Tải bản đầy đủ (.doc) (229 trang)

DẠY HỌC GIÁO DỤC HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 229 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Giáo dục Việt Nam trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có
nhiều biến đổi nhanh và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập Quốc tế về giáo dục đã trở
thành xu thế tất yếu khách quan tác động trực tiếp đến các nền giáo dục trên thế giới.
Bối cảnh quốc tế nêu trên làm cho Triết lý giáo dục thế kỷ 21 có những biến đổi
sâu sắc, trong đó lấy“học thường xuyên suốt đời”dựa trên 4 mục tiêu tổng quát:“Học
để biết, học để làm, học để chung sống và học để tồn tại” nhằm hướng tới xây dựng
một “xã hội học tập”. Chính sự thay đổi này tạo ra áp lực buộc giáo dục phải vận động
đi lên để nhanh chóng đáp ứng “đơn đặt hàng” của thị trường lao động. Luật Giáo dục
của nước CHXHCNVN 2005 (Điều 40, Khoản 2) nêu lên các yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục đại học:“Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi
dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy
sáng tạo, rèn kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”
[21;31]. Chỉ thị số 15/1999/CT - GD - ĐT ngày 20/4/2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
về đẩy mạnh hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập trong các trường sư
phạm nhấn mạnh:“Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập trong các trường sư
phạm nhằm tích cực hóa hoạt động học tập, phát huy tính chủ động, sáng tạo và năng
lực tự học, tự nghiên cứu của học sinh, sinh viên”. Yêu cầu này trở nên cấp thiết đối
với Trường Đại học Quảng Bình, một trong những địa chỉ đáng tin cậy đào tạo đội ngũ
cán bộ chất lượng cao của tỉnh. Làm thế nào để sản phẩm của mình đảm bảo hội tụ đầy
đủ bốn năng lực cơ bản: năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực cá thể,
năng lực xã hội? Những năng lực này lại không sẵn có ở mỗi người, mà nó được hình
thành và phát triển trong nhiều hoạt động khác nhau của con người, trong đó quá trình
dạy học - đào tạo của trường đại học có vai trò quan trọng. Trong trường sư phạm, vai
trò này thuộc về môn Giáo dục học - môn học rèn luyện tay nghề cho sinh viên, giúp
các em hoàn thiện nhân cách người giáo viên trong tương lai. Song vấn đề đặt ra là
làm gì để phát huy tính tích cực của người học thông qua môn Giáo dục học? Làm thế
nào để giúp người học lĩnh hội được phương thức tái tạo và sử dụng tri thức một cách
hợp lý bằng cách thay đổi cơ chế học tập từ chỗ “mang chân lý sẵn có đến cho trò”
sang cơ chế “dạy trò đi tìm chân lý” bởi chính từ sự tìm tòi, khám phá của sinh viên?


1


1.2 Tính tích cực học tập là một phẩm chất vô cùng quý giá của người học trong
xã hội hiện đại. Thực tế đã chứng minh: dạy học chỉ thành công khi và chỉ khi người
học chuyển hóa được những “yêu cầu học tập” của nhà giáo dục thành “nhu cầu học
tập” của bản thân, chuyển “quá trình đào tạo” thành “quá trình tự đào tạo”. Và lúc này
việc học mới trở thành niềm hạnh phúc thực sự đối với học sinhsinh viên và tính nhân
văn trong giáo dục được biểu hiện rõ nét hơn bao giờ hết.
1.3 Qua khảo sát của chúng tôi tại trường Đại học Quảng Bình cho thấy đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học đòi hỏi giảng viên phải từ bỏ thói quen cũ, thói quen độc thoại ít hiệu quả để tổ
chức, hướng dẫn người học “suy nghĩ nhiều hơn, nói nhiều hơn và làm việc nhiều
hơn”. Giảng viên là người tìm mọi cách để khai thác tốt nhất tiềm năng của người học,
là người tổ chức, điều khiển, là người định hướng, là vị “quan toà” anh minh, thông
tuệ trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện…… Sinh viên là yếu tố trung
tâm, là hạt nhân - ngọn đèn cần được khơi gợi, thắp sáng chứ không phải là cái bình để
hứng lấy tất cả những lời giáo huấn. Người học là nhân vật chính, là “bếp trưởng” tạo
ra mâm cỗ, là người “nghệ sĩ” trong bản giao hưởng… chứ không thể phụ thuộc vào
thầy theo lối dạy học thầy đọc - trò chép, rồi phải cố sức để học thuộc nhưng lại chẳng
thể dùng cái đã học thuộc vào công việc sáng tạo… Đây là những khó khăn, trở ngại
không nhỏ đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên không chỉ ở Trường Đại học Quảng
Bình mà còn là khó khăn của thầy và trò của nhiều trường đại học trên toàn quốc.
Những khó khăn trên chính là những biểu hiện của mâu thuẫn giữa cái cũ và cái
mới, giữa cái cách mạng và cái bảo thủ, cái trì trệ đang đặt ra cần phải giải quyết trong
quá trình đào tạo đại học của nước ta.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài: “Dạy học
Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của sinh viên Trường Đại
học Quảng Bình”
2. Mục đích nghiên cứu

Đề Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp dạy học Giáo dục học theo hướng phát
huy tính tích cực của sinh viên Trường Đại học Quảng Bình nhằm nâng cao kết quả
học tập môn Giáo dục học phát huy tính tích cực học tập môn Giáo dục học cho sinh

2


viên nhằm nâng cao kết quả học tập môn Giáo dục học tại Trường Đại học Quảng
Bình.

3


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Giáo dục học ở Trường Đại học Quảng Bình.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực của sinh
viên Trường Đại học Quảng BìnhDạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích
cực học tập môn Giáo dục học của sinh viên trường Đại học Quảng Bình
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay việc dạy học môn Giáo dục học chưa thực sự phát huy tính tích cực
học tập của sinh viên ở mức độ cao. Nếu đề xuất được các biện pháp dạy học Giáo dục
học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên, khơi dậy được nhu cầu, hứng thú
học tập của sinh viên, phát huy vai trò tự giác, độc lập của họ thì sẽ phát huy cao độ
tính tích cực người học góp phần nâng cao kết quả học tập môn Giáo dục học tại
Trường Đại học Quảng Bình.
phát huy tính tích cực học tập phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên,
khơi dậy được nhu cầu, hứng thú học tập của sinh viên, phát huy vai trò tự giác, tích
cực, độc lập của họ trong quá trình học tập thì sẽ góp phần nâng cao kết quả học tập

môn Giáo dục học tại Trường Đại học Quảng Bình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính
tích cực của sinh viên Đại học sư phạm
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy
tính tích cực học tập của sinh viên ở tại Trường Đại học Quảng Bình
5.3. Đề xuất các một số biện pháp dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy
tính tích cực học tập của sinh viên trong quá trình dạy học môn Giáo dục học ở
Trường Đại học Quảng Bình
Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu: 5.3
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn địa bàn nghiên cứu:

