Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

de cuong mon giai phau dong vat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.05 KB, 54 trang )

CHƯƠNG 1. HỆ XƯƠNG


Hệ vận động: gồm bộ xương và hệ cơ. Cơ
thường bám vào hai xương khác nhau nên khi cơ
co làm cho xương cử động, giúp cho cơ thể di
chuyển được trong không gian, thực hiện được các
động tác vận động

I. Chức năng của hệ xương
+ Tạo thành bộ khung của cơ thể người và động vật
+ Là chỗ bám của các cơ, tạo nên hình dáng cơ thể.
+ Chống đỡ cơ thể, tạo thành các xoang bảo vệ các cơ quan nội
tạng.
+ đóng vai trò quan trọng trong chuyển hoá, đặc biệt là muối
canxi..
+ Tủy đỏ của xương còn là nơi sản sinh ra các tế bào máu: hồng
cầu và bạch cầu.
1. Đặc điểm chung của xương
1.1. Hình thái của xương
Bộ xương gia súc gồm khoảng trên 200 xương. Các xương
này thường có đôi ở vị trí đối xứng qua mặt phẳng đứng giữa cơ
thể ( xương chẵn). Một số xương lẻ (không có đôi) ở cột sống,
nền hộp sọ.
Tuỳ theo hình thái, xương được phân làm 4 loại:
(1) Xương dài (long bones):
- Hình trụ dài, có một thân và hai đầu (đầu trên và đầu
dưới). Xương dài xắp xếp ở các chi.
- Thân xương (diaphysis): ngoài có lớp xương chắc;
trong lòng tạo thành xoang chứa tuỷ xương. Đầu xương
(epiphysis) chủ yếu có cấu tạo xương xốp. Giữa đầu xương và


thân xương có đĩa sinh trưởng có cấu tạo sụn trong
- Xương dài có tác dụng làm tay đòn khi vận động và
chống đỡ khối lượng của thân thể, vì thế xương rất chắc và khoẻ.
- Xương dài cong là xương sườn (hình cung, không có tuỷ, tạo
thành lồng ngực)
(2) Xương dẹp (flat bones)
- Dẹp, bề mặt rộng làm chỗ bám cho cơ.
- Thường do 2 phiến xương chắc kết hợp lại,
- Đôi khi ở giữa hai phiến này có 1 lớp xương xốp mỏng.
- Xương dẹp sắp xếp ở hộp sọ, hoặc bả vai.
* Ở sọ, xương dẹp tạo thành xoang để bảo vệ não
(3).Xương ngắn (short bones)
- Hình khối, nhiều cạnh, bên ngoài là xương chắc, bên trong là
xương xốp.
- Sắp xếp ở vùng cổ tay cổ chân, có tác dụng chống đỡ, giảm
áp lực của khối lượng cơ thể, phân tán lực tác động lên các khớp.
(4) Xương có hình dáng phức tạp:
Gồm xương cột sống, xương hàm trên, xương nền
hộp sọ (xương sàng, xương bướm) tác dụng của nó rất đa dạng
có nhiều mấu, nhiều mặt tuỳ theo vị trí của nó.
1.2. Cấu tạo xương
Xương được cấu tạo bởi 4 phần sau: (1) màng xương, (2) tổ
chức xương (gồm xương chắc và xương xốp) (3) tuỷ xương, (4)
mạch quản thần kinh.
(1) Màng xương:
Là lớp màng mỏng màu hồng nhạt, dai, chắc bao phủ mặt ngoài
xương dài, trừ các mặt khớp. Màng xương gồm hai lớp:
+Lớp ngoài: Dày hơn, chứa nhiều sợi hồ collagen, ít sợi chun
cùng với mô liên kết thưa, các mao mạch và thần kinh.
+Lớp trong: Mỏng, gồm một lớp tế bào, ít sợi hồ, nhiều sợi


1


chun và có các tế bào tạo xương, có các sợi tạo keo chạy từ ngoài
vào lớp xương chắc.
Mạch quản thần kinh từ màng xương chạy vào trong tổ chức
xương qua các ống nhánh Wolkmann và ống Ha-ver song song
với trục của xương.
*Màng xương đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển và tái tạo xương nên khi phẫu thuật phải tránh làm tổn hại
lớp màng này bằng cách để lại màng dính liền với mô xương.
(2) Tổ chức học của xương
* Xương chắc: Chủ yếu là các tấm xương tạo thành nhiều hệ
thống Haver xếp liền nhau thành những vòng tròn đồng tâm.
Mỗi hệ thống này là những ống xương xếp xung quanh một trục
là ống Haver. Các ống dọc này được liên kết với nhau bởi các
ống Wol-kơ-man chạy ngang trong ống chứa mạch quản và
thần kinh, nhờ đó nó phân nhánh vào đến tuỷ xương
* Xương xốp: nằm ở đầu các xương dài và giữa 2 phiến của
xương dẹt gồm các tế bào xếp theo hình tia tạo thành các nan
xương. Các nan xương xếp lộn xộn tạo thành các hốc chứa tuỷ
xương và mạch máu. Xương đặc hay xương xốp chỉ là những
hình thức kiến tạo khác nhau của chất xương nhưng giống nhau
về phương diện tổ chức học.
+ Sụn mặt khớp: là lớp sụn mỏng bao bọc một phần của đầu
xương dài nơi nó tiếp xúc hoặc liên kết với xương khác. Cấu tạo
là các tế bào sụn trong, không có mạch quản và thần kinh phân
đến.
(3).Tuỷ xương: Chứa trong ống tuỷ xương dài và các hốc trong

các xương xốp. Có 2 loại tuỷ là tuỷ đỏ và tuỷ vàng.
+ Tuỷ đỏ (red marrow): có trong xương bào thai và xương súc
vật non
- Chứa nhiều mạch máu, tổ chức lưới của những mao mạch,
xoang chứa các loại tế bào hồng cầu, bạch cầu, tế bào lympho
- Là cơ quan tạo huyết quan trọng của cơ thể.
- Ở súc vật trưởng thành, tuỷ đỏ chỉ còn lại trong hốc các xương
xốp, xương ức, xương sườn.
+ Sau đó tuỷ đỏ biến dần thành tuỷ vàng: xốp, nhẹ, chứa
trong ống tuỷ của xương dài, cấu tạo chủ yếu là tế bào mỡ.
* Ở gia cầm, hầu hết các xương không có tuỷ.
(4) Mạch quản thần kinh: Là hệ thống các đôi dây thần kinh.
1.3. Thành phần hoá học của xương
Xương có đặc tính rắn chắc và đàn hồi là do sự có mặt của các
chất vô cơ và chất hữu cơ:
- Xương tươi (ở đại gia súc): chứa 50% n−ớc, 15,75%
mỡ, 12,45% chất hữu cơ (inorganic materials) và 21,8% chất vô
cơ (organic materials).
-Xương khô (mất nước và mỡ) tỉ lệ chất hữu cơ trên
chất vô cơ là 1/2. Thành phần cơ bản của chất hữu cơ là những
mucopolysacarit chứa nhiều axit. Chondroitin sunfuric và
protein. Hỗn hợp nà có tính chất ưa canxi và được coi là sản
phẩm quan trọng cần thiết cho sự vôi hoá của xương.
- Chất vô cơ chủ yếu là các loại muối:
Photphat canxi (Ca3PO4): 51,64%
Cacbonat canxi (CaCO3): 41,30%
Florua canxi (CaF2): 2,00%
Photphat magiê (Mg3(PO4)2: 1,16%
Clorua canxi (CaCl2): 1,20%
Thành phần hoá học của xương thay đổi theo lứa tuổi. ở gia súc

non, xương ít chất vô cơ, nhiều chất hữu cơ nên xương mềm
dẻo, kém độ rắn, chắc. Ngược lại, ở gia súc già, chất hữu cơ
giảm, chất vô cơ tăng, nên xương giòn dễ gãy. Chế độ dinh
dưỡng, khẩu phần ăn, trạng thái sinh lý cơ thể , dinh dưỡng v.v

2


ảnh hưởng đến cấu tạo và thành phần hoá học của xương.
2. Sự hình thành và phát triển của xương
Xương hình thành qua 3 giai đoạn: giai đoạn màng, giai đoạn
sụn, giai đoạn xương.
- Giai đoạn màng: Bắt đầu từ tuần thứ 6 - 7 của quá
trình phát triển bào thai. Một số tế bào trung mô biệt hoá tạo
thành các nguyên cốt bào tập trung dưới dạng các màng tổ chức
liên kết.
- Giai đoạn sụn: Sang tháng thứ 2 các màng được thay
thế dần bằng mô sụn, thỏi sụn
- Giai đoạn xương: Từ thỏi sụn, cốt hoá thành
xương.
*Một số xương được hình thành trực tiếp từ màng bỏ qua giai
đoạn sụn (vòm hộp sọ và các xương mặt).
2.1. Quá trình hình thành xương bỏ qua giai đoạn sụn
(1)Trên các tấm màng xuất hiện các điểm hoá xương (ở đó tập
trung các tế bào sinh xương và chất gian bào).
(2) Sau đó các tế bào sinh xương phân chia nhanh, thu hút muối
Canxi và chất hữu cơ do mạch máu mang đến và biến thanh tế
bào xương.
(3) Các tế bào xương lan rộng ra xếp thành nan xương rồi thành
tấm xương,

(4) Cuối cùng liên kết màng biến thành xương chỉ còn để lại lớp
màng mỏng bên ngoài là màng bọc xương. Từ vài 3 điểm hoá
xương như vậy sự cốt hoá lan rộng ra (trong suốt giai đoạn bào
thai) và biến các tấm màng thành các xương vòm hộp sọ và
xương mặt.
2.2. Cốt hoá sụn
Quá trình này phức tạp hơn. Từ tháng thứ hai của bào thai, lớp
màng hình thành thỏi sụn có hình dáng giống như xương trưởng
thành. Bên ngoài được bao bọc bởi màng sụn (trừ ở phần mặt
khớp). Quá trình cốt hoá sụn được xảy ra cùng một lúc ở thân và
đầu thỏi sụn.
(1) Ở thân thỏi sụn: Màng sụn gồm 2 lớp ngoài và
trong: lớp ngoài giàu mạch quản; lớp trong có các tế bào có khả
năng sinh sản mạnh.
- Trên thân thỏi sụn xuất hiện điểm cốt hoá là nơi tập trung các
hạt muối Canxi và chất hữu cơ làm cho các tế bào sụn bị thoái
hoá, tiêu huỷ.
- Các tế bào lớp trong sinh sản mạnh biến thành tế bào sinh
xương làm lớp màng sụn biến đổi thành màng xương.
- Các tế bào sinh xương thu hút muối canxi và chất hữu cơ biến
thành tế bào xương, phân chia mạnh mẽ làm cho mô xương dày
ra về chiều ngang và về phía 2 đầu của thỏi sụn.
- Ngay trong lòng thỏi sụn cũng xuất hiện các huỷ cốt bào có
khả năng dung giải mô sụn tạo thành các hang, hốc chứa đựng
chất keo bên trong thỏi sụn, phân giải các nan xương ngăn cách
các khoảng trống trên và tạo nên trong lòng thỏi sụn một ống
rỗng (ống tuỷ xương).
- Ở màng xương có nhiều mạch quản. Các tế bào xương tạo nên
các tấm xương bao quanh các mạch quản tạo thành các hệ thống
Haver. Sự tăng dần các hệ thống này tạo thành lớp xương chắc ở

thân xương.
* Cốt hoá sụn ở thân thỏi sụn gồm 2 quá trình xảy ra đồng thời:
- Là tiêu huỷ mô sụn tạo thành tuỷ xương (do các huỷ cốt bào)
- Quá trình hình thành mô xương của lớp xương chắc (do tế bào
sinh xương).
(2). Ở 2 đầu thỏi sụn: Quá trình cốt hoá giống như ở
thân xương nhưng xảy ra muộn hơn và theo chiều ngược lại (bắt
đầu từ đầu xương và lan vào thân xương). Sự cốt hoá dừng lại

