Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

KINH NGHIỆM THỰC HIỆN tốt QUY TRÌNH dạy học PHÂN môn tập đọc KHỐI lớp 2 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.92 KB, 11 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN TỐT QUY TRÌNH DẠY HỌC
PHÂN MÔN TẬP ĐỌC KHỐI LỚP 2 - 3

I.

Vai trò của phân môn Tập đọc ở Tiểu học

giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục phổ thông.
Nó được coi là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển. Nền móng
ấy được xây dựng vững chắc bởi sự gắn kết của rất nhiều môn học nhằm phát
triển toàn diện cho trẻ cả về đức - trí - thể - mĩ. Thật khó để tìm ra một môn học
quan trọng nhất đối với các em nhưng có một điều không thể phủ nhận đó là vị trí
và vai trò đặc biệt của môn Tiếng Việt. Môn học này góp phần hình thành khả
năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy giúp trẻ tiếp thu tri thức của các môn
học khác.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học gồm rất nhiều phân môn (Tập đọc, Luyện từ và
câu, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết) nhằm hình thành và phát triển ở học sinh
các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe - nói - đọc - viết). Nếu các phân môn Tập
viết, Chính tả, Tập làm văn góp phần cơ bản để rèn luyện kỹ năng viết cho học
sinh thì phân môn Tập đọc có nhiệm vụ hàng đầu là luyện kỹ năng đọc cho học
sinh.
Ở bậc Tiểu học, dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn. Đọc trở thành đòi hỏi cơ bản
đầu tiên đối với người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để
học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập.
Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập đồng thời là công cụ để học tập các môn
học khác. Cũng nhờ biết đọc mà học sinh sẽ có khả năng tự học và tinh thần học
tập suốt đời. Nói một cách cô đọng như giáo sư Lê Phương Nga: “Đọc là một khả
năng không thiếu được của con người thời đại văn minh. Không biết đọc, con
người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ,
không thể hình thành được một nhân cách toàn diện”
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ


cũng như tư duy của trẻ. Làm tốt nhiệm vụ dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết
hơn; bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp; làm nảy nở trong tâm hồn


các em những ước mơ trong sáng; dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic
cũng như biết tư duy hình tượng.
Những điều nêu trên đã khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và
phát triển một cách có hệ thống, có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh Tiểu học
nói chung cũng như học sinh lớp 3 nói riêng. Năng lực đọc của học sinh phải bao
gồm cả kỹ năng đọc thành tiếng: từ đọc đúng đến đọc nhanh (đọc trôi chảy, lưu
loát) rồi đọc diễn cảm ( chỉ yêu cầu với học sinh khối lớp 4 - 5) và kỹ năng đọc
hiểu ( tức là đọc có ý thức để thông hiểu nội dung văn bản). Trên cơ sở rèn luyện
tốt cho học sinh kỹ năng đọc thành tiếng, người giáo viên Tiểu học cần phải chú
ý ở các em kỹ năng đọc hiểu. Điều này có ý nghĩa then chốt, đóng vai trò quyết
định khả năng học hỏi của chính bản thân các em.

II. Thực trạng dạy và học Tập đọc
Thực tế việc dạy Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay nói chung và
nhất là dạy học Tập đọc ở khối 2-3 nói riêng ít nhiều vẫn còn hạn chế.
Một số giáo viên nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ vai trò của việc rèn kỹ
năng đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc nên chưa thực sự quan tâm và đầu tư
đúng mức cho môn học này. Trong giờ Tập đọc học sinh không được tập đọc
nhiều, số lượt học sinh đọc trong giờ học còn ít. Có thể nói dạy cho học sinh biết
đọc là nhiệm vụ của giáo viên lớp 1 nhưng rèn luyện, củng cố và nâng cao kỹ
năng ấy lại là mục tiêu quan trọng mà giờ tập đọc các khối lớp trên hướng tới.
Kiểu dạy tập đọc một cách qua loa, đại khái thực sự rất “ nguy hiểm”. Dạy như
vậy sẽ không thể lôi cuốn học sinh vào giờ học và khó mà đạt được mục tiêu dạy
học của phân môn.
Một thực trạng khác mà tôi muốn đề cập đến ở đây là giáo viên phân bố
thời gian dành cho việc luyện đọc thành tiếng và luyện đọc hiểu của học sinh