4


+ Nghiên cứu trên sinh viên Trường Đại học Quảng Bình, bao gồm: sinh viên
Khoa Mác Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên Khoa Xã hội - Du lịch, sinh viên
Khoa Tự nhiên - Kỹ thuật,. sinh viên Khoa Toán - Tin.
+ Giảng viên dạy Giáo dục học trường Đại học Quảng Bình
+ Các nhà quản lý: Tổ chuyên môn, Khoa, Phòng, Ban Giám hiệu
6.2. Giới hạn thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 8 năm 2013
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Mục đích: Nghiên cứu để giải quyết các vấn đề lý luận như: làm sáng tỏ các
thật ngữ, khái niệm, bản chất của dạy học tích cực và các yếu tố ảnh hưởng đến tính
tích cực của sinh viên.
Biện pháp: Để thực hiện điều đó chúng tôi đã tiến hành phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá, khái quát hoá tri thức, lý luận có liên quan đến đề tài bằng cách nghiên cứu

các văn bản, tài liệu về dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực của
sinh viên.. góp phần giải quyết cả ba nhiệm vụ của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
7.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
Mục đích: Sử dụng phương pháp quan sát nhằm tìm hiểu các biện pháp của
giảng viên khi dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực của người dạy
đồng thời thu thập thông tin về biểu hiện của tính tích cực của sinh viên trong hoạt
động học tập môn học Giáo dục học
Biện pháp: Để thực hiện được điều đó, chúng tôi đã tiến hành dự giờ, thăm lớp.
(Mẫu Biên bản quan sát: Phụ lục 4)
7.2.2. Phương pháp điều tra
Mục đích: Sử dụng phương pháp điều tra nhằm đánh giá thực trạng dạy học
Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực của sinh viên ở Trường Đại học
Quảng Bình.
Biện pháp: Để thực hiện điều đó, chúng tôi đã xây dựng phiếu điều tra và tiến
hành trên đối tượng là cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên.
(Mẫu Phiếu câu hỏi: Phụ lục 4)
5


7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Mục đích: Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm thu thập một số thông tin
cụ thể, góp phần tăng độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
Biện pháp: Để thực hiện điều đó, chúng tôi tiến hành đàm thoại, trao đổi với các
nhà quản lý, giảng viên và sinh viên xoay quanh vấn đề dạy học Giáo dục học theo
hướng phát huy tính tích cực của người học.
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy - học
Mục đích: Để đánh giá hiệu quả dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy
tính tích cực của sinh viên
Biện pháp: Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy – học

bao gồm:
- Bài giảng của giảng viên
- Vở ghi của sinh viên
- Bảng điểm bảng tổng hợp kết quả học tập của sinh viên
(Mẫu nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy - học: Phụ lục 4)
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Mục đích: Thực nghiệm qui trình nhằm chứng minh cho giả thuyết đưa ra ban
đầu: “Nếu đề xuất được các biện pháp dạy học Giáo dục học phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của sinh viên, khơi dậy được nhu cầu, hứng thú học tập của sinh viên, phát
huy vai trò tự giác, độc lập của họ thì sẽ phát huy cao độ tính tích cực người học góp
phần nâng cao kết quả học tập môn Giáo dục học tại Trường Đại học Quảng Bình”.
Biện pháp: Xây dựng qui trình sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học môn Giáo
dục học theo hướng phát huy tính tích cực của sinh viên Trường Đại học Quảng Bình
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Mục đích: Vận dụng toán thống kê để xử lý số liệu kết quả thu được từ các
phương pháp trên từ đó đưa ra kết quả xác thực, thuyết phục về Dạy học Giáo dục học
theo hướng phát huy tính tích cực của sinh viên Trường Đại học Quảng Bình.
Biện pháp: Chúng tôi sử toán thống kê để xử lý và phân tích các kết quả điều
tra được.

6


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa
những tài liệu liên quan đến đề tài để góp phần giải quyết cả 3 nhiệm vụ nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
7.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
Sử dụng phương pháp quan sát (dự giờ,thăm lớp) nhằm tri giác trực tiếp đối

tượng nghiên cứu một cách có hệ thống để thu thập thông tin đầy đủ về đối tượng thực
nghiệm và đối chứng.
(Mẫu Biên bản quan sát: Phụ lục 4)
7.2.2. Phương pháp điều tra
Tiến hành điều tra bằng phiếu câu hỏi với hệ thống câu hỏi để thăm dò ý kiến
của giảng viên và sinh viên về dạy và học theo phương pháp dạy học tích cực.
(Mẫu Phiếu câu hỏi: Phụ lục 4)
7.2.3. Phương pháp trò chuyện
Chúng tôi tiến hành đàm thoại, trao đổi với các nhà quản lý, giảng viên và sinh viên
nhằm tìm hiểu thực trạng dạy và học môn Giáo dục học tại Trường Đại học Quảng
Bình
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy - học
- Bài giảng của giảng viên
- Vở ghi của sinh viên
- Bảng điểm bảng tổng hợp kết quả học tập của sinh viên
(Mẫu nghiên cứu sản phẩm hoạt động dạy - học: Phụ lục 4)
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm được sử dụng để kiểm nghiệm kết quả việc vận dụng các
phương pháp dạy học được nghiên cứu.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm phân tích và xử lý kết quả điều
tra thực nghiệm.

7


Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS mô đun hóa để xử lý và phân tích các kết
quả điều tra được.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu: (7.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm)
8. Dự kiến cấu trúc của luận văn

Cấu trúc của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính
tích cực học tập của sinh viên trong các trường đại học
Chương 2: Thực trạng dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực
học tập của sinh viên Trường Đại học Quảng Bình
Chương 3: Biện pháp dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực
học tập của sinh viên tại Trường Đại học Quảng Bình và Thực nghiệm sư phạm
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo

8


CHƯƠNG 1
DẠY HỌC GIÁO DỤC HỌC THEO HƯỚNG
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Thời cổ đại
Ý tưởng dạy học lấy người học làm trung tâm, chú ý phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học có nguồn gốc từ thời cổ đại và phát triển cho đến nay, thể hiện
qua những ý kiến của các nhà giáo dục tiến bộ.
Chẳng hạn trong nền giáo dục phương Tây cổ đại Socrat (469 - 390 TCN), nhà
triết học, người thầy vĩ đại của Hy Lạp đã từng dạy học trò của mình bằng cách luôn
đặt ra câu hỏi gợi mở nhằm giúp người học dần phát hiện ra chân lý, với phương
châm: “Sự tự nhận thức, nhận thức chính mình” [17,29], phương pháp này thường
được gọi là phương pháp Xôcrat (hay còn gọi là Phép đỡ đẻ) nhằm mục đích phát hiện
ra “chân lý” bằng cách đặt câu hỏi gợi mở cho người nghe dần dần tự tìm ra kết luận.
Phương Đông, Khổng Tử (551 - 479 TCN) nhà giáo dục Trung Hoa cổ đại đã
chú ý dạy theo đối tượng, kích thích suy nghĩ của học sinh. Ông nói:“Không tức giận

vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ được thì sẽ không bày vẽ
cho. Vật có 4 góc, bảo cho biết 1 góc mà không suy ra ba góc thì không dạy nữa”(Bất
phẫn, bất khải, bất phi bất pháp. Cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản, tất bất phục
dã”(Luận ngữ) & “Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì cho là không biết,
thế mới gọi là biết”(Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất trị, thị chi dã) (Luận ngữ). Do đó khi
Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết có biết gì hay không? Thì ông trả lời:“Nhà ngươi
muốn biết người chết có biết gì hay không, thong thả đợi đến lúc chết thì biết”(Khổng
tử gia ngữ). Khổng Tử mong muốn học trò tìm thú vui trong học tập, ngay trong cảnh
túng thiếu, ông vẫn tìm thấy cái vui: “Ăn cơm hẩm, uống nước lã, gặp cánh tay gối
đầu mà ngủ vẫn có cái vui ở trong đó”.
Thời Phục Hưng
Đến thời đại Phục Hưng có nhiều nhà giáo dục tiến bộ đã nêu lên những tư
tưởng quan tâm đến học sinh và chú ý phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh.
Chẳng hạn, Montaigne (1533 - 1592), nhà quý tộc người Pháp, ông chủ trương giảng