3


khi đầu thỏi sụn còn lại đã biến thành xương. Lớp sụn mặt khớp
không bị cốt hoá để đảm nhiệm chức năng liên kết với xương
khác. Sự cốt hoá ở 2 đầu thỏi sụn làm cho xương dài ra.
* Các xương thứ cấp: Xương chi, xương vùng thân, một số
xương sọ.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển của xương
3.1. Yếu tố dinh dưỡng
Quá trình hình thành và phát triển của xương về bản
chất là sự nhân lên và biệt hoá của tế bào xương và chất xương.
Vì vậy dinh dưỡng phái đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho
quá trình này đó là các thành phần hoá học (vô cơ và hữu cơ cấu
tạo nên xương). Một số yếu tố cần chú ý là:
- Vitamin D: Cần thiết cho quá trình hấp thu Ca.
Vitamin D có thể do cơ thể tự tổng hợp hoặc hấp thu từ thức ăn.
Quá trình tổng hợp Vitamin D tăng lên khi lớp da của cơ thể tiếp
xúc với ánh nắng mặt trời.
- Vitamin C: Cần thiết cho sự tổng hợp sợi collagen
thay thế các sợi cũ.

Con non không được cung cấp đầy đủ Vitamin C sẽ
chậm lớn. Trẻ con và người lớn thiếu Vitamin C sẽ dễ mắc
chứng loét và xuất huyết do thiếu hụt sợi collagen trong các tổ
chức liên kết.
3.2. Hóc môn
Các hormon sinh trưởng; hormon tuyến ức; hormon
sinh dục ảnh hưởng đến qúa trình hình thành và phát triển của
xương.
4. Khớp xương
Khớp được tạo thành do hai hay nhiều xương hoặc
sụn với các tổ chức khác. Xương là bộ phận căn bản của hầu hết
các khớp. Trong một số trường hợp, khớp đựoc tạo thành giữa 1
xương và 1 sụn hoặc giữa hai sụn. Tổ chức kết nối là mô sợi, là
sụn hoặc cả hai. Khớp đựoc hỗ trợ bởi các cơ. Tuỳ theo vị trí,
chức phận của xương mà có các liên kết khác nhau.
Căn cứ vào cấu tạo cũng như về tác động mà phân ra:
4.1. Khớp bất động
Các khớp này không hoạt động trong suốt quá trình
sinh trưởng và phát triển của cơ thể. Các xương nối với nhau qua
tổ chức liên kết, không có khoang khớp.
Ví dụ: các khớp ở vùng sọ, vùng mặt
Đặc điểm cấu tạo: cấu tạo đơn giản và được phân loại như sau:
Căn cứ vào hình dạng khớp , phân ra:
- Khớp răng: Các đường khớp như hình răng cưa (VD: khớp
giữa xương đỉnh và x. trán)
- Khớp vẩy: Xương nọ chồng lên xương kia như vẩy cá hay ngói
lợp mái nhà (VD khớp x. đỉnh và x. thái dương)
- Khớp mào: Mào của xưong nọ lấp vào khe xương kia (VD x.
liên hàm với x. hàm trên).
Căn cứ theo tính chất của tổ chức nối giữa hai xương phân

ra:
- Khớp nhau nhờ tổ chức sụn: khớp giữa thân các đốt sống; khớp
xương sườn thứ nhất với xương ức.
- Khớp nhau nhờ tổ chức xơ: Khớp giữa x. quay và x. trụ. Khớp
vùng sọ
- Khớp nhau nhờ tổ chức xương: Các khớp vùng đầu
4.2. Khớp bán động
- Là loại khớp trung gian, không có bao khớp và khoang khớp.
- Đặc điểm hoạt động: Chỉ hoạt động trong những thời kỳ nhất
đinh của quá trình phát triển và hoạt động sống của cơ thể. Khớp
bán động háng và bán động ngồi chỉ hoạt động khi gia súc đẻ.
- Cấu tạo: Giữa hai đầu khớp là tổ chức sụn

4


*Ở gia súc già: tổ chức sụn cốt hoá làm cho hai đầu xương gắn
lại với nhau dẫn đến là giảm khả năng hoạt động.
4.3. Khớp toàn động.
Sự hình thành: từ khớp bất động:
- Tổ chức sụn của khớp xuất hiện một điểm khuyết, điểm khuyết
này lớn dần.
- Cốt mạc lan từ xương này sang xưong kia tạo thành xoang
quan tiết.
- Hai mặt đầu khớp còn phủ một lớp sụn.
Các loại khớp toàn động
- Khớp toàn động đơn trục: trục vận động thẳng góc với thân
xưong (gấp duỗi), hoạt động của khớp thường theo kiểu ròng
rọc.
Ví dụ ở các khớp chi: khớp khuỷu, cổ chân, đầu gối, khớp ngón.

- Khớp song trục: hai trục hướng thẳng góc lên nhau, trên dưới
& phải trái.
Thường có kiếu khớp bầu: diện khớp hình bầu dục, một bên lồi
& một bên lõm,
Ví dụ: khớp giữa đốt chẩm và đốt Atlas)
- Khớp đa trục: Đảm bảo sự vận động tự do nhất. Điển hình là
kiểu khớp cầu (cử động xoay vòng) như khớp xương bả vai với
xương cánh tay, khớp giữa xương chậu với xưong đùi.
* Khả năng hoạt động tuỳ thuộc vào cấu tạo mặt khớp:
Căn cứ phân loại theo hình thể diện khớp (kiểu phân loại không
phổ biến) :
- Khớp phẳng: như khớp cườm
- Khớp lồi cầu: như khớp vai- cánh tay
- Khớp chỏm: như khớp chậu đùi
- Khớp ròng rọc: như khớp khuỷu
- Khớp bầu: Khớp lồi cầu chẩm.
Khoang khớp chứa hoạt dịch, kín, có tác dụng ép hai đầu xương
dưói tác dụng của áp lực không khí bên ngoài làm giảm một
phần sức co của cơ.
4. 4. Dây chằng
- Dây chằng ngoại biên: bao gồm những bó sợi sinh keo đàn hồi
nằm ngay trong bao sợi hay tập trung thành từng bó riêng biệt ở
bên ngoài.
- Dây chằng gian khớp: ám nối giữa hai mặt khớp và nằm trong
bao khớp
- Dây chằng ở xa đến trợ lực: gồm các gân, cơ, cơ bám ở đầu
xương
* Dây chằng loại trắng: Trắng xà cừ, không co giãn được như
dây chằng ngoại biên và dây chằng gian khớp
* Dây chắng loại vàng: màu vàng, đàn hồi như dây chắng cổ

4.5. Cấu tạo khớp toàn động
Các thành phần cấu tạo của khớp toàn động gồm: mặt khớp,
sụn khớp, bao khớp, dây chằng, xoang khớp, dịch khớp.
(1) Mặt khớp: gồm hai hoặc nhiều đầu xương tiếp
giáp với nhau. Đầu mỗi xương được bao bọc bởi một lớp sụn
mặt khớp mỏng. Các đầu xương thường có hình thể đối chiếu
nhau: Hình chỏm đối chiếu với một xoang khớp (như khớp bả
vai-cánh tay, khớp chậu-đùi); lồi cầu đối chiếu với ròng rọc (như
khớp khuỷu)...
( 2) Sụn khớp để hai xương khớp khít vào nhau, đôi
khi giữa chúng còn có các sụn bổ trợ như:
- Sụn chêm: Chêm chặt giữa hai đầu xương, dày mỏng tuỳ
theo khớp và di chuyển theo động tác của khớp như ở khớp thái
dương hàm, khớp đầu gối.
- Sụn viền: ở hố của một đầu khớp có tác dụng “khơi sâu” mặt
khớp để đầu lồi của mặt kia cố định chắc chắn vào ổ khớp. Sụn

5


có hình đồng xu, hình đáy cốc (như ở khớp chậu đùi, khớp vai
cánh tay)
(3) Bao khớp: có hình túi bao bọc xung quanh khớp
gồm cả 2 đầu xương và các sụn bổ khuyết. Tuỳ theo chiều cử
động mà độ dày mỏng ở các vị trí khác nhau. Bao khớp gồm hai
lớp:
- Lớp ngoài là màng sợi dày: khoẻ chứa các sợi Collagen từ
màng bọc xương kéo đến, các thần kinh cảm giác, xúc giác. Lớp
này có nhiệm vị bảo vệ.
- Lớp trong là bao hoạt dịch (synovial membrane): là mô liên

kết sợi xốp, giàu mạch máu và sợi đàn hồi, có các tế bào tiết dịch
(hoạt dich, trong, vàng nhạt có tác
dụng bôi trơn)
(4) Xoang khớp: là khoảng trống bao quanh hai đầu
xương và các sụn khớp được giới hạn bởi bao hoạt dịch và chứa
đầy hoạt dịch hay dịch khớp. Dịch khớp (synovial fluid): trong
suốt, màu vàng nhạt, nhờn nhưng không dính, từ mạch máu
chuyển ra.
Tác dụng: bôi trơn, giảm ma sát mặt khớp và dinh dưỡng dinh
dưỡng cho sụn khớp.
(5) Dây chằng: Là những bó sợi sinh keo đàn hồi nối hai
đầu xương với nhau. Dây chằng cùng với bao khớp giữ chiều
hoạt động của khớp.
- Dây chằng ngoại biên: là dây chằng nằm trong hoặc ngoài
vách bao sợi.
- Dây chằng gian khớp: nằm trong xoang khớp, bám nối giữa
hai mặt khớp, nằm bên trong màng hoạt dịch.
Ngoài ra còn có gân, cân của các đầu xương trợ lực cho
bao khớp, giữ cho khớp khỏi chệch, mặc dù nó không phải là
thành phần của bao khớp. Hai loại dây chằng trên thường có mầu
trắng xà cừ, ít đàn hồi. Trong cơ thể còn loại dây chằng màu
vàng có tính đàn hồi cao như dây chằng cổ.
CHƯƠNG 2. HỆ CƠ
1. Đại cương về hệ cơ
(1) Hệ cơ cùng với xương, khớp tạo nên hệ vận động của
cơ thể. Khi cơ co sinh ra công và lực phát động làm di chuyển
một bộ phận hoặc toàn bộ cơ thể.
(2) Cơ tham gia cấu tạo nên thành, vách các nội quan: hệ
tiêu hoá, hô hấp, tuần hoàn, niệu sinh dục. Cơ co rút tạo nên sự
vận động của các cơ quan đó.