trong giờ tập đọc chưa thật hợp lý. Mỗi giờ tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở
khối lớp 2 - 3 nói riêng đều có hai phần nội dung lớn cần giải quyết là: luyện đọc
( hình thành kỹ năng đọc thành tiếng ) và tìm hiểu bài ( hình thành kỹ năng đọc
hiểu văn bản). Hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc đan xen vào nhau hoặc


cũng có thể dạy tách rời tuỳ từng bài, tuỳ từng giáo viên và cả trình độ học sinh
từng lớp. Song dù dạy theo cách nào thì hai phần này vẫn luôn có mối quan hệ
tương hỗ khăng khít: đọc đúng để hiểu đúng và ngược lại hiểu đúng chính là cơ
sở để đọc đúng. Với những lý do này việc coi trọng hoặc dành thời gian quá mức
cho bất kỳ nội dung nào trong hai nội dung đó đều được xem là không hợp lý.
Tập đọc là phân môn có quy trình dạy học khá rõ ràng về các bước lên lớp.
Tuy nhiên thực tế cho thấy một số thầy cô còn nhầm lẫn hay vì một lý do gì đó
mà không thực hiện đầy đủ theo các bước trong quy trình dạy học phân môn này.
Quy trình chính là những quy định về trình tự dạy học đã được nghiên cứu, thử
nghiệm kỹ càng để đảm bảo mang lại hiệu quả trong giảng dạy. Sự sáng tạo của
giáo viên chỉ được ghi nhận ở cách thức tiến hành mỗi bước chứ không được thay
đổi thứ tự hay tự ý cắt xén các bước trong quy trình.
Xuất phát từ tầm quan trọng của phân môn Tập đọc và thực trạng dạy –
học tập đọc của chúng ta hiện nay, tôi mạnh dạn trao đổi với các đồng nghiệp về
quy trình daỵ học Tập dọc khối 2- 3.

III. Quy trình daỵ học Tập dọc khối 2- 3
1. Kiểm tra bài cũ
a.Mục tiêu:

- Kiểm tra việc nắm kiến thức và rèn kĩ năng của HS ở giờ

trước.
- Kiểm tra ý thức học tập của HS.

b. Yêu cầu đạt được: - Kiểm tra được kĩ năng đọc đúng.
- Kiểm tra kĩ năng đọc hiểu.
c. Các hình thức kiểm tra:
* Kiểm tra kĩ năng đọc đúng:
+ Gọi 1, 2 HS đọc thành tiếng (đọc đoạn, đọc toàn phần, đọc phân
vai) hoặc đọc thuộc lòng.
+ Việc lựa chọn hình thức nào chúng ta phải cân nhắc sao cho phù
hợp về nhiều mặt như: - Thời lượng dành cho phần kiểm tra bài cũ.


- Nôi dung của bài cũ(dài thì đọc 1 đoạn, kịch thì đọc phân vai,
thơ thì đọc thuộc lòng……)
- Thuận lợi cho việc giới thiệu vào bài mới(Ví dụ: chúng ta dự
định lấy nội dung đoạn 2 giờ trước làm điểm tựa giới thiệu bài
mới thì chúng ta kiểm tra HS đọc đoạn 2)
* Kiểm tra kĩ năng đọc hiểu: GV đặt câu hỏi gắn liền với nội dung
bài tập đọc đã học ở tiết trước cho HS trả lời.

2. Bài mới..
2.1. Giới thiệu bài
a. Mục tiêu: Tạo hứng thú học tập cho HS, kích thích các em ham
thích đọc

bài tập đọc.
b. Yêu cầu đạt được: Hoạt động giới thiệu bài phải giới thiệu được bài

tập đọc sẽ tìm hiểu trong tiết học để gợi tò mò, tạo hứng thú cho HS. Riêng với
bài tập đọc mở đầu chủ điểm mới, GV cần giới thiệu vài nét chính về chủ điểm.
c. Một số cách giới thiệu bài: Có nhiều cách khác nhau để giới thiệu
bài

- Chuyển từ bài cũ sang bài mới.
- Giới thiệu trực tiếp.
- GV gợi mở bằng câu hỏi.
- Dựa vào tranh, ảnh, vật thật để giới thiệu bài.
- Dùng thơ ca, âm nhạc để giới thiệu bài.
- GV diễn giảng bằng lời.
Tuy nhiên dù theo cách nào thì phần giới thiệu bài cũng cần ngắn gọn,
không làm mất thời gian của việc luyện đọc và tìm hiểu bài.