9


dạy bằng hoạt động, bằng quan sát trực tiếp hàng ngày, cho trẻ đi du lịch. Muốn giảng
dạy tốt, người thầy phải tìm hiểu học sinh, lắng nghe học sinh “Phải để cho học sinh
chạy trước khi nhận xét” chứ không nên bắt trẻ phải nhắm mắt theo những nhận định
chủ quan của thầy. Ông đã đề ra phương pháp giáo dục “học qua hành”. Ông cho rằng:
“Muốn đạt được mục tiêu này, tốt nhất, kiến hiệu nhất là bắt học trò liên tục hành để
học, học qua hành. Vậy vấn đề không phải là giảng dạy một cách giáo điều, thầy nói
liên tục, thao thao bất tuyệt. Trái lại, chủ yếu bắt trò hoạt động, vận dụng khả năng
xem đoán của mình [34,152,153.]
J. A.Komensky (1592 - 1670, Tiệp Khắc), đòi hỏi người thầy phải làm thế nào
cho học sinh thích thú học tập từ đó cố gắng nỗ lực bản thân để nắm lấy tri thức, ông
đã đưa ra bí quyết về phương pháp dạy học: “Bí quyết của giáo dục là rèn luyện cho
các em một tâm hồn dễ dàng, tích cực, tự do, ngăn cản được các điều mà các em muốn

làm, ngược lại đẩy được các em làm những điều mà chúng không muốn làm” và “chủ
yếu dạy các em tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc vận
dụng vào thực tiễn - qua việc làm chứ không phải qua lời giảng” [29, 226].
J.J. Rút-xô (1712 - 1778), là người đã nêu lên một cách rõ ràng yêu cầu cần
phải hiểu rõ trẻ em và phải quan tâm đến lợi ích của trẻ em. Ông nói: “Nhi đồng phải
là nhi đồng, không nên biến nó thành người lớn thu nhỏ lại” và “Người ta không biết
gì về trẻ em, người ta hay tìm người lớn trong trẻ em và không nghĩ rằng trước khi nó
là người lớn thì nó là cái gì đã”, từ đó, ông KHUYÊN các nhà giáo “Các anh bắt đầu
nghiên cứu kỹ học sinh của các anh đã, vì chắc chắn các anh không biết rõ họ đâu”,
người thầy phải dựa vào sự phát triển của học sinh mà giảng dạy để giúp cho thiên tính
các em được nảy nở, giáo dục phải bảo đảm tính tự do: “Cái chính có thể đưa đến sự
thành công trong giáo dục đó là sự tự do đã được điều chỉnh cẩn thận”, “Đừng cho trẻ
khoa học, mà phải để nó tự phát minh ra”. Như vậy, đến thế kỷ XVIII, dạy học lấy học
sinh làm trung tâm đã trở thành một tư tưởng.
Pê-xta-lo-zi (1746-1827): “Muốn đưa người ta đi đâu thì phải dắt từ chỗ người
ấy đứng” và “Học tập không nên nhảy. Trí tuệ của trẻ em như một đoá hoa tươi: trước
hết là một hạt, dần dần lớn lên đâm ra chồi nụ, sau cùng mới nở hoa”.
A. Distervec (1780-1866), ông đã đề ra yêu cầu đối với thầy giáo phải hiểu tâm
lý học sinh, phải dựa vào cơ sở tâm lý của học sinh, đó là nguyên tắc cơ bản của quá

10


trình dạy học: “Nguyên tắc đó là sao bắc đẩu của nền tảng sư phạm, chung quanh nó
quay tròn tất cả các phương pháp, tất cả cách thức giáo dục, đó là lý tưởng chúng ta
luôn luôn hướng tới”.
Thời cận đại
K.Đ.Usinxki (1822-1873), muốn dạy học tốt người thầy cần hiểu biết đặc điểm
tâm lý lứa tuổi học sinh, ông viết: “Nói chung trẻ em suy nghĩ bằng hình dáng, màu
sắc, âm thanh và cảm giác, vì thế dạy học theo trực quan đối với nhi đồng là cần thiết”,

mặt khác, ông khẳng định: “Nhân cách của người thầy giáo là tất cả trong công tác
giáo dục”, “Người thầy giáo nếu bắt kịp bước tiến của giáo dục hiện đại, sẽ cảm thấy
mình là một thành viên tích cực trong cơ quan có nhiệm vụ khắc phục sự dốt nát và
xấu xa của nhân loại. Đó là người trung gian giữa những nhân vật cao thượng và vĩ đại
của lịch sử và thế hệ đấu tranh cho chân lý và hạnh phúc. Người thầy giáo là khâu
sống giữa quá khứ và tương lai. Sự nghiệp người thầy giáo bề ngoài tuy bình thường,
nhưng đó là một sự nghiệp vĩ đại nhất trong lịch sử”.
Thời hiện đại
John Dewey (1859-1952) chủ trương giáo dục phải dựa vào kinh nghiệm thực
tế của học sinh. Việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú của học sinh, phải để trẻ
em độc lập tìm tòi, thầy giáo là người tổ chức, thiết kế, người cố vấn. Ông cho rằng:
“Nếu một kinh nghiệm khơi dậy sự tò mò, tăng cường tính sáng tạo, gây ra những ham
muốn và mục đích đủ mạnh để đưa một người vượt qua những vùng chết trong tương
lai, khi ấy nó trở thành một động lực” [9,171,172]. Ngoài ra ông quan niệm: “Phương
pháp là phương pháp của năng lực và hứng thú của trẻ em chứ không phải là của người
lớn, những người trưởng thành. Người thầy không phải là một vị quan tòa, một quyền
uy độc đoán trong lớp học, mà người thầy là một thành viên của cộng đồng lớp học. Vì
thế phương pháp sẽ là cái gì đó tự nhiên, không cản trở sự phát triển tự nhiên ở trẻ em,
không thay thế trẻ em bằng những ông cụ non” [9,14].
Đầu thế kỷ XX, các nước có phong trào “Nhà trường mới”, đã đề cao sự hoạt
động tích cực của học sinh, khuyến khích học sinh tự sắp xếp thời gian học tập theo
khả năng của mình, tự mình học lấy cho mình, tự mình thấy trách nhiệm của mình
trước công việc. Học sinh nào giỏi thì học nhanh, học sinh nào kém thì tiến chậm,
không ai đợi ai, không cần sự gò ép. Họ chủ trương để cho em tự do hoàn toàn, phát

11


triển năng khiếu của từng trẻ em riêng biệt. Những tư tưởng này được thể hiện trong
một số phương pháp giáo dục mới nổi tiếng: Kế hoạch Dantơn; Phương pháp thiết kế;