(3) Cơ vân (cơ xương) bám vào các xương và chịu sự
điều phối của thần kinh trung ương và góp phần tạo nên hình
dáng cơ thể. ở động vật có khoảng 250 cơ chiếm 36- 45% khối
lượng cơ thể. Phần lớn là cơ chẵn, một ít cơ lẻ.
(4) Cơ có các đặc tính: tính co rút, tính đàn hồi, tính kich
thích, và tính truyền dẫn . Mọi sự vận động của cơ đều là kết quả
của sự co rút. Tốc độ co rút cơ ở các loaì rất khác nhau
(5) Sự cường cơ là trạng thái co rút của cơ khi cơ thể ở
trạng thái nghỉ. Vì sự co của một nhóm cơ này luôn được cân
bằng bởi tính cường cơ của một nhóm cơ duỗi khác. Tính cường
cơ đảm bảo tư thế đứng của con vật. Các nguyên nhân nào làm
suy giảm tính cường cơ đều làm con vật mất cân bằng và ngã
xuống.
2. Phân loại cơ
Cơ được phân làm 3 loại cơ vân (cơ xương), cơ trơn và
cơ tim căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, vị trí, cấu tạo và sự hoạt
động:

6


ĐĐ so sánh

Cơ vân

Cơ trơn

Cơ tim

Phân

bố

Phần lớn các cơ Dưới da, thành các
bám
nội
vào xương
quan: ống tiêu hoá,
niệu- sinh dục,
mạch quản.

Cấu
tạo

Tế bào cơ có hình Hình thoi. Nhân Hình trụ. Nhiều
trụ,
nằm
nhân. Có các
có nhiều nhân nằm ở giữa. Cơ thườngsọc thang nối các tế
sát
có màu trắng
bào
cạnh ngoài. Các tế
tạo thành thể hợp
bào
bào.
cơ tạo thành tơ cơ

các đĩa sáng, đĩa
tối
nằm xen kẽ nhau.

Các tơ cơ hợp
thành sợi cơ.
Theo ý muốn Không theo ý Không theo ý
(hoạt động tự chủ) muốn
muốn

Hoạt
động

Tim

3. Cấu tạo và hình dạng của cơ vân
3.1. Hình dạng: Phần lớn cơ vân có hai đầu: đầu thân thịt và
đầu kia là gân.
- Đầu bám gốc (điểm khởi đầu), thường cố định khi vận
động
- Đầu bám tận (điểm đi tới của cơ), thường là điểm vận
động
Tuy nhiên việc xác định trên chỉ là tương đối: đầu bám
gốc trong cử động này lại là điểm vận động đối với một cử động
khác.
+ Phần thân thịt:
Gồm những sợi cơ xếp song song với nhau tạo thành
bó cơ được bọc ngoài bởi màng liên kết sợi xốp mỏng. Nhiều bó
nhỏ họp lại thành một bó lớn hơn và ngoài cùng được bao phủ
bằng một màng liên kết sợi xốp. Trong các bó cơ và xen kẽ giữa
các bó cơ có nhiều mạch quản và thần kinh phân bố nên cơ có
màu đỏ.
+ Phần gân của cơ thì nối với xương.
Hình dạng cơ: Cơ được chia ra:

- Cơ dài: Thường gặp ở các chi, có hình thoi, gồm một
bụng là phần phình của cơ, có chỏm ứng với điểm bám gốc và
đuôi ứng với điểm bám tận
- Cơ rộng: Chủ yếu là cơ thân: có hình tấm rộng phủ lên
mặt ngoài của phần ngực và bụng.
- Cơ ngắn: Chủ yếu ở lớp cơ sâu giữa các đốt sống ở mặt
lưng và cơ gian sườn.
Ngoài ra cơ còn có những dạng phức tạp như:
- Cơ nhiều đầu: xuất phát từ nhiều điểm bám gốc rồi tập
hợp lại thành một cơ chung: cơ tam đầu cánh tay, cơ nhị đầu đùi.
- Cơ nhiều đuôi : từ một cơ phát ra nhiều đầu gân bám
tận: cơ gấp và duỗi các ngón và bàn.
- Cơ có nhiều thân : gồm hai cơ nối với nhau bằng đầu

7


gân chung. Đa số các trường hợp các sợi cơ xếp song song với
trục của cơ. Trong một số cơ, sợi cơ có hướng xiên.
3.2. Những cấu tạo bổ trợ cho cơ
3.2.1. Cân
Là lớp tổ chức sợi xốp chứa sợi sinh keo, sợi đàn hồi, tế
bào liên kết và các dịch mô làm thành một khối nằm xen giữa
lớp mỡ dưới da và các cân ở sâu.
Hệ thống cân mạc liên kết chặt chẽ với nhau và liên kết
với xương tạo ra những vách hoặc những bao chắc xung quanh
cơ.
Cân phát triển không đều ở các bộ phận khác nhau: Phát
triển mạnh và chắc ở các chi, kém phát triển ở vùng mặt. Cân hỗ
trợ cho sự hoạt động của cơ xương.

3.2.2. Bao gân: gồm hai loại là bao sợi và bao hoạt dịch.
- Bao sợi: Thường ở các chi và do cân biến đổi tạo thành
những ống hẹp bao bọc lấy đầu gân. Cấu tạo là tổ chức màng sợi
liên kết sợi.
- Bao hoạt dịch: Có dạng ống khép hoàn toàn hay
không hoàn toàn bao bọc toàn bộ hay một phần các gân dài ở các
chi do các mô liên kết biệt hoá tạo thành và thường ở bên trong
bao sợi giúp gân hoạt động dễ dàng.
Bao hoạt dịch gồm 2 lá: Lá ngoài sát với bao sợi; Lá
trong ôm lấy bề mặt gân
Giữa 2 lá là xoang hoạt dịch chứa đầy chất hoạt dịch.
Bao hoạt dịch thường có ở các gân chạy qua các khớp
cổ tay, cổ chân và bàn ngón (những khớp có các động tác gấp,
duỗi) và thường có ống thông với xoang hoạt dịch trong ổ khớp
liền kề.
3.2.3. Túi hoạt dịch: là những túi nhỏ, kín hình bầu dục hoặc
hình hạt đậu.
Cấu tạo bởi 2 màng sợi mỏng bên trong chứa hoạt dịch.
Vị trí: nằm ở lớp cân dưới da, cân mạc cẳng tay, cân mạc
đùi v.v..). Tác dụng như 1 cái đệm góp phần làm giảm ma sát khi
vận động.
4. Thành phần hoá học của cơ
Nước chiếm 75 - 80%. Vật chất khô: 20 - 25% bao gồm :
protit, khoáng, chất hữu cơ khác, các men, nguyên tố vi lượng.
Protit là thành phần chất khô chủ yếu gồm các nhóm :
miogen, miozin, các enzin, các chất có chưa N khác như axít
amin, creatin, acginin, axít glutamic adenin, guanin, urê. Các
chất khác : Các chất chứa photphat,glicozen, cholesteron, lypit,
.v.v.
5. Phân tích hoạt động của cơ

Cơ co rút sẽ sinh ra công, khoảng 1/4 - 1/3 năng lượng
hoá học biến thành cơ năng và sinh nhiệt. Nguồn phát sinh ra
thân nhiệt chủ yếu là do sự co của cơ. Phần lớn các cơ trong cơ
thể đều bám vào xương. Cơ co rút thì xương vận động xung
quanh các khớp. Sự vận động cơ xương thường theo những
nguyên tắc đòn bẩy cơ học trong đó
- Cơ là bộ phận sinh ra lực phát động.
- Xương là cánh tay đòn chuyển động
- Khớp xương là điểm tựa.
- Sức cản là khối lượng của bộ phận cơ thể bị di chuyển.
CHƯƠNG 3. HỆ TIÊU HÓA
Hệ tiêu hóa: gồm có miệng,hầu, thực quản, dạ
dày, gan, ruột non, ruột già, hậu môn và các tuyến tiêu
hóa. Hoạt động của hệ tiêu hóa làm thức ăn biến đổi

8


thành các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể và thải
chất bã ra ngoài
I. Đại cương về bộ máy tiêu hoá
Các động vật dị dưỡng muốn tồn tại, sinh trởng và
sinh sản phải đảm bảo cung cấp cho các tế bào của mình các
nguyên liệu và nguồn năng lượng để tổng hợp các thành phần
trong chất nguyên sinh.
Thức ăn được thu nhận dưới dạng các prôtit, lipit,
gluxit và được biến đổi thành các amin axit, axit béo, glyxerin,
gluco và được cơ thể hấp thu, sử dụng.
Quá trình thu nhận, tiêu hoá, hấp thu và bài tiết chất
cặn bã gọi là quá trình tiêu hoá bao gồm:

+ Tiêu hoá cơ học
+ Tiêu hoá hoá học dưới tác dụng của các men tiêu hoá
(enzymes).
Hai quá trình này gắn bó mật thiết với nhau và hỗ trợ
cho nhau và do các cơ quan thuộc bộ máy tiêu hoá đảm nhiệm.
- Ống tiêu hoá chia làm ba phần: Trước, Giữa và Sau.
+ Phần trước gồm xoang miệng và phụ cận; hầu; thực quản
+ Phần giữa gồm dạ dày, ruột non, các tuyến tiêu hoá lớn
+ Phần sau: ruột già và trực tràng.
Bộ máy tiêu hoá ở động vật có xương sống thực hiện các
chức năng:
(1) thu nhận thức ăn
(2) tiêu hoá, hấp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn
(3) bài tiết các chất cặn bã ra ngoài.
Các phần trong bộ máy tiêu hoá gồm có miệng, hầu, thực quản,
dạ dày, ruột non, ruột già và các tuyến nước bọt, gan, tụy.
Các đoạn của ống tiêu hoá đều có tiết diện tròn bao gồm:
(1) Lớp áo ngoài: mỏng, có cấu tạo tổ chức liên kết.
(2) Lớp áo cơ: chủ yếu có cấu tạo cơ trơn, có đoạn là cơ vân, có
các lớp cơ vòng và lớp cơ dọc
(3) Lớp hạ niêm mạc: là lớp tổ chức liên kết dày chứa thần kinh,
mạch quản và các tuyến nằm dưới lớp niêm mạc.
(4) Lớp niêm mạc là lớp trong cùng của ống tiêu hoá được chia
thành:
+ Lớp cơ niêm
+ Hạ niêm mạc
+ Lớp biểu mô niêm mạc
1.1. Xoang miệng
Giới hạn xoang miệng: Phía trước là môi, 2 bên có má, phía trên
là vòm khẩu cái, phía sau là màng khẩu cái. Trong miệng có lưỡi

và răng.
1.1.1.Môi (labia; lips)
Miệng của động vật có vú có 2 môi gồm môi trên và môi dưới.
Hai môi gặp nhau ở mép. Giữa mặt ngoài môi trên có rãnh nhân
trung.
Cấu tạo: Môi được cấu tạo 4 lớp:
- Lớp da do biểu mô kép lát sừng hoá tạo thành, mỏng, mềm ,
dễ cử động, trên môi có các lông súc giác.
- Lớp cơ vòng môi có cơ thổi, cơ vận động môi.
- Lớp hạ niêm mạc có các tuyến môi tiết chất nhờn và đầu
mút TK cảm giác.
- Lớp niêm mạc ở trong cùng thường có màu hồng của các
mao mạch.
Động mạch phân đến môi: một nhánh từ động mạch
mặt thần kinh phân đến: từ dây số V (làm nhiệm vụ cảm giác);
dây số VII (dây TK mặt, vận động cơ vòng môi)
miệng rộng.
So sánh giữa các loài:

9


Ngựa: môi mỏng, dễ cử động, có thể dùng để lấy thức ăn,
trên môi có nhiều lông xúc giác.
Trâu, bò: môi dày, cứng, kém linh hoạt hơn, không dùng
để lấy thức ăn, mặt trên môi rộng, có nhiều sắc tố đen và
luôn ẩm ớt.
Lợn: môi dưới nhỏ, môi trên phát triển tràn ra ngoài môi
dưới hình thành mõm.
Dê cừu: môi mỏng, hoạt động linh hoạt dùng để lấy thức

ăn.
Chó: môi có nhiều lông xúc giác, rãnh nhân trung sâu.
Hai bên mép gấp nếp sâu vào trong do đó miệng rộng.
1.1.2. Má
Vị trí: giới hạn hai thành bên xoang miệng, kéo dài từ mép đến
màng khẩu cái, từ hàm răng trên đến hàm răng dưới. Cấu tạo: từ
ngoài vào trong gồm:
- Lớp da.
- Lớp cơ gồm: cơ thổi ; cơ gò má; cơ nanh; cơ hạ môi dưới.
- Lớp hạ niêm mạc có các tuyến má.
- Niêm mạc mỏng tiếp giáp nối tiếp niêm mạc xoang miệng, có
lỗ đổ ra của tuyến nước bọt dưới tai
- Mạch quản thần kinh giống như ở môi.
* Tác dụng: đẩy thức ăn lên mặt bàn nhai của răng, không
cho rơi ra ngoài.
1.1.3. Lợi: Là phần niêm mạc sừng hoá, cứng, bám sát trên mặt
các xương liên hàm, xương hàm trên, xương hàm dưới và xung
quanh cổ răng có tác dụng chêm chặt răng. Lợi có màu hồng
và không có tuyến.
Trâu, bò: có phần lợi tạo thành gờ dày, cứng ứng với răng cửa
hàm trên.
1.1.4. Vòm khẩu cái
- Giới hạn thành trên của xoang miệng, phía trước là xương
liên hàm, 2 bên là xương hàm trên, phía sau tiếp nối với màng
khẩu cái.
- Cấu tạo: Vòm khẩu cái cấu tạo bởi một khung xương gồm 2
tấm khẩu cái của xương hàm trên ở phía trước và nhánh nằm
ngang xương khẩu cái ở phía sau.
- Niêm mạc có biểu mô kép lát sừng hoá dày tạo thành 16-18
gờ ngang xếp hai bên đường trung tuyến chạy dọc trước sau trên

vòm khẩu cái và hớng xiên về phía sau.
- Lớp hạ niêm mạc có tổ chức liên kết, các sợi chun, có nhiều
tuyến khẩu cái tiết chất nhầy và các đám rối mạch quản có khả
năng trơng nở.
- Mạch quản: Động mạch khẩu cái lớn là nhánh của động
mạch hàm trong. Thần kinh khẩu cái từ nhánh hàm trên của dây
TK số V.
Vòm khẩu cái làm điểm tựa cho lưỡi và có tác dụng
hướng thức ăn về sau.
1.1.5. Màng khẩu cái
- Vị trí, hình thái: Là một gấp nếp niêm mạc, ngăn cách giữa
miệng và yết hầu.
+ Cạnh trước (cạnh trên) nối tiếp với niêm mạc vòm khẩu cái
+ Cạnh sau (hay cạnh dưới) tự do
+ Mặt trước hướng về xoang miệng
+ Mặt sau hướng về yết hầu.
+ Hai bên cạnh trước có 2 gấp nếp từ niêm mạc lưỡi kéo lên là
gấp nếp lưỡi - khẩu cái (còn gọi là chân cầu trước của màng khẩu
cái) cùng với đáy lưỡi giới hạn phần trước và trên của yết hầu.
- Cấu tạo:
+ Cốt của màng khẩu cái là cơ vân có tác dụng vận động.
+ Niêm mạc về phía miệng có cấu tạo giống niêm mạc miệng

10


(biểu mô kép lát, tổ chức liên kết, nhiều tuyến nhờn). Hai bên
chân cầu trước màng khẩu cái có các nang kín lâm ba tập trung
thành 2 phiến hình bầu dục gọi là hố amidan.
+ Niêm mạc phía yết hầu giống biểu mô xoang mũi (biểu mô

trụ có lông rung)
+ Lớp hạ niêm mạc có tuyến nhầy.
+ Mạch quản là động mạch khẩu cái dưới.
+Thần kinh : nhánh hàm trên của TK số V và nhánh của TK
số IX phân vào niêm mạc; nhánh hàm dưới TK V phân vào lớp
cơ.
- Tác dụng: khi nuốt, màng khẩu cái được nâng lên đậy lỗ
mũi sau làm cho thức ăn không lọt vào được xoang mũi.
1.1.6. Lưỡi
- Vị trí, hình thái : Là khối hình tháp nằm trong xoang miệng,
tựa lên lòng máng do hai nhánh nằm ngang của xương hàm dưới
tạo thành.
- Lưỡi có 3 mặt, 1 đáy, 1 đỉnh.
+ Mặt trên hay mặt lưng, cong lồi theo suốt chiều dài của lưỡi
tơng ứng với vòm khẩu cái.
+ 2 mặt bên trơn, nhẵn.
+ Đáy lưỡi gắn vào mỏm lưỡi của xương thiệt cốt và cùng với
màng khẩu cái giới hạn trước của yết hầu, kéo dài đến trước sụn
tiểu thiệt của thanh quản tạo thành 3 gấp nếp: gấp nếp lưỡi tiểu
thiệt giữa và 2 gấp nếp lưỡi tiểu thiệt bên hay chân cầu sau của
màng khẩu cái.
+ Đỉnh lưỡi: Hình tháp, có thể vận động; duới đỉnh có dây
hãm lưỡi ( là gấp nếp niêm mạc gắn vào mặt trên của lòng máng
xoang miệng); hai bên dây hãm lưỡi có những lỗ đổ ra của các
ống tiết của tuyến dưới lưỡi.
- Cấu tạo: Lưỡi được cấu tạo bởi niêm mạc, cơ, mạch quản và
thần kinh.
+ Niêm mạc phủ mặt lng lưỡi là biểu mô kép lát sừng hoá. 3/4
phía trước là phần gai được bao phủ bởi các gai lưỡi,. 1/4 phía
sau thuộc đáy lưỡi là phần nang (có nhiều nang kín lâm ba).

Có 4 loại gai mọc trên mặt lưng lưỡi:
* Gai hình chỉ nhỏ, mềm, lồi, dày đặc trên mặt lưỡi có vai trò
cơ học (giữ thức ăn khỏi trượt nhanh về phía sau) và chức năng
xúc giác.
* Gai hình nấm rải rác giữa các gai chỉ và giống như đầu
đanh ghim chứa đầu mút thần kinh cảm giác làm nhiệm vụ
vị giác, xúc giác và nhận cảm nhiệt độ.
* Gai hình đài giống như gai hình nấm nhưng to hơn và làm
nhiệm vụ vị giác.
* Gai hình lá (4-6 gai ở hai bên, hình lá cây; nằm bên cạnh
gai hình đài) làm nhiệm vụ vị giác.
Bản chất của các gai là đầu mút của các giây thần kinh.
*Tuyến lưỡi đơn giản, ống tiết đổ ra xung quanh các gai hình
nấm, hình đài.
+ Cơ lưỡi gồm cơ nội bộ và cơ ngoại lai, đều là cơ vân. Cơ nội
bộ là các bó sợi xếp dọc, xếp ngang và xếp đứng:
* Cơ dọc chạy từ gốc đến đỉnh lưỡi.
* Cơ ngang chạy từ mặt bên này sang mặt bên kia của lưỡi.
* Cơ thẳng chạy từ mặt trên xuống mặt dưới lưỡi.
Các sợi cơ nội bộ có rất ít hoặc không có vỏ bọc.
Cơ ngoại lai bám vào lưỡi và cơ quan xung quanh để vận
động lưỡi gồm:
*Cơ trâm lưỡi * Cơ nền lưỡi,* Cơ thiệt lưỡi, * Cơ cằm lưỡi.
Ngoài ra còn có các cơ bám từ xương lưỡi đến các bộ phận
vùng đầu và xương ức có tác dụng vận động lưỡi, màng khẩu cái
và thanh quản.

11



+ Mạch quản: Động mạch lưỡi là một nhánh của thân động
mạch lưỡi mặt. Tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch dưới lưỡi sau đó đổ
về tĩnh mạch hàm ngoài.
+ Thần kinh gồm: TK vận động bao gồm: Dây TK XII (TK
hạ thiệt) vận động lưỡi. Nhánh của dây TKV, dây TKVII làm
nhiệm vụ cảm giác ở 2/3 trước lưỡi. Nhánh của dây TK IX làm
nhiệm vụ cảm giác ở 1/3 phía sau của lưỡi.
1.1.7. Răng
Do niêm mạc miệng biệt hoá tạo thành. Gia súc có
hàm răng trên và hàm dưới. Răng cắm vào lỗ chân răng của
xương hàm trên, xương hàm dưới và xương liên hàm..
Răng sữa mọc từ trước hoặc trong vài tháng sau khi
con vật đẻ ra. Răng sữa ngắn, yếu hơn và nhanh bị mòn sau vài
tháng đến vài năm (tuỳ loài) răng sữa được thay thế bằng răng
vĩnh cửu, quá trình này gọi là sự thay răng.
Tuỳ theo vị trí, chức năng, răng được chia làm 3 loại:
+ Răng cửa ở phía trước, cắm vào thân xương hàm dưới,
xương liên hàm, để lấy& cắt thức ăn.
+ Răng nanh nằm sau răng cửa dùng để xé thức ăn.
+ Răng hàm gồm răng hàm trước và răng hàm sau có tác
dụng nghiền thức ăn.
Hình thái răng: Răng chia làm 3 phần: Vành răng, cổ răng,
chân răng.
- Vành răng: là phần nhô lên khỏi lợi; mặt trên vành răng gọi là
mặt bàn nhai
- Cổ răng: được lợi bao bọc
- Chân răng: là phần cắm sâu vào lỗ chân răng của xương hàm.
Chân răng được bọc bởi 1 lớp màng giàu mạch quản & thần
kinh giống màng xương có tác dụng giữa chặt chân răng. Răng
có thể có 1 hay nhiều chân . Trong xoang răng chứa tuỷ răng.

Công thức răng: Biểu diễn một nửa số răng dưới dạng phân số.
Tử số là răng hàm trên, mẫu là hàm dưới.
Răng ở chó, mèo rất phát triển, răng nanh nhọn, sắc, khoẻ. Mặt
bàn nhai hình răng ca nghiền thức ăn rất khoẻ.
Cấu tạo: Răng được cấu tạo bởi chất cơ bản có thành phần
hoá học giống như xương. Quan sát tiết diện cắt dọc có 4 lớp:
- Tuỷ răng : là chất keo mềm trong xoang răng, chứa các mao
mạch và đầu mút thần kinh
- Ngà răng : bao bọc ngoài tuỷ răng, là bộ phận cấu tạo chủ
yếu của răng, thành phần hoá học giống như xương (nhưng
không có tế bào xương) gồm 28% là chất hữu cơ, 72% chất vô
cơ.
- Lớp men răng : là tổ chức cứng nhất trong cơ thể phủ ngoài
lớp ngà, dày ở trên mặt bàn nhai và bờ răng, đến cổ răng thì
mỏng dần ; lớp men chứa 97% chất khoáng, 3% chất hữu cơ.
- Vỏ răng (xỉ răng) màu vàng nhạt phủ bên ngoài lớp ngà răng
ở vùng cổ răng, vành răng và ống răng ngoài. Cấu tạo giống
xương tươi.
* Mạch quản và thần kinh: Phân cho răng hàm trên: Động
mạch hàm và động mạch dưới hố mắt. Thần kinh từ nhánh hàm
trên của dây số V. Phân cho răng hàm dưới: Động mạch hàm
dưới và thần kinh hàm dưới của TK V
1. 2. Yết hầu
Là xoang ngắn, hẹp, sau màng khẩu cái & lưỡi, xoang mũi ;
trước thực quản và thanh quản ; là nơi giao nhau giữa đường tiêu
hoá và đường hô hấp. Trên vách yết hầu có 7 lỗ thông.
- 2 lỗ thông với xoang mũi ở phía trên, trước.
- 2 lỗ thông với tai giữa (vòi Eustache: ơx-ta-sơ ở 2 vách
bên của yết hầu) có tác dụng cân bằng áp lực ở hai bên màng
nhĩ của tai.