2.2. Luyện đọc đúng: Tiến trình của phần luyện đọc gồm những bước
sau:
2.2.1. GV đọc diễn cảm toàn bài


a. Mục tiêu: Đưa ra mẫu để định hướng cách đọc thành tiếng cho HS
và tạo ấn tượng cho HS về nội dung bài đọc .
b. Yêu cầu đạt được: GV phải đọc to, rõ ràng, phát âm chính xác các
tiếng, đọc đúng những chỗ ngắt – nghỉ cũng như giọng điệu của bài
c. Cách tiến hành: - Khi GV đọc yêu cầu HS theo dõi SGK và đọc
thầm theo.
- GV chọn vị trí đưng phù hợp để quan sát được HS
và cả lớp có thể nghe rõ cô giáo đọc bài.
2.2.2. Học sinh đọc nối tiếp câu – GV kết hợp sửa lỗi phát âm .
a. Mục tiêu:

Câu được coi là đơn vị nhỏ nhất của lời nói nên ở bước

này có nhiều học sinh được tham gia tích cực vào quá trình luyện tập, qua đó bộc
lộ năng lực đọc của từng cá nhân.
b. Yêu cầu đạt được: - HS phải chú ý theo dõi và đọc thầm theo bạn để

thực hiện đúng lượt đọc của mình cũng như rèn luyện khả năng nghe và nhận xét
bạn đọc.
- GV: cùng với việc bao quát lớp giáo viên
cần theo dõi thật kỹ để phát hiện và sửa lỗi phát âm cho các em, kết hợp với việc
luyện đọc đúng từ ngữ
c. Cách tiến hành: - Tổ chức cho HS đọc nối tiếp câu theo hàng ngang
hoặc hàng dọc. Mỗi HS đọc một câu theo thứ tự các câu trong bài. Tùy số lượng
câu trong bài nhiều hay ít mà chúng ta tổ chức cho các em đọc nối tiếp câu 1lượt
hay nhiều lượt để phần lớn HS trong lớp đều được tham gia đọc.
- Khi phát hiện lỗi phát âm của học sinh thì
chúng ta phải dừng lại và sửa ngay sau khi học sinh đọc hết câu văn của mình,
không nên đợi đến hết lượt đọc để tránh tình trạng phải sửa nhiều lỗi của nhiều
học sinh cùng một lúc. (Lưu ý: Thay vì giáo viên liên tục nhận xét học sinh này
sai, học sinh kia đọc chưa đúng thì hãy tạo cơ hội để các em tự phát hiện lỗi sai
của nhau. Khi tự phát hiện lỗi sai của nhau có nghĩa các em đã nhận thức được
thế nào là sai để tự rút kinh nghiệm cho mình.)
2.2.3. Học sinh đọc nối tiếp đoạn trước lớp – GV kết hợp giải nghĩa từ
khó và HDHS ngắt nghỉ đúng ở những câu văn dài,khó đọc(nếu có).


a. Mục tiêu: - Củng cố cho HS kĩ năng đọc trơn đã được rèn luyện ở lớp
dưới.
- Giúp HS hiểu đúng nghĩa các từ khó, từ mang tính địa
phương.
- Giúp HS đọc đúng một số câu văn dài, khó đọc(nếu có)
b. Yêu cầu đạt được: - HS phải chú ý theo dõi và đọc thầm theo bạn để
thực hiện đúng lượt đọc của mình. GV cần HD, nhắc nhở để các em đọc to, rõ
ràng, trôi chảy; nghỉ hơi đúng ở những chỗ dấu chấm, dấu phẩy.
- GV phải hướng dẫn để HS hiểu được nghĩa của
một số từ khó trong văn cảnh cụ thể, hướng vào chủ đề bài học, tránh giảng quá