Kế hoạch Ga-ri; Phương pháp Uyn-nét-ca.
Những năm cuối thế kỷ XX các cuộc họp quốc tế cũng đã nhấn mạnh đến vấn
đề lấy học sinh làm trung tâm, Raja Roy Singh: “Sự học tập cho người học chủ đạo;
trong hệ thống dạy học, người học là trung tâm, người học vừa là chủ thể, vừa là mục
đích của quá trình học tập. Ví trí của người học ở trung tâm hay ngoại biên là nét đặc
trưng phân biệt hệ thống giáo dục này với hệ thống giáo dục khác” (Nền giáo dục cho
thế kỷ XXI, những triển vọng của châu Á Thái Bình Dương, 1994, Hà Nội). Quan
điểm lấy người học làm trung tâm làm tăng tính nhân văn của giáo dục và làm cho
người học tự tìm ra tiềm năng của bản thân và thực sự có niềm vui, hạnh phúc. Đây
chính là điểm tựa của nền giáo dục của thế kỷ XXI.
Kharlamop, nhà giáo dục Xô viết trong cuốn phát huy tính tích cực của người
học như thế nào? ở lời nói đầu: “Một trong những vấn đề căn bản của nhà trường Xô
viết hiện đang lo lắng và giải quyết là việc phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận
thức của học sinh trong quá trình dạy học [14,57].
Như vậy, các nhà giáo dục từ xưa đến nay trên thế giới đã nêu nhiều quan điểm,
ý tưởng khác nhau về tư tưởng dạy học lấy học sinh làm trung tâm, nhưng giữa họ có
những điểm chung giống nhau:
Trong quá trình dạy học phải chú ý đến đặc điểm sinh lý của học sinh, trẻ em là
trẻ em chứ không phải người lớn thu nhỏ lại và mọi trẻ em đều có nét riêng. Vì vậy,
phải chú ý đến đặc điểm, quyền lợi của từng cá thể học sinh.
Phải tạo điều kiện để cho học sinh hoạt động, kích thích học sinh hoạt động một
cách tích cực, sáng tạo. Phải cho học sinh tiếp xúc với thực tế xã hội, thiên nhiên, qua
đó để tích luỹ vốn cần thiết.
Nêu đúng mức vai trò của giáo viên, định hướng, tổ chức, điều khiển hoạt động
dạy - học.
Những ý kiến trên, lúc đầu chỉ là một ý tưởng của một số nhà giáo dục tiến bộ,
dần dần phát triển thành phong trào (nhà trường mới) và cuối cùng đã trở thành quan
điểm chính sách giáo dục của một số nước.

12



Phạm vi quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm” lúc đầu chỉ hạn chế
trong phạm vi quá trình dạy học (phương diện vi mô), sau mở rộng ra cả quá trình giáo
dục và đào tạo và cả hệ thống giáo dục (phương diện vĩ mô).
Dạy học lấy người học làm trung tâm là một quan điểm đúng đắn, tiến bộ, ngày
càng được phát triển và mở rộng, phù hợp với yêu cầu của thời đại.
1.1.2. Ở Việt Nam
Mầm mống tư tưởng dạy học “Lấy người học làm trung tâm” cũng có từ lâu. Cha
ông ta có câu nói, thuật ngữ như: “Không thầy đố mày làm nên”, “Học một, biết mười”,
“Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, “Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục”.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta đã từng có phong trào học tập
dân chủ, phong trào học tổ, nhóm, có chủ trương biến quá trình đào tạo thành tự đào
tạo, phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh, với khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh
thân yêu”.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, phát huy tính tích cực của học sinh đã được
đề cập đến trong các giáo tình Giáo dục học, Tâm lý học, Phương pháp giảng dạy bộ
môn. Trong các trường sư phạm đã xuất hiện tư tưởng “Phương pháp giáo dục tích
cực” với khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo”. Đặc biệt năm 1979, tập
thể cán bộ trung tâm thực nghiệm phổ thông Giảng Võ - Hà Nội (Trung tâm công nghệ
giáo dục) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đề tài cấp Nhà nước với tên gọi: Mô
hình nhà trường mới theo khả năng phát triển tối ưu của trẻ em Việt Nam hiện đại, do
Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại giám đốc trung tâm làm chủ nhiệm. Toàn bộ hoạt động giáo dục
đều xuất phát từ trẻ em, bằng hoạt động của mình, theo quy trình công nghệ, mỗi em
tự làm ra sản phẩm giáo dục tức là tự đào tạo chính mình với sự giúp đỡ của thầy, cô.
Công trình nghiên cứu khoa học đã được hội đồng khoa học nghiệm thu và đánh giá
kết quả tốt.
Tư tưởng “Lấy người học làm trung tâm” được tiếp nhận ở nước ta một số năm
gần đây, trong thời kỳ đổi mới phương pháp, theo Nghị quyết Trung ương 4 (1/1993)
khoá VII và Nghị quyết Trung ương 2 (12/1996, khoá VIII) nêu rõ: “Đổi mới mạnh

mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự

13


nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển phong trào tự học, tự đào
tạo thường xuyên và rộng khắp toàn dân” nó là cơ sở định hướng, khuyến khích quan
điểm dạy học tích cực, thể hiện tư tưởng dạy học “Lấy người học làm trung tâm”. Đó
chính là sự phát triển tiến lên một bước mới về ý tưởng cải tiến phương pháp dạy học,
bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, và đó cũng chính là quá trình tích luỹ được
những kinh nghiệm từ cải tiến phương pháp theo hướng: “Biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo”, “Thầy chỉ đạo, trò chủ động”, “Dạy học cá thể hoá”, “Dạy học
nêu vấn đề”.
Luật Giáo dục của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội
thông qua tháng 12/1998 ở Điều 4, mục 2: “Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo
dục” đã nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên”, là cơ sở pháp lý cho ngành giáo dục triển khai có hiệu quả phương pháp
dạy học tích cực ở trong tất cả các bậc học. Điều cốt lõi được nhấn mạnh trong sự tiếp
thu ý tưởng này là tinh thần tự học, tự nghiên cứu, tự chủ của người học và vai trò của
người thầy, xét đến cùng là giúp cho học sinh cách học, giúp cho học sinh tự hiểu biết
bản thân để tự học có hiệu quả. Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Trần Hồng
Quân đã viết: “Muốn đào tạo được con người khi bước vào đời là con người tự chủ,
năng động và sáng tạo thì phương pháp giáo dục cũng hướng vào việc khơi dậy, rèn
luyện và phát triển khả năng suy nghĩ và làm chủ một cách tự chủ, năng động và sáng
tạo. Người học tích cực học bằng hành động của mình. Người học tự tìm hiểu, phân
tích, xử lý tình huống và giải quyết vấn đề, khám phá cái chưa biết. Nhiệm vụ của
người thầy là chuẩn bị cho học sinh thật nhiều tình huống chứ không phải nhồi nhét

thật nhiều kiến thức vào đầu óc học sinh” [30,5].
Những năm gần đây, vấn đề dạy học tích cực đã và đang là chủ đề nóng hổi đối
với nền giáo dục chúng ta nhất là bậc đại học. Đã có nhiều bài viết, , nhiều công trình
nghiên cứu về tính tích cực cũng như biện pháp nâng cao tính tích cực nhận thức của
sinh viên, chẳng hạn như:
- Ths Trần Thị Thái Hằng với bài viết: Đổi mới phương pháp dạy và học theo
tín chỉ.