12


- 1 lỗ thông với xoang miệng ở phía trước gọi là cửa vào
yết hầu.
- 1 lỗ thông với thanh quản ở phía sau & bên dưới.
- 1lỗ thông với thực quản ở phía sau & bên trên.
Cấu tạo: vách yết hầu gồm:
- Lớp niêm mạc lót mặt dưới yết hầu là biểu mô kép lát tơng
tự xoang mũi, có các lông rung và chứa nhiều tuyến nhờn, nang
kín lâm ba.
- Lớp màng bằng tổ chức liên kết có các sợi đàn hồi làm chỗ
bám cho các cơ yết hầu làm giãn mở rộng và làm hẹp yết hầu.
- Mạch quản: các nhánh của động mạch trên yết hầu, động
mạch trên khẩu cái, động mạch giáp trạng trước.
- Thần kinh IX (thần kinh lưỡi hầu) vận động yết hầu. Thần
kinh giao cảm từ dây giao cảm cổ; Tkinh phó giao cảm đến từ
dây X.
1.3. Thực quản
Là ống dài bắt đầu bằng một lỗ thông với yết hầu, sau nở rộng
ra tạo thành phình thực quản (hình phễu), tiếp đó là thực quản
chính thức nối với dạ dày. Thực quản chia làm 3 phần:
- Phần cổ: từ sau yếu hầu đến của vào lồng ngực, nằm trong
rãnh cổ, dưới thân các đốt sống cổ, đi trên khí quản, khoảng 1/3
phía sau thì đi bên trái và song song với khí quản đến cửa vào
lồng ngực.
- Phần ngực kéo dài từ cửa vào lồng ngực đến cơ hoành, đi trên
khí quản, giữa 2 lá phế mạc giữa. Đoạn cuối bẻ cong xuống dưới,
xuyên qua cơ hoành.

- Phần bụng là đoạn ngắn đi từ sau cơ hoành qua cạnh trên
gan đến lỗ thượng vị của dạ dày.
Cấu tạo: gồm 3 lớp từ trong ra ngoài.
- Lớp niêm mạc màu trắng, có nhiều gấp nếp dọc, biểu mô kép
lát sừng hoá. Lớp hạ niêm mạc có nhiều tuyến thực quản tiết dịch
nhờn và nang kín lâm ba.
- Lớp cơ: gồm 2 lớp cơ vân: lớp vòng ở trong, lớp cơ dọc ở
ngoài (có khi có đến 3-4 lớp tuỳ loài). ở bò, thực quản hoàn toàn
là cơ vân. ở ngựa và lợn phần cổ và 1/2 phần ngực là cơ vân,
phần sau là cơ trơn.
- Lớp màng: ở đoạn cổ lớp này là tổ chức liên kết; đoạn ngực
là lá thành xoang phế mạc; đoạn bụng là lá tạng xoang phúc
mạc.
*Mạch quản: Các nhánh bên của động mạch cổ phân đến
phần cổ. Nhánh của động mạch thân khí thực quản phân đến
phần ngực. Động mạch dạ dày trái phân cho phần bụng.
*Thần kinh X và dây giao cảm cổ từ các hạnh giao cảm cổ
trước, giữa và sau.
* Chức năng: Là nơi chứa thức ăn và làm mềm thức ăn.
2. Các cơ quan tiêu hoá sau cơ hoành
2.1. Xoang bụng và xoang phúc mạc
2.1.1. Xoang bụng
Giới hạn: Trước là cơ hoành . Phía trên là các đốt sống vùng
hông. Hai bên và phía dưới là các cơ vùng bụng . Phía sau là cửa
vào xoang chậu
2.1.2. Xoang phúc mạc
Là hệ thống các khe hẹp thông với nhau được giới hạn bởi lớp
màng thanh mạc gồm lá thành và lá tạng:
- Lá thành áp sát mặt trong các cơ và các xoang giới hạn nên
xoang bụng.

- Lá tạng: là phần lá thành phủ trên các khí quan trong xoang
bụng.
Các lớp màng này rất trơn và có khả năng tiết dịch phúc mạc làm
cho các nội quan có thể dịch chuyển trong xoang bụng dễ dàng.

13


Do sự dịch chuyển từ lá thành vào lá tạng đã hình thành nên hệ
thống các dây chằng, các màng treo có tác dụng cố định các khí
quan trong xoang bụng vào thành cơ thể. Các hệ thống này còn
liên kết các khí quan với nhau nhờ màng treo ruột, dạ dày, dây
chằng gan. .. .
Tuỳ theo tính chất được bao phủ của lá thành lên các cơ quan nội
tạng mà chia ra:
- Tạng trong màng lót được phúc mạc bao phủ cả 4 mặt như dạ
dày, không tràng, hồi tràng, manh tràng, kết tràng, đoạn trước
trực tàng, lách, ống dẫn trứng.
- Tạng gian màng lót được phúc mạc bao phủ ba mặt như gan,
bóng đái. . .
- Tạng ngoài màng lót được phúc mạc bao phủ một mặt như tá
tràng, tụy, thận. .
2.2. Dạ dày
Dạ dày là đoạn phình to hình túi của ống tiêu hoá nằm ở sau cơ
hoành và gan, là nơi chứa thức ăn và diễn ra trình tiêu hoá cơ
học & hoá học:
Tiêu hoá cơ học: nghiền, nhào trộn thức ăn (do các cơ co
bóp)
Tiêu hoá hoá học: dưới tác động của các men tiêu hoá.
Ở động vật có vú dạ dày chia làm 2 loại: Dạ dày đơn và dạ dày

kép
Dạ dày đơn chia làm 3 loại:
- Dạ dày đơn không tuyến: Chỉ là đoạn phình của thực quản.
Lớp biểu mô niêm mạc là biểu mô phủ đơn lát, không có tuyến.
- Dạ dày đơn có tuyến: Toàn bộ niêm mạc dạ dày tạo thành
tuyến được phủ bởi lớp biểu mô đơn trụ phân tiết niêm dịch và
dịch vị (dạ dày người, chó, mèo).
- Dạ dày đơn hỗn hợp: Niêm mạc chia làm 2 vùng: Vùng
không tuyến, niêm mạc giống niêm mạc thực quản, biểu mô kép
lát không tuyến. Vùng có tuyến, niêm mạc phủ bởi lớp biểu mô
đơn trụ có tuyến (dạ dày ngựa, lợn.)
2.2.1. Đặc điểm của dạ dày đơn
Là đoạn phình hình túi, có hình lưỡi liềm.
Vị trí: Nằm lệch sang trái xoang bụng, phía trước giáp gan, chéo
từ trên xuống dưới và được cố định nhờ hệ thống dây chằng:
Hình thái: Dạ dày có hai lỗ thông
- Lỗ thuợng vị thông với thực quản hay còn gọi là lỗ tâm vị.
- Lỗ hạ vị thông với tá tràng. Hai đường cong: đường cong nhỏ
và đường cong lớn.
Cấu tạo: Thành dạ dày có cấu tạo gồm:
- Lớp niêm mạc: Chia thành niêm mạc vùng không tuyến và
vùng có tuyến:
+ Vùng không tuyến: Vùng gần lỗ thượng vị. Niêm mạc thường
có màu trắng thô giống niêm mạc thực quản.
+ Vùng có tuyến: Có các tuyến tiết men tiêu hoá Protein, Gluxit,
và HCl. Vùng này được chia ra:
*Khu tuyến thượng vị; Khu tuyến thân vị; Khu tuyến hạ vị. Các
khu tuyến có màu sắc niêm mạc khác nhau do sự khác nhau về
phân bố của hệ thống mạch quản.
- Tổ chức cơ: Gồm ba lớp đan vào nhau làm cho thành dạ dày

chắc, khoẻ:
+ Lớp cơ dọc ở ngoài: chạy theo chiều dài dạ dày
+ Lớp cơ vòng ở giữa: Chạy nối vòng hai đường cong
+ Lớp cơ chéo ở trong: Chạy từ lỗ thượng vị đến hai đường
cong
- Lớp màng bao phủ: mỏng do lá tạng xoang phúc mạc tạo
thành, màng này trơn, nhẵn.
- Động mạch: Từ động mạch thân tạng và một số nhánh từ động

14


mạch lách
- Tĩnh mạch: Đổ về tĩnh mạch cửa vào gan
- Thần kinh: Phân đến từ dây X và đám rối mặt trời.
 Chức năng: Tiêu hoá cơ học là chính, một phần
tiêu hoá hoá học.
2.2.2. Dạ dày kép
Gồm 4 túi: 3 túi đầu làm nhiệm vụ tiêu hoá cơ học; 1 túi sau tiêu
hoá hoá học. Trong dạ dày 4 túi có quá trình lên men vi sinh vật,
phân giải các chất xơ thành axit béo bay hơi có thể qua được
thành dạ dày vào máu. Vi sinh vật dạ cỏ chết đi là một nguồn
cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể.
Chức năng của các túi như sau:

2.3. Ruột

15



Là phần dài nhất của ống tiêu hoá (ruột của động vât ăn cỏ dài
hơn)
2.3.1. Ruột non: Là phần tiêu hoá và hấp thu chủ yếu.
Cấu tạo chung:
- Lớp áo ngoài do phúc mạc tạo thành.
- Lớp áo cơ: Có cơ vòng phía trong, cơ dọc phía ngoài. Xen kẽ
trong lớp cơ có thần kinh, mạch quản. Ruột loài ăn thịt có lớp cơ
chéo mỏng.
- Lớp niêm mạc:
+ Lớp hạ niêm mạc có các tuyến ruột, đám rối thần kinh và
mạch quản.
+ Lớp cơ niêm mỏng
+ Lớp đệm: có các tuyến ruột Lieberkun (li-bec-kun), đáy tuyến
có các tế bào panet (pa-nét) tiết dịch nhầy (lợn và mèo không có
các tế bào này). Các nang kín lâm ba ở lớp này tập trung tạo các
mảng Payer (pay-e).
+ Lớp biểu mô: Tơng tự lớp biểu mô dạ dày (gồm các tế bào
đơn trụ), có các lông nhung, vi nhung.
Ruột non chia làm ba đoạn:
- Tá tràng: được cố định nhờ dây chằng nối gan vào dạ
dày tá tràng. Thành tá tràng có lỗ đổ vào của ống dẫn tụy và ống
dẫn mật.
- Không tràng: tiếp theo tá tràng, được cố định nhờ hệ
thống màng treo ruột (trên màng treo có hệ thống mạch quản,
mạch bạch huyết và dây thần kinh).
Niêm mạc có nhiều gấp nếp. Trên các gấp nếp có hệ
thống các lông nhung. Trên mỗi lông nhung có các vi nhung làm
tăng diện tích bề mặt lên 30 lần. Mỗi tế bào đơn trụ có khoảng
3000 vi nhung. Xen kẽ giữa các tế bào biểu mô còn thấy các tế
bào hình đài.

