình huống nào, từng bước chuyển đổi giai
đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta dưới sự chỉ đạo của Người không bị
hẫng hụt đội ngũ cán bộ, cán bộ đã ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng.
Về vấn đề Đảng viên: theo Hồ Chí Minh “ Đảng viên là tế bào cấu tạo
nên Đảng”. “ Đảng viên tốt thì chi bộ tốt”. Công tác đảng viên là công tác
trọng tâm, công việc gốc của Đảng. Công tác đảng viên được Hồ Chí Minh đề
cập sâu sắc gắn liền với công tác xây dựng Đảng.
Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chí Minh còn đề cập đến nhiều khía cạnh khác
trong công tác xây dựng Đảng như: về công tác kiểm tra - kỷ luật của Đảng, về
cách thức lãnh đạo của Đảng, công tác đối ngoại của Đảng và công tác dân vận.
Trên đây là những tư tưởng rất cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng. Những tư tưởng này đã và đang được Đảng ta vận dụng một cách cụ
thể và sáng tạo trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, góp phần làm cho

Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng không ngừng được tăng cường ngang tầm với đòi hỏi
của tình hình mới.
1.2. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN Ở MỘT SỐ
NƯỚC (LIÊN XÔ)
Tháng 3-1985, M.Goócbachốp lên nắm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà
nước Liên Xô, đã đưa ra đường lối cải tổ trên tất cả các mặt nhưng đã không
đem đến thành công.
Nguyễn Thị Phượng
K31

24

Lịch sử Đảng


Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam (1996-2006)

Khóa luận tốt nghiệp

Ngày 19-8-1991, diễn ra cuộc đảo chính lật đổ Goócbachốp nhưng
nhanh chóng bị thất bại.
Ngày 25-12-1991, sau lời tuyên bố từ chức Tổng thống của
M.Goócbachốp, lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cremli bị hạ xuống, đánh dấu
sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sau 74 năm tồn tại.
Từ sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô, chúng ta có thể rút ra được những
bài học bổ ích, đáng chú ý một số vấn đề nổi lên sau đây:
Một là, cần tăng cường công tác chính trị - tư tưởng, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối
với phòng, chống “ diễn biến hòa bình ” và “ cách mạng màu ”, coi đó là

nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và mang tính cấp thiết trong bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, thường xuyên chăm lo xây dựng đảng cầm quyền và bộ máy
chính quyền trong sạch vững mạnh, đoàn kết thống nhất cao, xây dựng và
thực hiện tốt chiến lược công tác cán bộ, nhất là lựa chọn và bố trí những cán
bộ chủ chốt, bảo đảm thực sự vững vàng và tin cậy về chính trị.
Ba là, đảng cầm quyền và bộ máy chính quyền phải gắn bó mật thiết
với nhân dân, có đường lối, chủ trương, chính sách và các hoạt động thực tiễn
hợp lòng dân, có đội ngũ cán bộ đảng viên được nhân dân tin yêu và tín
nhiệm, nắm chắc quần chúng và động viên được sức mạnh của nhân dân.
Bốn là, xây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển vững chắc, giữ được
độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, giữ vững sự lãnh đạo của
đảng cầm quyền và sự quản lý điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Năm là, đảng cầm quyền phải nắm chắc lực lượng vũ trang, đặc biệt
chăm lo xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân thực sự trung thành
và tin cậy về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao,
làm nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc.

Nguyễn Thị Phượng
K31

25

Lịch sử Đảng


×