14


- Tác giả Ngô Tứ Thành với bài viết: Giải pháp đổi mới phương pháp giáo dục
ở các trường đại học ICT hiện nay
- Võ Thị Ngọc Châu với đề tài: “ Nghiên cứu nhu cầu thành đạt và quan hệ của
nó với tính tích cực nhận thức của sinh viên”.
- Nguyễn Ngân Giang nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lý hoạt động học
tập theo hướng nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trường Cao
đẳng giao thông vận tải”.
- Đào Quốc Trí nghiên cứu: “ Một số biện pháp tổ chức quá trình học tập nhằm
phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên các trường kỹ thuật quân sự”.
Ngoài ra, các nhà Giáo dục học như Phan Trọng Luận, Lê Khánh Bằng, Phạm
Viết Vượng, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Hữu Long trong những bài viết của mình
đều kiến giải về tính tích cực của học sinh, sinh viên trên các giác độ như sự tìm tòi,
say mê khám phá tri thức, khai thác nội lực người học. Do dó, vấn đề trên cần được
tiếp tục nghiên cứu Tuy nhiên, chưa có tác giả nào nghiên cứu tích tích cực học tập
môn Giáo dục học cuả sinh viên Đại học sư phạm một cách sâu sắc. vVì vậy, chúng tôi
quyết định chọn vấn đề “Dạy học Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực học
tập của sinh viên trường Đại học Quảng Bình” làm đề tài của Luận văn.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1.Dạy học

““Dạy học là sự tác động qua lại giữa người dạy và người học với mục đích là
người dạy truyền thụ cho người học kinh nghiệm xã hội” [27,33]. Như vậy, dạy học là
một quá trình nhận thức độc đáo của người học dưới sự chỉ đạo của giáo viên, là một
quá trình thống nhất biện chứng trong mối quan hệ “giáo viên - học sinh” mang tính
tích cực nhằm đạt được chất lượng và hiệu quả dạy họcQuá trình dạy học là một quá
trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích
cực, chủ động tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm
thực hiện những nhiệm vụ dạy học” [25;139]
.
Dạy ( hoạt động dạy học) là hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động
nhận thức – học tập của học sinh, giúp học sinh khám phá tri thức qua đó thực hiện có

15


hiệu quả chức năng học của bản thân. Họa động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người
giáo viên đối với hoạt động nhận thức – học tập của người học sinh thể hiện như sau:
- Đề ra mục đích, yêu cầu nhận thức – học tập
- Xây dựng kế hoạch hoạt động của mình và dự tính hoạt động tương ứng của
người học
- Tổ chức kế hoạch hoạt động dạy của mình với hoạt động nhận thức – học tập
tương ứng của người học
- Kích thích tính tự giác, tính tích cực, độc lập, chủ động sáng tạo của người học
bằng cách tạo nên nhu cầu, động cơ hứng thú, khêu gợi tính tò mò, ham hiểu biết của
người học, làm cho họ ý thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ học tập của mình.
- Theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học, qua đó mà có những
biện pháp điều chỉnh, sữa chữa kịp thời những thiếu sót, sai lầm của họ cũng như công tác
giảng dạy của mìnhquá
trình tổ chức nhận thức cho người học của giáo viên được thực hiện thông qua
những dạng hoạt động lý luận và thực tiễn khác nhau. Bản chất của quá trình dạy học là tổ

chức cho người học hoạt động nhận thức nhằm phát huy tính tích cực, tự giác lĩnh hội hệ
thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo hoạt động trí tuệ và hoạt động trí tuệ dưới sự hướng dẫn ít
nhiều của giáo viên để đạt chất lượng, hiệu quả dạy học. Trong quá trình này, người học
luôn hoạt động tích cực, người dạy phải tăng cường củng cố kiến thức cho người học,
khen thưởng, xác nhận một cách kịp thời.
Học (hoạt động học tập) là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Việc học
của con người diễn ra dưới hai hình thức: Học có chủ định và học không có chủ định.
* Học không có chủ định (học ngẫu nhiên): Nghĩa là người học lĩnh hội tri thức,
kinh nghiệm, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cũng như phương thức hành vi thông
qua việc thực hiện các hoạt động khác nhau trong đời sống hàng ngày. Đây là dạng
học được thực hiện một cách không chủ định, không có mục đích đặt ra từ trước, kết
quả là: những kinh nghiệm thông qua cách học này không trùng với mục đích của
chính hoạt động hay hành vi. Người học chỉ lĩnh hội những gì liên quan trực tiếp tới
nhu cầu, hứng thú, các nhiệm vụ trước mắt còn những cái khác thì bỏ qua. Với cách
học này chỉ mang lại cho con người những kiến thức tiền khoa học, có tính chất ngẫu
nhiên, rời rạc và không hệ thống chứ chưa phải là những tri thức khoa học. Tuy nhiên,

16


trong thực tiễn để tồn tại và phát triển cũng như để cải biến hiện thực, con người
không chỉ dừng lại trong cách học ngẫu nhiên. Xã hội luôn phát triển đòi hỏi con
người phải có những tri thức khoa học, phải hình thành những năng lực thực tiễn mà
cách học ngẫu nhiên dựa trên cơ sở hoạt động sống hàng ngày không thể đáp ứng
được. Do vậy, con người phải tiến hành hoạt động học tập có hiệu quả hơn đó là học
có mục đích.
* Học có chủ định (hay hoạt động học tập) là sự tiếp thu tri thức, biến đổi hành vi
có mục đích đặt ra từ trước. Sự học này diễn ra trong hoạt động mà mục đích trực tiếp
của nó là học một cái gì đó với các phương pháp và những điều kiện xác định. Người ta
gọi hoạt động này là hoạt động học tập, một hoạt động đặc thù chỉ có ở con người.

Hoạt động học tập được thực hiện chủ yếu trong nhà trường, do người học
thực hiện dưới sự hướng dẫn của người dạy nhằm lĩnh hội những tri thức, khái
niệm khoa học và hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, thái độ tương ứng làm phát
triển trí tuệ và năng lực con người để giải quyết các nhiệm vụ cuộc sống đặt ra.
Học là vấn đề được nhiều tác giả, các nhà tâm lý học, giáo dục học nghiên cứu
và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về nó.
Trong giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm dùng cho các trường
Đại học và Cao đẳng sư phạm của các tác giả: Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn
Thàng đã định nghĩa về hoạt động học tập: Là hoạt động đặc thù của con người được điều
khiển bởi mục đích tự giác lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình
thức hành vi và những hoạt động, những giá trị nhất định thể hiện ở sản phẩm giáo dục.
Trần Thị Tuyết Oanh [25,135] khẳng định: Hoạt động học là hoạt động tự giác,
tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình
nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, tự làm
phong phú những giá trị của mình.
Phan Trọng Ngọ [23] phân tích hoạt động học dưới góc độ triết học. Tác giả
cho rằng, học xuất phát từ nhu cầu của cá nhân, được thực hiện một cách có chủ ý với
mục đích định trước và được triển khai bởi một hoạt động đặc thù – hoạt động học.
Trong thực tiễn, hoạt động học có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú:
Học tập chính thức: diễn ra trong một quy trình chặt chẽ về thời gian, không gian, có
tổ chức, có kế hoạch và được điều khiển trực tiếp bởi người dạy; Học tập không chính
thức: Được triển khai một cách linh hoạt, ít chịu sự ràng buộc bởi yếu tố kế hoạch và
sự điều khiển trực tiếp của người dạy.
17


Tóm lại, từ sự phân tích các luận điểm của các tác giả về hoạt động học tập,
chúng ta có thể hiểu: Hoạt động học tập là hoạt động của người học nhằm lĩnh hội tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo,… để hình thành và phát triển nhân cách, đáp ứng yêu cầu xã
hội đặt ra.

Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động dạy và hoạt động học
Dạy và học là hai hoạt động tác động và phối hợp với nhau, nếu thiếu một trong
hai hoạt động đó thì quá trình dạy học sẽ không diễn ra. Chẳng hạn, nếu thiếu hoạt
động dạy của giáo viên thì quá trình đó chuyển thành quá trình tự học của học sinh.
Còn nếu thiếu hoạt động học của học sinh thì hoạt động dạy sẽ không diễn ra, do đó sẽ
không diễn ra quá trình dạy học. Quá trình dạy và học liên hệ mật thiết với nhau, diễn
ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ sẽ tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt
động học, từ đó sẽ tạo nên hiệu quả của quá trình dạy học.
Học (hoạt động học tập) là một quá trình hoạt động tự giác, tích cực của người
học nhằm lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ, thể chất và hình thành
nhân cách của bản thân, như vậy học là nhằm biến đổi những yêu cầu của xã hội thành
những phẩm chất và năng lực cá nhân. Học xét về bản chất là quá trình tiếp thu, xử lý
thông tin bằng các hành động trí tuệ và tay chân, dựa vào vốn sinh học và vốn kinh
nghiệm đã có của cá nhân, từ đó hình thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ mới. Như
vậy, trong hoạt động học bao gồm cả hoạt động tự học. Tuy nhiên, nhấn mạnh tự học
là muốn nói đến sự tự giác, tích cực và độc lập cao trong quá trình chiếm lĩnh kiến
thức của người học.
Quá trình dạy học là một tổ hợp phức tạp và năng động những hoạt động của
giáo viên ( hoạt động dạy) và của người học ( hoạt động học), được thực hiện có mục
đích, có tổ chức, có phương pháp, có nguyên tắc trong những điều kiện nhất định, với
những phương tiện nhất định. Hoạt động dạy và hoạt động học là một hệ thống cân bằng
động gồm tất cả các nhân tố nói trên tác động qua lại lẫn nhau theo những quy luật và
nguyên tắc nhất định nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học đạt chất lượng và hiệu quả
Theo tác giả Đặng Văn Đức: “Dạy học về bản chất là một quá trình thiết kế và
góp phần thi công của người giáo viên và học tập về bản chất là một quá trình tự thiết
kế và trực tiếp thi công của người học sinh có sự hướng dẫn, hỗ trợ ít nhiều của người
giáo viên nhằm đạt chất lượng và hiệu quả dạy học [10,31].

18



Cấu trúc của quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn gồm ba thành tố cơ
bản: khái niệm khoa học, dạy và học. Trong đó khái niệm khoa học là nội dung của bài
học và là đối tượng của sự lĩnh hội bởi người học, nó là một trong hai thành tố khách
quan, quyết định lôgic của bản thân quá trình dạy học về mặt khoa học. Hoạt động học
là yếu tố khách quan thứ hai quy định lôgic của quá trình dạy học và lý luận dạy học,
nghĩa là quá trình phát triển trí dục và quy luật lĩnh hội của người học có ảnh hưởng
quyết định việc tổ chức quá trình dạy học, nó gồm chức năng lĩnh hội và tự điều kiển.
Hoạt động dạy bao gồm hai chức năng truyền đạt và điều khiển, hai chức nay luôn
tương tác và thống nhất với nhau. Dạy phải xuất phát từ lôgic khoa học của khái niệm
và lôgic sư phạm của tâm lý học lĩnh hội.
Như vậy, khái niệm dạy học mà tác giả Đặng Văn Đức đưa ra là khái niệm phù
hợp với dạy học tích cực trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Tính tích cực học tập
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Bởi lẽ,
con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động sản xuất
ra những của cải cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, sáng tạo ra nền văn hoá ở
mỗi thời đại, chủ động cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản
thân mình. Như X.L. Rubinstêin đã từng khẳng định: “Con người chỉ thực sự nắm được
cái mà chính bản thân giành được bằng lao động của chính mình” [15,19].
Hình thành và phải triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ cơ
bản của gia đình, nhà trường và xã hội. Đồng thời nó là nhiệm vụ chủ yếu của giáo
dục, nhằm đào tạo ra những con người năng động, thích ứng góp phần vào phát triển
cộng đồng. Có thể xem tính tích cực vừa là điều kiện vừa là kết quả của sự phát triển
nhân cách trong quá trình giáo dục.
Tính tích cực của học tập
Tính tích cực của con người biểu hiện đa dạng phong phú trong hoạt động sống,
đặc biệt trong những hoạt động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo
của sinh viên.
Tính tích cực trong hoạt động học tập về thực chất là: “Tính tích cực của nhận

thức, thể hiện ở đặc trưng khát vọng về hiểu biết, sự cố gắng về trí tuệ và nghị lực cao
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức [10,88]. Giáo sư Nguyễn Ngọc Bảo: “Tính tích cực

19


nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở
mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề học tập nhận thức. Nó
vừa làm mục đích, vừa là phương tiện, vừa là kết quả của hoạt động. Nó là sản phẩm
của cá nhân” [2,8,9].
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tính tích cực của hoạt động học tập,
nhưng giữa chúng đều có những điểm chung giống nhau, thể hiện ở những khía cạnh
cơ bản sau:
Học tập là quá trình người học phải “khám phá” ra những hiểu biết mới đối với
bản thân. Người học phải hiểu, ghi nhớ những gì mình đã lĩnh hội được thông qua sự
nỗ lực của chính bản thân.
Tính tích cực của học tập biểu hiện thông qua những dấu hiệu sau: chuẩn bị đầy
đủ các bài tập, câu hỏi mà giảng viên hướng dẫn, đến lớp hăng hái trả lời các câu hỏi
của giảng viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, chủ động phát biểu ý kiến, quan điểm
của mình trước những vấn đề giảng viên nêu ra, nêu những thắc mắc, yêu cầu giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ, chủ động vận dụng kiến thức đã học để nhận thức
vấn đề mới, trong quá trình học tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì hoàn
thành các loại bài tập, không chùn bước trước những tình huống khó khăn.
Tính tích cực của học tập được hợp thành từ các nhân tố: động cơ, định hướng,
năng lượng, đánh giá. Thành phần động cơ bao gồm: nhu cầu, hứng thú, động cơ;
Thành phần định hướng: người học ý thức được mục đích học tập, mục đích nhận
thức, lập kế hoạch cho hoạt động học tập; Thành phần năng lượng gồm: Sự tập trung
trí tuệ và thực hành các kỹ năng, kỹ xảo theo mục đích của hoạt động, và ý chí nỗ lực
cao độ nhằm bảo đảm mức độ cao tính tích cực, tự nhận thức có mục đích của bản
thân; Thành phần đánh giá: Người học tiếp nhận có hệ thống những thông tin về tiến

trình hoạt động nhận thức của mình trên cơ sở tự kiểm tra, tự đánh giá.
Tính tích cực của học tập của người học là một quá trình rèn luyện kiên trì, từ
thấp đến cao, thể hiện qua các bước sau: Bắt chước, tìm tòi, sáng tạo. Bắt chước là cố
gắng làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn; Tìm tòi là tính độc lập tự giải
quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề. Sáng
tạo, tìm kiếm cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Để tiến hành đánh giá xem hoạt động học tập của sinh viên có tích cực hay
không? Có nhiều căn cứ để đánh giá, song có thể dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau:
tính lựa chọn, thái độ đối với đối tượng, tự đề ra cho mình mục đích, nhiệm vụ cần giải
20