Dưới niêm mạc có các nang kín lâm ba tập trung thành
từng đám gọi là mảng peyer có chức năng sản sinh các tế bào
bạch cầu.
Thành không tràng dày, lớp cơ có cơ vòng ở trong, cơ
dọc ở ngoài.
- Hồi tràng: ngắn, nối với manh tràng của ruột già qua
phần nối có cấu tạo một vòng cơ trơn và van một chiều .
* Chức năng:
- Tiêu hoá hoá học
- Phân giải thức ăn thành những chất đơn giản hấp
thụ qua những tế bào biểu mô vào máu và bạch huyết.
2.3.2. Ruột già: large intestine
Có đường kính lớn, được cố định trong xoang bụng
nhờ màng treo ruột già.
Đặc điểm cấu tạo:
- Ngoài cùng là lớp tương mạc
- Giữa là lớp cơ gồm: Lớp cơ dọc tập trung thành từng bó.;
lớp cơ vòng ở trong thắt lại từng đoạn.
Phần giáp với trực tràng là cơ vân, xen kẽ có các mạch quản
và thần kinh. Thành ruột già có các u buớu nổi lên.
- Lớp niêm mạc không có hệ thống lông nhung.
- Lớp hạ niêm mạc không có các tế bào tiết dịch
Thành ruột có các nang lâm ba phân tán
Chức năng:
Lên men vi sinh vật, tạo vitamin
Chức năng hấp thu: chủ yếu là hấp thu nước & tạo khuôn
phân.
Ruột già phân làm ba đoạn:
- Manh tràng là nơi xảy ra quá trình lên men, tạo axit béo, các


16


axit amin
- Kết tràng là đoạn ruột dài nhất của ruột già
- Trực tràng có đoạn đầu nằm trong xoang bụng; đoạn sau trong
xoang chậu, áp sát mặt dưới xương mu. Trực tràng thẳng, không
có u bướu, niêm mạc có các gấp nếp dọc. Lớp cơ và lớp niêm
mạc liên kết lỏng lẻo với nhau.
2.2.3. Hậu môn: Là cửa sau của ống tiêu hoá
- Cấu tạo: Trong là lớp niêm mạc màu hồng gấp nếp hình
miệng túi. Phần sau có lớp da do sự chuyển tiếp giữa da bụng và
niêm mạc. Lớp da này mỏng, không có lông, có nhiều tuyến bã.
Cơ : + Cơ trơn: Gồm các sợi cơ vòng liên kết với nhau tạo hình
vòng nhẫn. Cơ này kết hợp với bó cơ từ trực tràng kéo đến tạo
thành cơ thắt trong.
+ Cơ vân: Cơ vòng chắc, khoẻ tạo thành cơ thắt ngoài hoạt
động theo ý muốn.
- Chức năng: là nơi thải phân
3. Các tuyến tiêu hoá.
3.1. Tuyến nước bọt
Gồm 3 đôi tuyến lớn: đôi tuyến dưới tai; đôi tuyến dưới
lưỡi; đôi tuyến dưới hàm đều được cấu tạo từ các túi tuyến gồm
các nhánh tạo thành các chùm tuyến .
- Đặc điểm của nước bọt: Là dịch trong, không mùi,
không vị.
- Lượng nước bọt tiết ra: ở ngựa khoảng 40 lít/24 giờ;
trâu bò 60 lít/24 giờ
-Thành phần nước bọt: chứa chất nhờn mucin , enzym
phân giải tinh bột, lyzozim diệt khuẩn.

- Nước bọt đóng vai trò quan trọng trong việc nhai,
nuốt thức ăn và góp phần tiêu hoá thức ăn ở dạ dày, đặc biệt
đối với loài nhai lại.
* Chức năng: tiết ra nước bọt theo ống dẫn đổ vào
xoang miệng làm mềm thức ăn. Tiêu hoá tinh bột và diệt vi
khuẩn.
* Tuỳ theo cấu tạo, người ta chia làm 3 loại tuyến:
- Tuyến nước: Tiết nước bọt chứa men ptyalin và protid.
- Tuyến nhờn: Tiết muxin.
- Tuyến pha: tiết cả 2 loại dịch trên.
* Ngoài các tuyến nước bọt lớn trên, xoang miệng còn nhận chất
tiết từ các tuyến khác như tuyến lưỡi, tuyến má, tuyến môi.
3.2. Gan
Vị trí: Nằm trong xoang bụng theo chiều trên dưới, phải
trái (lệch về bên phải).
Trước giáp cơ hoành, sau giáp dạ dày. Dây chằng vành:
cố định cạnh trái gan vào cơ hoành; dây chằng gan: đi từ mặt sau
đến bờ cong nhỏ của dạ dày và tá tràng. Gan có hình khối, có 2
cạnh (trên và dưới); 2 mặt( trước & sau):
Hình thái:
+ Cạnh trên: Cong lõm, có một rãnh chạy chéo từ sau ra
trước làm lối đi cho tĩnh mạch chủ sau. Mặt trong của rãnh có các
lỗ thông vào gan là nơi đổ ra của các tĩnh mạch trên gan.
+ Cạnh dưới: Có nhiều mẻ phân gan làm các thuỳ.
+ Mặt trước: Cong lồi, trơn nhẵn, áp vào cơ hoành.
+ Mặt sau: Lõm, có rốn gan, có rãnh cửa là nơi đi vào
của động mạch gan, tĩnh mạch cửa, thần kinh và nơi đi ra của
ống mật.
* Gan bò: Toàn bộ gan nằm phía phải xoang bụng, từ xương
sườn 6-13. Phân không rõ ràng thành các thuỳ: Thuỳ trái, thuỳ

vuông, thuỳ phải, thuỳ đuôi.
* Gan ngựa: Bên phải nằm từ sờn 10 đến 15; bên trái từ x.sườn
7-10 chia thành thuỳ trái, thuỳ giữa trái, thuỳ vuông, thuỳ phải,

17


thuỳ đuôi và không có túi mật.
* Gan lợn bên phải trong khoảng sờn 7-13; bên trái từ x.sườn 810. Phân làm 6 thuỳ: trái, giữa trái, vuông, phải, giữa phải, đuôi.
*Gan chó:( nằm gần đối xứng hai bên): bên phải ở khoảng
x.sườn 10-13; bên trái từ x.sườn 10-12; phân thuỳ như gan lợn.
Cấu tạo gan:
+ Ngoài cùng là lớp tương mạc do lá tạng xoang phúc
mạc tạo thành
+ Dưới là lớp màng sợi bám chặt vào lớp màng ngoài; từ
lớp màng sợi phát ra các vách ngăn chia mô gan thành các hình
lục giác gọi là các tiểu thuỳ. Ở lợn, lớp màng này dày nên các
tiểu thuỳ nổi rất rõ.
+ Mô gan:
- Gan được cấu tạo từ các tế bào gan.
- Trong mỗi tiểu thuỳ có các tế bào xếp theo hình nan hoa xe
đạp gọi là các bè Remark.
- Xen kẽ giữa các bè gan là rãnh mạch quản.
- Trung tâm các tiểu thuỳ có tĩnh mạch giữa tiểu thuỳ.
- Ba đến bốn tiểu thuỳ gặp nhau tạo thành quãng cửa hay
quãng cửa Kiernan.
- Tại các quãng của có động mạch gian thùy phát ra từ động
mạch gan; tĩnh mạch gian thuỳ và ống mật gian thuỳ.
- Cạnh các quãng cửa còn có các hạch lâm ba.
- Các tế bào thực bào Kupfer nằm chen giữa các bè Remark.

+ Động mạch gan phân vào gan là một nhánh của động mạch
thân tạng.
+ Thần kinh X đến gần thợng vị phát ra 3 nhánh nhỏ chạy trên
bề mặt tiểu võng mạc để vào rốn gan. Dây thần kinh giao cảm
đến từ đám rối mặt trời.
*Các chức năng chính của cơ quan tuyến này
là điều tiết enzyme cho quá trình tiêu hóa chất béo
và duy trì lượng đường trong máu.
* Mật: Tế bào gan tiết ra dịch mật đổ vào các rãnh mật. nằm
trong tiểu thuỳ gan. Các rãnh này đổ vào các ống mật gian thuỳ
sau đó tập trung về các ống mật lớn hơn đổ vào túi mật rồi theo
ống Choledoque đổ vào tá tràng (ở ngựa không có túi mật, ống
dẫn mật đổ trực tiếp vào tá tràng). Chức năng của gan:
+ Tiết dịch mật để nhũ hoá mỡ.
+ Tổng hợp Ure từ các sản phẩm trao đổi protein.
+ Tổng hợp sắc tố mật
+ Dự trữ Glycogen, điều hoà đường huyết.
+ Thực bào (các tế bào Kupfer thực hiện)
+ Tổng hợp heparin chống đông máu.
+ Giải độc.
+ Tạo huyết (trong giai đoạn bào thai gan là cơ quan tạo
huyết)
3.3. Tuyến tụy
Tụy vừa có chức năng ngoại tiết vừa có chức năng
nội tiết.
Ngoại tiết: Tiết các men tiêu hoá nh amilaza, tripsin,
lipaza...
Nội tiết: Tiết ra Glucagon, Insulin điều hoà đường
huyết.
Vị trí, hình dạng:

- Ngựa: Phần lớn của tụy nằm bên phải. Phần giữa tụy
dựa vào dỡi đốt sống lng thứ 16-17. Thuỳ phải kéo đến dưới thận
phải. Thuỳ trái dựa vào thận trái và lách.
- Bò: Tụy nằm trong khoảng xương sườn 12 đến đốt
hông 2-4
- Lợn: Thuỳ phải men theo tá tràng đến cạnh trong thận

18


phải. Thuỳ trái tựa vào thận trái và lách, trong khoảng 2 đốt lưng
cuối đến hai đốt hông đầu.
- Tụy bò: Thuỳ phải: dựa lên tá tràng và một phần kết
tràng. Thuỳ trái kẹp giữa chân cơ hoành và dạ cỏ, tiếp giáp với lá
lách.
- Chó: Thuỳ trái men theo đại võng mạc kéo đến trái dạ
dày. Thuỳ phải men dọc theo tá tràng.
2. Cấu tạo:
- Phần ngoại tiết (exocrine part): Gồm các chùm tuyến có các tế
bào tiết dịch giống tuyến nước bọt dưới hàm. Các chất tiết theo
các ống dẫn nhỏ sau đó tập trung thành các ống dẫn lớn đổ vào tá
tràng.
Ngựa: Có 1 ống dẫn chính và 1 ống dẫn phụ Bò, lợn: Có 1 ống.
Chó: Có 2-3 ống
- Phần nội tiết (endocrine part) : Cấu tạo gồm các đảo tụy hay
đảo Langerhan gồm các tế bào , tiết hormon. Các loại tế bào
khác (tế bào C; D, D1) điều tiết hoạt động tiết hormon của tế bào
& . tế bào chiếm 20%, tiết ra Glucagon làm tăng đường huyết tế
bào chiếm 75% , tiết Insulin làm giảm đường huyết.
CHƯƠNG 5. HỆ HÔ HẤP