rộng, quá sâu ở Tiểu học.
c. Cách tiến hành: - HD để HS nhận diện được các đoạn trong bài.
- GV lần lượt gọi từng nhóm HS đọc nối tiếp(mỗi
nhóm một lượt. Số lượng HS tham gia mỗi lượt đọc tùy thuộc vào số đoạn trong
bài).
- Kết hợp giải nghĩa từ khó khi HS đọc nối tiếp đoạn
trước lớp.(Ví dụ: Sau khi HS đọc đoạn 1, GV dừng lại và HD các em hiểu nghĩa
những từ khó có trong đoạn 1… ). Với các từ đã được chú giải trong SGK có thể
cho các em đọc thầm rồi trình bày lại. Đối với những từ đã được chú thích mà HS
vẫn chưa nắm chắc nghĩa hoặc những từ khác trong bài còn khó hiểu GV có thể
HDHS bằng các biện pháp sau:

→ Dùng từ cùng nghĩa hoặc trái nghĩa hoặc từ

thông dụng ở địa phương để giải thích từ ngữ đó.
→ Đặt câu với từ ngữ đó.
→ Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tính chất được gọi

tên bằng từ ngữ đó.
- Sau khi HS đọc nối tiếp đoạn trước lớp, GVHDHS
ngắt nghỉ ở những câu văn dài, khó đọc mà các em còn nghỉ hơi chưa chính xác.
(nếu có).
2.2.4. HS luyện đọc đoạn trong nhóm.
a. Mục tiêu: Mọi HS đều được đọc và kiểm tra lẫn nhau.


b. Yêu cầu đạt được: - Hoạt động đọc trong nhóm của HS phải được
lặp lại nhiều lần sao cho mỗi HS trong lớp đều được đọc tất cả các đoạn trong
bài.
- Trong khi đọc, HS phải chú ý đọc đúng các từ

khó đã được luyện, nghỉ hơi đúng trong những câu văn dài đã được HD
c. Cách tiến hành: - GV chia nhóm → giao nhiệm vụ → HS về nhóm để
luyện đọc
- Từng nhóm HS đọc và góp ý cho nhau về cách đọc.
GV theo dõi, HD các nhóm đọc đúng.
- Gọi 1 - 2 nhóm đọc lại trước lớp nhằm kiểm tra,
đánh giá quá trình luyện đọc trong nhóm của các em.
2.2.5.Cả lớp đọc đồng thanh 1 đoạn hoặc cả bài
a. Mục tiêu: - Tiếp tục luyện đọc thành tiếng cho HS, chuẩn bị tâm thế
để tìm hiểu nội dung bài đọc.
- Điều chỉnh tốc độ đọc cho HS bằng cách giữ nhịp đọc.
b. Yêu cầu đạt được: - HS đọc nhẹ nhàng, không cần đọc to như khi
các em đọc cá nhân
- GV phải điều khiển và rèn luyện để cả lớp đọc đều
nhau.
c. Cách tiến hành: - GV chọn nội dung đọc đồng thanh(1 đoạn hoặc
cả bài)
- GV gõ thước giữ nhịp cho HS cả lớp đọc bài.
(Lưu ý: Việc đọc đồng thanh không áp dụng đối với một số văn bản có nội
dung buồn, cần đọc với giọng nội tâm sâu lắng và một số văn bản thông thường)

2.3. Tìm hiểu bài
a. Mục tiêu: - Giúp HS nắm được nội dung chính của bài Tập đọc, tạo
cơ sở cho HS luyện đọc củng cố.
- Trau dồi kĩ năng đọc hiểu cho HS.


b. Yêu cầu đạt được: - Mọi HS trong lớp đều nắm được nội dung bài
đọc, trả lời được các câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.
- Đối với mỗi dạng văn bản, yêu cầu đạt được

trong phần tìm hiểu bài là nhau:
→ Văn bản nghệ thuật: Phạm vi nội dung tìm hiểu gồm: nhân vật(số

lượng, tên, đặc điểm), tình tiết câu chuyện, nghĩa đen, nghĩa bóng dễ nhận ra của
câu văn, câu thơ và ý nghĩa của câu chuyện, bài văn, bài thơ.
→ Văn bản khác(khoa học, hành chính, báo chí): Phạm vi nội dung