quyết sau khi đã lựa chọn được đối tượng, cải tạo đối tượng trong hoạt động nhằm giải
quyết vấn đề.
Tính tích cực có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình học tập của mỗi sinh
viên, bởi nó chính là động lực bên trong thúc đẩy sự phát triển trí tuệ cũng như nâng
cao chất lượng các thao tác hoạt động của trí tuệ, đặc biệt là các thao tác của tư duy,
giúp cho mỗi sinh viên nắm vững tri thức, phát triển độ sâu, rộng, tính độc lập, tính
mềm dẻo, tính nhất quán, tính linh hoạt, tính phê phán trong quá trình lĩnh hội, tiếp
nhận kiến thức mới, trên cơ sở đó hình thành và phát triển năng lực sáng tạo. Ngoài ra
nó còn giúp cho sinh viên hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa, tác phong làm việc, học tập nền nếp, có khí thế và lòng say
mê khoa học.
1.2.3. Sinh viên và sinh viên sư phạm
Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị cho hoạt động
sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt bao gồm hàng triệu
sinh viên trên thế giới, nhóm này rất cơ động mà mục đích hoạt động của nó được tổ
chức theo một chương trình nhất định của việc chuẩn bị thực hiện vai trò xã hội và
nghề nghiệp cao trong lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần. Nhóm xã hội này sẽ bổ
sung cho nguồn trí thức xã hội trong tương lai.

Sinh viên là người học trong bậc giáo dục đại học trình độ cao đẳng và đại học. Hoạt
động học tập của sinh viên vừa là sự tiếp nối của quá trình học tập bậc giáo dục phổ thông
vừa là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới trong quá trình học tập có tính chất nghiên cứu
chuyên sâu vào một lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp nhất định. Mặc dù vậy, có thể nhận
ra sự khác biệt cơ bản về mục tiêu, nội dung chương trình và phương thức đào tạo ở đại học
so với bậc giáo dục phổ thông nhưng hoạt động học tập của sinh viên ở đại học không thể
tách rời hoạt động nhận thức để khám phá tri thức, chiếm lĩnh tri thức và sáng tạo tri thức,
qua đó phát triển các năng lực tương ứng.
Sinh viên hiện đại có độ tuổi từ 18 đến 23 là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể
lực sang trưởng thành về phương diện xã hội. Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực
nhất về tình cảm đạo đức và thẫm mĩ, là giai đoạn hình thành và ổn định về tính cách. Đặc
biệt là họ có vai trò xã hội của người lớn. Người sinh viên có kế hoạch riêng cho hoạt động
của mình và độc lập trong phán đoán, hành vi. Trong thời kỳ này sinh viên có sự biến đổi
21


mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến hoạt động nghề nghiệp. Họ xác
định con đường sống tương lai, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đây cũng là thời kỳ sinh viên có thể đạt đỉnh cao về thể
thao và bắt đầu thành đạt trong khoa học và nghệ thuật. Do đó, đặc điểm nổi bật trong cấu
trúc tâm lý của sinh viên đó là tự ý thức và định hướng giá trị nghề nghiệp là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt ba giai đoạn phát triển của tập thể sinh viên. Thuật ngữ "SV" có nguồn gốc từ tiếng

Latinh (student có nghĩa là người làm việc học tập nhiệt tình, người tìm kiếm khai thác
tri thức). Nó được dùng nghĩa tương đương từ "student" trong Tiếng Anh; để chỉ
những người theo học ở bậc Cao Đẳng, Đại học.
Khái niệm sinh viên được sử dụng rộng rãi ngày nay và được các nhà nghiên
cứu chấp nhận với nghĩa sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt, là những
người đang trong quá trình tích luỹ tri thức nghề nghiệp để trở thành những chuyên gia
có trình độ chuyên môn cao, hoạt động, lao động trong một lĩnh vực nhất định có ích

cho xã hội [28].
Sinh viên sư phạm là nhữnviesinh viên đang học tập rèn luyện trong các trường
Cao đẳng, Đại học Sư phạm, được đào tạo theo một chương trình chuyên biệmootjsinh
viên có nhiệm vụ học tập, tích luỹ tri thức, trau dồi đạo đức, rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm phát triển nhân cách toàn diện để trở thành những giáo viên, giảng viên trong
tương lai.
1.2.4. Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
* Hoạt động học tập của sinh viên
Khác với hoạt động lao động, hoạt động học tập không làm biến đổi đối tượng
mà làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức
khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất
nhân cách người chuyên gia tương lai. Do đó, nhiệm vụ cơ bản của sinh viên là giải
quyết các nhiệm vụ học tập do cán bộ giảng dạy và do chính mình đề ra, phải hoàn
thiện các hành động học tập làm sao để biết cách học, có nhiệm vụ tự kiểm tra và tự
đánh giá kết quả học tập của bản thâvieeninh viên nào biết tổ chức quá trình học tập và
chủ động các nhiệm vụ học tập mới mong có kết quả cao. Đứng trước yêu cầu đòi hỏi
này, hoạt động học tập củviesinh viên mang những đặc điểm nổi bật sau:
- Tính chuyên nghiệp: Học tập củviesinh viên hướng vào việc hình thành, phát

22


triển và hoàn thiện nhân cách người chuyên gia trong lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng.
Vì vậy, so với hoạt động học tập của hocj sinh phổ thông, việc học tập của sinh viên
có sự thay đổi rất lớn. Học tập củviesinh viên mang tính đặc trưng của hoạt động nghề
nghiệp tương lai. Vì vậy, trong quá trình học tập sinh viên phải xây dựng cho mình
vốn hành trang trí tuệ và nhân cách đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp sau này. Hoạt động
học tập cvieesinh viên thực sự là lao động trí óc căng thẳng. Cường độ hoạt động phụ
thuộc vào nội dung và tính chất phức tạp của các nhiệm vụ, vào trình độ tri thức, vào
các kỹ năng và kỹ xảo trí óc vào động cơ và tâm thế chung của nhân cách người sinh