Hệ hô hấp: gồm có mũi, hầu, thanh quản, khí
quản, phế quản và phổi, có nhiệm vụ đưa ô-xi trong
không khí vào phổi và thải khí cac-bô-nic ra môi
trường ngoài
Mọi cơ thể sống đều hô hấp (hấp thu oxy từ môi
trường và thải khí cacbonic, trừ một số vi khuẩn yếm khí sống
được trong môi trường thiếu oxy). Bộ máy hô hấp đảm nhận
chức năng này. Các cơ quan hô hấp bao gồm đường dẫn khí
trong đó có xoang mũi, thanh quản, khí quản và cơ quan trao đổi
khí là phổi.
1. Xoang mũi :
Hai xoang mũi là bộ phận ngoài cùng của đường hô
hấp có nhiệm vụ lọc sạch, tẩm ướt, sưởi nóng không khí trước
khi đưa vào phổi, đồng thời nó là cơ quan khứu giác.
Giới hạn xoang mũi: Phía trước là hai lỗ mũi. Phía sau
thông với yết hầu và giáp tảng bên xương sàng. Phía dưới là mặt
trên của vòm khẩu cái. Phía trên là xương mũi và các cơ vùng
mặt. Thành trong là bức sụn ngăn giữa mũi.
1.1. Lỗ mũi: nares
Là cửa của hệ hô hấp, là nơi tiếp xúc với không khí
bao gồm 2 cánh mũi trong và ngoài gấp nhau tạo thành góc lưng
và góc bụng.
Cấu tạo: gồm 1 cốt sụn, lớp cơ, lớp da
- Cốt sụn ở trong cùng có hình dạng như cái neo tàu thuỷ, hai bên
hình thành cánh mũi.
- Lớp cơ bao gồm một phần cơ nanh và cơ nâng riêng môi trên,
cơ nở mũi trong, cơ nở mũi ngoài điều tiết hoạt động của mũi.
- Lớp da dày phủ ngoài, nhiều tuyến nhờn, không có lông,
không giói hạn rõ ràng với niêm mạc mũi phía trong.
- Động mạch nuôi dưỡng: động mạch môi dưới là các nhánh


19


của động mạch liên hàm và động mạch mặt. Tĩnh mạch đổ về
tĩnh mạch mặt.
- Thần kinh: TK mặt (TK VII) chi phối vận động. Nhánh hàm
trên của TK V làm nhiệm vụ cảm giác.
1.2. Cấu tạo của xoang mũi
Xoang mũi gồm bộ phận nòng cốt là các xương, sụn và niêm
mạc.
- Các xương hợp thành xoang mũi là xương mũi, xương hàm
trên, xương liên hàm, xương sàng, xương lá mía.
- Sụn ngăn giữa mũi từ phiến thẳng đứng của xương sàng đến
sụn đầu lỗ mũi, cạnh trên khớp với xương lá mía, dưới khớp với
đường khớp trên của khẩu cái.
- Niêm mạc: Lót mặt trong xoang mũi và chia làm hai vùng:
+ Niêm mạc vùng hô hấp (respiratory region) ở phía trước,
màu hồng, được phủ bởi lớp biểu mô phủ đơn trụ có lông rung
hướng từ trong ra ngoài, xen kẽ có các tế bào hình đài tiết dịch
nhày để bảo vệ, cản bụi và làm ẩm không khí.
Lớp đệm có các tuyến hình ống dẫn dịch nhầy ra xoang mũi.
Mạch quản có khả năng trương nở sưởi ấm không khí trước
khi vào phổi.
+ Niêm mạc vùng khứu giác ở phía sau, màu vàng hoặc nâu.
Biểu mô phủ có cơ quan thụ cảm cuả các tế bào thần kinh khứu
giác. Lớp đệm ít các tuyến tiết chất nhờn.
- Mạch quản và thần kinh của xoang mũi: Nhánh của
động mạch hàm và động mạch mặt.
Thần kinh cảm giác từ dây TK V. Các sợi vận động đến từ

thần kinh VII. Thần kinh khứu giác (TKI) xuất phát từ niêm
mạc khứu giác chui qua phiến nằm ngang xương sàng rồi về
thuỳ khứu giác phía trước mặt dưới bán cầu đại não.
* Ngựa: Lỗ mũi có hình dấu hỏi; trong xoang mũi có lỗ đổ ra của
ống dẫn lệ. Cánh mũi cử động linh hoạt. Không có ống cuộn
sàng.
* Bò: Lỗ mũi có hình trứng và cách xa nhau; giữa hai lỗ mũi có
một khoảng rộng là gương mũi môi không có lông nhưng có các
tế bào sắc tố đen và các tế bào tiết chất nhờn nên gương mũi môi
luôn ẩm ướt.
* Lợn: Hai lỗ mũi nhỏ, gương mũi môi rất phát triển.
* Chó: Có gương mũi, giữa gương mũi có rãnh sâu. Cánh mũi
hoạt động linh hoạt. Không có ống cuộn sàng.
2. Các xoang mũi phụ hay các xoang vùng đầu mặt:
Nằm trong lòng các xương vùng sọ mặt. Hầu hết
chúng đều thông với xoang mũi và đảm nhận các chức năng:
- Khi thở một phần không khí vào các xoang này làm giảm khối
lượng của đầu.
- Như hệ thống cộng hưởng âm thanh.
- Niêm mạc lót trong các xoang phần lớn do niêm mạc xoang

20


mũi kéo đến làm thành, do đó khi một xoang bị viêm dễ lan sang
xoang khác và dịch viêm có thể theo xoang mũi chảy ra ngoài.
Các xoang này hợp thành một hệ thống duy nhất ở
ngựa. ở loài nhai lại, lợn, chó gồm 2 hệ thống tách biệt nhau. Các
xoang đầu mặt thường là xoang chẵn và đối xứng nhau qua trục
dọc cơ thể gồm xoang trán, xoang hàm trên, xoang sàng, xoang

bướm, xoang lệ, xoang khẩu cái.
2.1. Xoang trán (sinus frontali)
Là xoang hẹp kẹp giữa hai phiến của xương trán, bao trùm
phần trước và hai bên hộp sọ (ở trâu bò kéo dài đến tận cốt sừng).
Hai xoang trán được ngăn cách nhau bởi 1 vách ngăn ở giữa.
Các xoang trán không thông với xoang hàm trên nhưng thông
với xoang mũi qua các lỗ nhỏ ở đáy xương sàng.
2.2. Xoang hàm trên (sinus maxillari)
Là hai xoang lớn nhất nằm trong lòng xương hàm trên, xương
lệ và xương gò má . Mỗi xoang chia 2 phần:
- Phần trước nhỏ thông vào xoang mũi qua các lỗ rộng dưới
ống cuộn hàm.
- Phần sau lớn hơn thông với ngách thông giữa xoang mũi và
thông với xoang trán qua lỗ mũi hàm. Ống răng trên chia mỗi
phần thành xoang hàm trong và xoang hàm ngoài.
2.3. Xoang sàng (sinus ethmoidal)
Là khe hẹp nằm trong lòng xương sàng thông với xoang mũi
qua khe hẹp ở gốc ống cuộn hàm.
2.4. Xoang khẩu cái: Nằm trong phần thẳng đứng của xương
khẩu cái thông với xoang mũi qua khe hẹp ở gốc ống cuộn hàm.
2.5. Xoang bướm: Có hình tam giác nằm trong thân và phần
trước xương bướm thông với xoang sàng qua lỗ bướm khẩu cái.
2.6. Xoang lệ: Nằm giữa xương lệ, xương trán và ống cuộn mũi.
Hai xoang lệ tách biệt nhau và đều thông với xoang hàm và
xoang mũi.
* Ngựa: gồm xoang trán, hàm trên, xoang khẩu cái, xoang
bướm.
* Bò, trâu: 5 xoang đầu mặt xoang hàm, xoang lệ, xoang khẩu
cái, xoang bướm.
* Lợn: Không có xoang khẩu cái

* Chó chỉ có xoang hàm trên, xoang bướm và xoang trán.
3. Thanh quản
Thanh quản là xoang ngắn hẹp nằm sau yết hầu, trước khí
quản, dưới và sau xương lưỡi thực hiện chức năng dẫn khí và là
cơ quan phát âm
3.1. Cấu tạo
Cốt sụn: Hệ thống các sụn tạo nên xoang thanh quản bao gồm:
- Sụn tiểu thiệt (epiglottis): có hình cánh bèo cái (hình tam
giác), gốc cố định vào sụn giáp trạng, đỉnh tự do hướng vào lòng
yết hầu, phủ ở mặt trước xoang thanh quản, rất dễ cử động, phối

21


hợp yết hầu và màng khẩu cái trong động tác nuốt và thở.
- Sụn giáp trạng ( thyroid cartilage): sụn lớn nhất có hình
giống quyển sách mở gồm gồm 2 mảnh nối với nhau ở thân giáp
trạng tạo nên thành dưới xoang thanh quản. Cạnh trước khớp
với xương lưỡi và sụn tiểu thiệt. Cạnh sau khớp với sụn nhẫn.
- Sụn nhẫn ( cricoid cartilage): giống hình cái nhẫn bao gồm:
Thân: giống mặt đá, to, hướng lên trên, ở giữa có mào giới hạn
trên thanh quản. Đầu trước khớp với sụn phễu, cạnh sau nối tiếp
với vòng sụn khí quản đầu tiên. Quai nhẫn: nhỏ, hướng sau và
xuống dưới ôm lấy phía sau sụn giáp trạng.
- Sụn phễu ( arytenoid cartilage): gồm 2 sụn; đầu trên hai sụn
ghép lại tạo hình. Vòi ấm nằm trước sụn nhẫn, trên sụn giáp
trạng. Mặt trong tạo nên cửa thở. Đầu giữa nhô vào lòng thanh
quản thành u tiếng làm chỗ bám cho các dây tiếng. Đầu dưới
gắn cùng chỗ trên thân sụn giáp trạng. Hai sụn phễu được nối với
nhau bởi. Một dây chằng nhỏ. Các cơ thanh quản gồm 2 nhóm

cơ: cơ nội bộ và cơ ngoại lai. Cơ ngoại lai là các cơ bám có một
đầu bám vào thanh quản, một đầu từ các cơ quan lân cận:
+ Cơ thiệt - giáp: bám từ sừng thanh quản xương lưỡi đến mặt
ngoài cánh sụn giáp trạng. Khi cơ co kéo thanh quản lên trên về
trước
+ Cơ thiệt - tiểu thiệt: là hai băng nhỏ bám từ mỏm lưỡi và đầu
dưới sừng thanh quản của xương lưỡi đến sụn tiểu thiệt. Cơ co
kéo sụn tiểu thiệt lên trên, về trước mở rộng thanh quản khi thở.
+ Cơ ức- giáp trạng bám từ mỏm khí quản xương ức đến mặt
ngoài sụn giáp trạng. Cơ co kéo thanh quản xuống dưới về sau.
Cơ nội bộ liên kết giữa các sụn với nhau gồm các cơ sau:
+ Cơ nhẫn- phễu trên lớn nhất trong nhóm này, bám từ giữa mặt
đá đến 2 sụn phễu tạo hình chữ V. Khi cơ co, kéo hai sụn phễu
về sau làm căng dây tiếng và gây ho.
+ Cơ nhẫn-giáp từ cạnh sau giáp trạng đến mặt ngoài quai nhẫn.
+ Cơ phễu nhỏ, nằm ngay phía trên nối 2 sụn phễu với nhau. Cơ
co kéo sụn mở rộng lòng thanh quản.
+ Cơ nhẫn-phễu bên là cơ nhỏ, nằm lấp bên trong sụn giáp trạng.
Khi cơ co làm hẹp lòng thanh quản.
+ Cơ giáp phễu: cơ mỏng, dẹp, bị sụn giáp trạng che lấp, đi từ
mặt trong cánh giáp trạng đến mặt ngoài u tiếng,
Các mặt thanh quản :
- Mặt trên có mặt đá sụn nhẫn và các cơ nhẫn phễu trên, cơ phễu.
- 2 mặt bên có 2 cánh giáp trạng, quai sụn nhẫn và các cơ nhẫn
giáp.
- Mặt dưới có thân sụn giáp trạng và quai sụn nhẫn. Giữa sụn
nhẫn và sụn giáp trạng có dây chằng nhẫn giáp (liên kết lỏng lẻo)
là nơi phẫu thuật để lấy ngoại vật rơi vào thanh quản.
Niêm mạc : Phủ toàn bộ mặt trong thanh quản bao gồm:
+ Niêm mạc vùng trước cửa thanh quản lót mặt trong sụn tiểu