tìm hiểu gồm: tìm hiểu các đoạn của văn bản, hình thức và bố cục cũng nhu nội
dung, ý nghĩa và tác dụng của văn bản đó.
c. Cách tiến hành: - Thông thường chúng ta hướng dẫn HS tìm hiểu
bài theo hệ thống câu hỏi trong SGK. GV linh hoạt yêu cầu HS đọc thầm, đọc
lướt hay đọc thành tiếng 1 đoạn văn bản bài đọc để định hướng các em tìm ra ý
trả lời cho câu hỏi của mình.
- Để phần tìm hiểu bài thực sự có hiệu quả và vừa
sức với đại đa số HS trong lớp, người giáo viên cần đưa ra được hệ thống câu hỏi
hợp lý, phù hợp với trình độ nhận thức của các em bằng việc phải chẻ nhỏ câu
hỏi hoặc thêm vào một số câu hỏi khác chứ không chỉ dừng lại ở những câu hỏi
khá trừu tượng trong SGK. Nhưng khi thêm hay chẻ nhỏ câu hỏi chúng ta cần lưu
ý không được đảo vị trí các câu hỏi trong SGK vì chúng đã tuân theo một logic
nhất định gắn với nội dung bài đọc.
Ví dụ: với bài “Cuộc chạy đua trong rừng” dựa vào những câu hỏi SGK tôi
đã xây dựng hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài như sau:
- Với câu hỏi 1 trong SGK là “Ngựa Con đã chuẩn bị để tham dự hội thi
như thế nào?” tôi đã chẻ nhỏ câu hỏi như sau:
+ Tìm những chi tiết thể hiện sự chuẩn bị của Ngựa Con cho hội thi chạy?
+ Theo em hiểu thì Ngựa Con chỉ tập chung chuẩn bị về phương diện nào?
+ Ngựa Con đã chuẩn bị để tham dự hội thi như thế nào?
- Với câu hỏi 2 trong SGK là “Ngựa Cha khuyên nhủ con điều gì?” tôi đã
chẻ nhỏ và thêm vào một số câu hỏi như sau:
+ Tìm chi tiết thể hiện sự khuyên nhủ của Ngựa Cha với con của mình?



+ Vì sao Ngựa Cha lại khuyên con mình như vậy?
+ Nghe cha nói, Ngựa Con phản ứng thế nào?
+ Em thấy thái độ của Ngựa Con với hội thi ra sao?
- Với câu hỏi 3 trong SGK là “vì sao Ngựa Con không đạt kết quả trong
hội thi?” tôi đã chẻ nhỏ câu hỏi như sau:
+ Tìm những chi tiết trong bài nói lên kết quả của Ngựa Con khi tham gia
hội thi chạy?
+ Nguyên nhân nào dẫn đến sự cố Ngựa Con gặp phải trên đường đua?
+ Theo em, vì sao Ngựa Con lại thất bại trong hội thi?
Có thể nói, để có được một hệ thống câu hỏi như vậy người giáo viên phải
chuẩn bị công phu hơn, phải đầu tư nhiều hơn cả về thời gian và trí tuệ. Tuy
nhiên, hiệu quả đạt được từ sự đầu tư này là rất rõ ràng. Những câu hỏi giáo viên
đưa ra phù hợp với khả năng nhận thức của đại đa số học sinh nên các em háo
hức và hăng hái hơn trong học tập. Tuy nhiên, khi xây dựng hệ thống câu hỏi
chúng ta nên lưu ý một số điểm sau:
→ Tránh đặt câu hỏi trong đó có sẵn nội dung trả lời mà học sinh có thể

đoán ngay ra, không cần động não suy nghĩ. Ví dụ: có phải Ngựa Con có thái độ
rất chủ quan khi tham gia hội thi chạy không?
→ Hệ thống câu hỏi đưa ra phải theo các mức độ khó dần lên. Từ chỗ chỉ

yêu cầu các em tìm chi tiết thể hiện vấn đề → hiểu các chi tiết → hiểu nội dung
đoạn. Từ chỗ giúp học sinh hiểu nội dung đoạn mới định hướng, gợi mở để các
em hiểu nội dung bài.
→ Ở lớp 3, học sinh bắt đầu được nhận biết các biện pháp nghệ thuật (so

sánh, nhân hóa) qua những giờ học luyện từ và câu. Bởi vậy, với các văn bản tập
đọc mang giá trị nghệ thuật cao giáo viên nên đưa thêm câu hỏi hướng dẫn các

em tìm hiểu khía cạnh nghệ thuật của văn bản. Nhờ đó học sinh có thêm ngữ liệu
để đặt câu, viết đoạn cho sinh động trong những giờ Tập làm văn.