viên. Vì vậy, cần có sự động viên có mục đích đối với sinh viên trong quá trình giảng
dạy và có sự chỉ dẫn cần thiết nhưng không áp đặt đối với sinh.
- Tính độc lập trí tuệ cao trong học tập: do yêu cầu của việc đào tạo chuyên gia
tương lai nên học tập của sinh viên đòi hỏi mức độ độc lập trí tuệ cao sinh viên phải tự
ý thức về học tập của bản thân. Quá trình học tập của sinh viên nhằm xây dựng
phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học độc lập, tự chủ. Tính độc lập trong học tập
của sinh viên thể hiện trong suốt quá trình học tập, từ việc tích giải quyết các nhiệm vụ
học tập đến việc sưu tầm tài liệu tham khảo, lập kế hoạch học tập phù hợp và thực hiện
nó. Học tập của sinh viên có tính chất nghiên cứu ngoài giờ lên lớp sinh viên có thể đi
thư viện đọc tài liệu tham khảo, tự bổ sung cập nhật thông tin. Tự ý thức về hoạt động
nghề nghiệp tương lai là vấn đề quan trọng trong học tập của sinh viên. Nó được thể
hiện ở sự giác ngộ về động cơ, mục đích, biện pháp học tập. Nghĩa là sinh viên phải tự
ý thức về bản thân với tư cách là người tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình học tập.
- Tính sáng tạo: trong thời đại ngày nay, khối lượng kiến thức sinh viên cần lĩnh
hội là rất lớn, đồng thời việc học tập của sinh viên không chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội
tri thức mà còn gắn liền với việc tham gia nghiên cứu khoa học đòi hỏi tính sáng tạo
cao. Học tập của sinh viên gắn liền với tinh thần sáng tạo, phát triển năng lực sáng tạo
trên cơ sở kế thừa và nắm vững hệ thống lý luận chuyên nghiệp. Tính sáng tạo của sinh
viên một mặt xuất phát từ kết quả của sự trưởng thành lứa tuổi, mặt khác do yêu cầu bản
thân hoạt động học tập của sinh viên trong thời đại mới.
- Tính thực tiễn: Sinh viên học tập với tính năng động cao phải biết dự đoán chiều
hướng phát triển và ứng dụng chuyên môn vào thực tiễn như thế nào. Trong học tập sinh
viên cần chú trọng phương pháp bộ môn, chuyên ngành, cách thức nghiên cứu khoa học,

23


thực hành, thí nghiệm, phục vụ cho nghề nghiệp tương lai. Quá trình học tập của sinh
viên trên cơ sở nắm vững hệ thống kiến thức lý luận ở tầm cao, phát triển kỹ năng ứng
dụng và năng lực sáng tạo trong một chuyên môn hẹp. Tính thực tiễn trong học tập của

sinh viên còn cho thấy sự đáp ứng về những đòi hỏi của xã hội với việc đào tạo đội ngũ
chuyên gia trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội trong thời đại mới. Ngày
nay, ngoại ngữ và tin học là những yêu cầu mang tính thời đại đối với sinh viên, với tư
cách là phương tiện học tập, "chìa khoá" để mở ra kho tàng tri nhân loại và nghề nghiệp
trong tương lai. Từ đặc điểm trên kéo theo sự thay đổi về nội dung phương pháp và những
điều kiện học tập của SV so với học sinh phổ thông và các hệ bồi dưỡng khác. Nội dung
học tập của sinh viên cần đáp ứng yêu cầu chuyên sâu và tiếp cận với các mũi nhọn của
sự phát triển các lĩnh vực văn hoá, khoa học, phục vụ việc hành nghề trong tương lai.
Phương pháp học tập của sinh viên không chỉ đảm bảo việc tiếp thu kiến thức, mà còn
phải có tính chất nghiên cứu khoa học. Phương tiện học tập phong phú mang tính đặc
trưng nghề nghiệp như tài liệu chuyên ngành, phòng thí nghiệm, thiết bị bộ môn, Internet.
Sự phong phú về nguồn tài liệu, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ giảng viên có trình độ cao
luôn thay đổi đáp ứng yêu cầu chuyên sâu, quan hệ giữa giảng viên và sinh viên có nhiều
thay đổi so với ở phổ thông. Quá trình học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi hệ thống
nhu cầu động cơ học tập mang tính nghề nghiệp chuyên môn rõ rệt.
Hoạt động học tập của sinh viên được chia làm ba dạng:
+ Hoạt động học tập ở trên lớp.
+ Hoạt động học tập ngoại khoá.
+ Hoạt động học ngoài lớp không bắt buộc (tự giác)
Hoạt động học tập của sinh viên trên lớp được quy định bởi kế hoạch và
chương trình học tập các bộ môn phải nghiên cứu, được thể chế hoá bằng thời khoá
biểu theo chương trình đặc biệt và trong những giảng đường được trang bị một cách
tương ứng. Trong tất cả mọi trường hợp hoạt động học tập trên lớp đều được tiến hành
dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Hoạt động học tập ngoài lớp không bắt buộc
đối với sinh viên, sự tiêu tốn thời gian cho hoạt động này không được ấn định trong
thời khoá biểu, bản thân sinh viên lựa chọn chế độ, thời gian hoạt động tuỳ theo năng
lực và sự nỗ lực cụ thể của mình. Những hoạt động này không có sự kiểm tra trực tiếp
của nhà sư phạm, nhưng các kết quả được họ phân tích và đánh giá. Hoạt động ngoài

24



giờ lên lớp không bắt buộc có liên quan tới việc nghiên cứu sâu và toàn diện các bộ
môn chuyên ngành của sinh viên không dựa vào kế hoạch học tập nhưng nó mở rộng
tầm hiểu biết và đào sâu kiến thức chuyên môn đã chọn. Hoạt động này làm nổi bật
đặc điểm về tính sáng tạo và độc lập trong học tập của sinh viên, bao gồm hoạt động tự
học, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Hoạt động này cần có sự hướng
dẫn của cán bộ giảng dạy.
Tóm lại, hoạt động học tập của sinh viên thực sự là một loại lao động trí óc
căng thẳng. Học tập của sinh viên diễn ra trong môi trường chuyên nghiệp mang tính
chất đặc thù của nghề nghiệp tương lai như của ngành học. Nghĩa là học tập của sinh
viên đồng thời phải đáp ứng yêu cầu cả về chuyên môn và nghiệp vụ ở trình độ cao.
Trong quá trình học tập, sinh viên phải giải quyết các nhiệm vụ học tập thông qua việc
thực hiện hệ thống hành động học tập cũng như sự tự kiểm tra và đánh giá các kết quả
của chúng. Nội dung học tập bao gồm việc học thông tin, học kỹ năng, học các thái độ,
học cách chuyển giao học tập. Học tập nhằm các mục đích cơ bản là thu thập thông tin
xây dựng phương pháp học tập, ghi nhớ có chọn lọc tài liệu học tập, phát triển tư duy
sáng tạo, trí tuệ của chủ thể và áp dụng thông tin vào thực tế. Có thể nói rằng ở trường
đại học, cao đẳng mục tiêu học tập của sinh viên là học cách học, để làm tiền đề cho
việc học suốt đời. Hiện nay, trong xu thế thời đại, sinh viên thực sự học tập vì cuộc
sống, vì nghề nghiệp tương lai của bản thân. Do vậy, sinh viên cần phải biết làm chủ
quá trình học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
* Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm:
Hoạt động học tập của sinh viên sư pham về cơ bản diễn ra như hoạt động học
tập của các sinh viên khác. Song do đặc thù của nghề nghiệp nên nó vẫn có một số đặc
trưng khác biệt, đó là: sinh viên sư pham học tập để tích luỹ tri thức hình thành kỹ
năng kỹ xảo tương ứng theo chuyên ngành, chuyên môn sâu. Đồng thời tích cực rèn
luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm với mục đích khi kết thúc học tập ở các trường ĐH,
CĐSP họ sẽ là lực lượng tri thức trẻ tham gia vào hoạt động giảng dạy, giáo dục thế hệ
trẻ đáp ứng nguồn nhân lực cho xã hội. Do vậy bên cạnh những đặc điểm về hoạt động

học tập của sinh viên nói chung, hoạt động học tập của sinh viên sư pham còn có một
số đặc điểm nổi bật sau:
Việc học tập của sinh viên sư pham không chỉ đáp ứng nhu cầu chuyên môn mà

25


×