22


thiệt và một phần sụn phễu, trước u tiếng. Niêm mạc vùng này
rất nhạy cảm, khi vật lạ rơi vào thường gây nên cơn ho dữ dội.
+ Niêm mạc cửa thanh quản: Là 1 khe hẹp hình thoi đỉnh trên là
2 đầu trên sụn phễu, đỉnh dưới ở trên thân sụn giáp trạng, 2 đỉnh
bên là 2 u tiếng.
- Nửa trên hình thoi (giữa 2 sụn phễu) là cửa thở
- Nửa dưới (giữa 2 dây tiếng) là cửa tiếng
- Dây tiếng gồm 2 bó đàn hồi, đầu trên bám vào 2 u tiếng sụn
phễu, đầu dưới bám vào mặt trên thân sụn giáp trạng. Các cơ nội
bộ co rút sẽ thay đổi độ căng của dây tiếng.
+ Niêm mạc phần sau cửa thanh quản nằm sau 2 dây tiếng đến
vòng sụn khí quản đầu tiên và ít nhạy cảm. Niêm mạc thanh
quản được phủ bởi lớp tế bào biểu mô dẹp, nhiều tầng có lông
rung. Lớp đệm có nhiều nang kín lâm ba xen kẽ tổ chức liên kết.
Lớp hạ niêm mạc có các tuyến tiết dịch nhờn ngăn cách với lớp
đệm bởi 1 màng sợi đàn hồi.
Mạch quản và thần kinh:
+ Động mạch thanh quản trước cùng các nhánh của động
mạch giáp trạng trước, động mạch thanh quản sau.
+ Thần kinh: Các nhánh TK đến từ dây X.
3.2. Cơ chế hoạt động và tác dụng của thanh quản:
Nhờ tổ chức sụn và các cơ nên xoang thanh quản có thể mở
rộng hoặc thu hẹp tuỳ theo nhu cầu hô hấp. Thanh quản còn là cơ
quan phát âm.
Sự phát âm là do các cơ nội bộ co giãn, khi cơ co, kéo 2 u
tiếng về sau và sang 2 bên, do đó làm 2 dây tiếng xa nhau làm

mở rộng cửa tiếng, không khí từ phổi đi ra đập vào 2 dây tiếng
sẽ phát ra âm thanh. Tuỳ theo độ căng chùng của dây tiếng sẽ có
âm sắc khác nhau.
4. Yết hầu: pharynx
Vị trí, cấu tạo (xem chương bộ máy tiêu hoá)
Mối quan hệ giữa nuốt và thở
+ Khi thở, màng khẩu cái hạ xuống ôm lấy sụn tiểu thiệt và
đóng cửa thanh quản, ngăn không cho thức ăn từ miệng đi vào;
sụn tiểu thiệt mở ra ở phía trước mở cửa thanh quản để cho
không khí đi từ xoang mũi qua yết hầu xuống thanh quản, khí
quản vào phổi.
+ Khi nuốt màng khẩu nâng lên về sau đậy kín lỗ mũi sau; sụn
tiểu thiệt nâng lên úp lên sụn phễu bịt kín cửa thanh quản; cơ yết
hầu cùng các cơ khác co rút đẩy thức ăn xuống thực quản. Sau
đó màng khẩu cái và sụn tiểu thiệt trở về vị trí ban đầu. Quá trình
hô hấp được tiếp tục.
5. Khí quản:trachea; windpipe
Khí quản là ống hình trụ, cong tròn ở phía trên chạy từ thanh
quản đến rốn phổi có tác dụng dẫn khí. Thanh quản gồm tổ chức
liên kết, cơ trơn và nhiều vòng sụn hình chữ C xếp kế tiếp nhau

23


tạo thành. Đến rốn phổi, khí quản chia thành 2 phế quản gốc
5.1. Hình thái & đường đi : Khí quản có hình ống, chia làm 2
đoạn: đoạn cổ và đoạn ngực.
- Đoạn cổ: từ thanh quản đến cửa vào lồng ngực; phần đầu (2/3
đoạn này) nằm dưới thực quản, giữa các cơ vùng cổ, động mạch
cổ và thần kinh X; trước cửa vào lồng ngực (1/3 sau) nằm song

song phía bên phải thực quản.
- Đoạn ngực từ cửa vào lồng ngực đến rốn phổi; đi giữa 2 lá
phế mạc, dưới thực quản , trên tĩnh mạch chủ trước, bên phải
cung động mạch chủ, phía trước tim, đến khoảng xương sườn 46 khí quản phân làm 2 nhánh phế quản gốc phải và trái. 5.2. Cấu
tạo: Gồm các sụn, tổ chức liên kết, cơ trơn , niêm mạc, mạch
quản&TK.
Các sụn : Khí quản gồm khoảng 50 vòng sụn hình chữ C liên
kết với nhau nhờ các dây chằng vòng.
Hai đầu các vòng sụn ở phía trên và được nối với nhau bởi mô
liên kết đàn hồi và 1 băng cơ trơn vì vậy khí quản luôn phồng lên
cho không khí đi qua, hoặc có thể dẹp xuống khi thực quản ở trên
dãn nở cho thức ăn đi qua.
Một số loài thú thuộc bộ chân bơi (hải cẩu) các vòng sụn khí
quản khép kín hình tròn.
Niêm mạc : lót mặt trong có lớp biểu mô kép trụ có lông rung.
Lớp đệm có tuyến tiết dịch nhầy.
Mạch quản, thần kinh: Một nhánh của động mạch cổ nuôi
đoạn cổ. Nhánh của động mạch thân khí thực quản nuôi đoạn cổ.
Tĩnh mạch đi ngược chiều động mạch và đổ vào tĩnh mạch cổ.
Thần kinh giao cảm đến từ hạch cổ trên và hạch sao. Thần kinh
phó giao cảm là nhánh TK lùi từ TK số X.
6. Xoang ngực và xoang phế mạc:
6.1. Xoang ngực:
Giới hạn xoang ngực:
- Phía trên là các đốt sống vùng lưng (thoracic vertebrae)
- Hai bên là xương sườn, sụn sườn và các cơ liên sườn (ribs,
costal cartilages, sociated muscles)
- Phía trước là cửa vào lồng ngực.
- Phía sau là cơ hoành (diaphragm)
- Dưới là xương ức và các cơ vùng ức (sternum and sternum

muscles)
Xoang phế mạc(fleural cavity)
Nằm trong xoang ngực và được giới hạn giữa hai lá phế mạc
+ Lá thành: Lót mặt trong các xương và các cơ vùng ngực, khi
đi vào đường trung tuyến của xoang ngực hai lá thành áp lưng
vào nhau tạo thành tung cách mạc hay bức ngăn giữa
(mediastrium) chia xoang ngực thành hai nửa không thông nhau.
Giữa hai lớp của tung cách mạc chứa thực quản, khí quản, động
mạch chủ; phía dưới tung cách mạc mở rộng chứa tim.

24


+ Lá tạng: Phủ lướt bề mặt hai lá phổi.
Giữa lá thành và lá tạng tạo thành xoang ảo gọi là xoang phế
mạc. Trong xoang chứa dịch phế mạc (pleural fluid) có tác dụng
bôi trơn và gắn kết lá thành và lá tạng lại với nhau. áp lực trong
xoang phế mạc luôn thấp hơn áp lực không khí bên ngoài gọi là
áp lực âm.
7. Phổi:
Là cơ quan chủ yếu của bộ máy hô hấp nơi diễn ra quá trình
trao đổi khí giữa máu với không khí đã được dẫn vào phổi.
7.1.Vị trí: Hai lá phổi phải và trái nằm trong xoang ngực nối với
nhau qua hai phế quản gốc và được ngăn cách bởi phế mạc giữa
7.2. Hình thái:
Mặt ngoài nhẵn bóng được bao bọc bởi lá phế mạc. Màu sắc
phổi thay đổi theo tuổi. Trên bề mặt có nhiều chấm đen hoặc đỏ
sẫm và có các đường ranh giới giữa các tiểu thuỳ. Mỗi lá phổi
có 2 mặt ( mặt ngoài, mặt trong), 01 đáy và 01 đỉnh.
+ Mặt ngoài hay mặt sườn: lồi, áp sát vào thành trong lồng

ngực, có các vết ấn của xương sườn.
+ Mặt trong hay trung thất (mặt giữa) cong lõm, ôm lấy tim, có
một điểm gọi là rốn phổi và là nơi đi qua của thực quản, động
mạch chủ sau, thần kinh và mạch bạch huyết.
+ Đáy phổi hay mặt sau (mặt hoành) lõm theo chiều cong của
cơ hoành, và áp vào cơ hoành.
+ Đỉnh phổi là phần nhô về trước ở cửa vào lồng ngực giới hạn
bởi đôi xương sườn 1 và mỏm khí quản xương ức.
7.3. Cấu tạo
Phổi được cấu tạo bởi hệ thống ống và các túi rỗng chứa
không khí phân nhánh gọi là cây phế quản. Đi kèm theo các ống
phế quản là các động mạch, tĩnh mạch phổi, các mạch lâm ba,
các đám rối thần kinh nằm xen kẽ.
* Sự phân thuỳ của phổ .(mũi tên ký hiệu thay cho cụm từ tiếp
tục phân thành)
Bên ngoài phổi được bao bọc bởi lá tạng phế mạc. Lá này đi
vào trong phân chia phổi thành các đơn vị phổi từ to đến nhỏ:
Hai lá phổi  các thuỳ phổiặ các phân thuỳ phổi tiểu thuỳ
phổi  cuối cùng là các túi phế nang.
* Sự phân nhánh phế quản tạo thành cây phế quản
Mỗi phế quản gốc từ rốn phổi đi vào mỗi lá phổi  từ 2-5
nhánh phế quản thuỳ (dẫn khí vào 1 thuỳ phổi)  phế quản
phân thuỳ phế quản dưới phân thuỳ phế quản trên tiểu thuỳ
và trong tiểu thuỳ( dẫn khí vào tiểu thuỳ phổi) các phế quản
tận phình ra thành ống phế nang chia thành chùm phế
nang túi phế nang.
Thành phế nang là lớp nội mạc mỏng áp sát lớp nội mạc của
mao mạch, vì thế hồng cầu trong mao mạch dễ dàng thải CO 2 và
nhận O2 của không khí trong lòng túi phế nang.


25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×