2.4. HDHS luyện đọc lại và HTL(nếu SGK yêu cầu)


a. Mục tiêu: Từ chỗ HS đã nắm được nội dung bài đọc, GVHD để các
em có thể tìm ra giọng đọc phù hợp cho bài, cho từng nhân vật để điều chỉnh
cách đọc của mình cho hay hơn, tiến dần đến yêu cầu đọc diễn cảm.
b. Yêu cầu đạt được: HS không chỉ đọc đúng mà còn phải đọc hay.
c. Cách tiến hành:
* Luyện đọc lại: - GV đọc diễn cảm từng đoạn hoặc cả bài
- GV lưu ý HS về giọng điệu chung của đoạn hoặc bài,
những câu cần chú ý. Đối với HS lớp 2-3, đọc diễn cảm chưa phải là yêu cầu bắt
buộc. Do đó, tùy thuộc vào trình độ HS lớp cụ thể, GV có thể xác định mức độ
cho phù hợp.
- HS luyện đọc đoạn văn hay khổ thơ đã được GVHD
- Từng HS hoặc nhóm HS thi đọc. GV uốn nắn cách đọc
cho HS.
( Tùy từng loại văn bản mà người GV cần lựa chọn ngữ liệu và cách thức
luyện đọc lại cho phù hợp. Ví dụ: truyện kể → đọc phân vai 1 đoạn hội thoại
giữa các nhân vật; thơ – bài văn miêu tả → chọn đọc 1 đoạn hay; đơn từ hay một
số văn bản phi nghệ thuật khác → luyện đọc lại toàn bài…)
* Học thuộc lòng: - HS tự nhẩm thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn
văn theo yêu cầu của SGK.
- GV có thể áp dụng một số biện pháp giúp HS HTL
như: ghi bảng một số từ làm “điểm tựa” cho HS dễ nhớ sau đó xóa dần hết “từ
điểm tựa” để HS tự nhớ và HTL toàn bộ. Nếu HS yếu hơn có thể trực quan toàn
bộ phần văn bản cần HTL lên bảng rồi xóa dần các chữ trong mỗi dòng, mỗi câu,
mỗi khổ thơ. Ngoài ra GV có thể tổ chức cuộc thi hay trò chơi luyện HTL một

cách nhẹ nhàng để gây hứng thú cho HS.

3. Củng cố - dặn dò
- HDHS chốt lại nội dung chính hoặc ý nghĩa của bài tập đọc
- Nhận xét tiết học.
- Nêu yêu cầu tiếp tục luyện tập và chuẩn bi cho bài sau.


IV. Ghi bảng
1. Cách 1:
Tập đọc
TÊN BÀI
1. Luyện đọc

2. Tìm hiểu bài

- Từ, cụm từ cần luyện đọc

- Từ ngữ, chi tiết nổi bật cần ghi nhớ.

- Câu, đoạn cần luyện đọc

- Ý chính của đoạn hoặc của khổ thơ,

- Lưu ý về giọng đọc.

bài cần ghi nhớ.

2. Cách 2:
Tập đọc

TÊN BÀI
Phần ghi để lưu giữ

Phần ghi có thể xóa đi

1. Luyện đọc

- Từ, cụm từ, câu cần luyện đọc.

2. Tìm hiểu bài

- Thông tin xuất hiện trong giờ dạy.

- Từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, nhân - Bài tập HS làm trên bảng lớp.
vật nổi bật.
- Ý nổi bật của bài cần khắc sâu.
3. Luyện đọc lại
- Câu, đoạn văn ngắn, khổ thơ cần
HD cách đọc.
- Những lưu ý về cách đọc.
Tác giả: Trần Thị Bích Huệ - Giáo viên Trường Tiểu học Kim Đồng - Lập
Thạch



×