Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.29 KB, 19 trang )

PHẦN II. LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm luật tố tụng dân sự Việt Nam
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, Nhà nước bảo đảm các quyền, lợi
ích hợp pháp của mọi chủ thể. Khi cá nhân, pháp nhân hay chủ thể khác có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm thì theo thủ tục do pháp luật quy định chủ thể đó được khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ (Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự 2004) (sau
đây viết tắt là BLTTDS). Các Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm
vi chức năng của mình Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã
hội, ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác
(Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002). Do vậy, khi có chủ thể khởi kiện vụ án
dân sự thì Tòa án có thẩm quyền phải thụ lý vụ án và giải quyết để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết được
gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên được gọi là vụ án dân sự; những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên được gọi là việc dân sự. Khi bản án, quyết định về dân sự của Tòa án
có hiệu lực pháp luật, Cơ quan thi hành án có nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án,
quyết định này nếu đương sự có đơn yêu cầu thi hành án, trừ những trường hợp mà
pháp luật có quy định khác.
Quá trình giải quyết vụ án và thi hành án dân sự bao gồm những hoạt động khác
nhau của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, các đương sự và những người
tham gia tố tụng. Tất cả các hoạt động của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án
và thi hành án dân sự đều phải thực hiện theo đúng trình tự mà pháp luật quy định.
Trong khoa học pháp lý, trình tự do pháp luật quy định cho việc giải quyết các vụ việc


dân sự và thi hành án dân sự được gọi là "tố tụng dân sự" . Trình tự này bao gồm các
giai đoạn khởi kiện, giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự làm phát sinh các quan hệ
xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, đương sự, người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham
gia tố tụng khác. Các quy phạm pháp luật về tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ xã
hội đó để đảm bảo việc giải quyết vụ án và thi hành án được đúng đắn. Tập hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự hình thành
ngành luật tố tụng dân sự.


Như vậy, luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành
án và những người tham gia tố tụng phát sinh trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm
việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự một cách nhanh chóng, đúng
đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của
Nhà nước.
2. Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc
Việc xác định thẩm quyền chung về dân sự của Tòa án có ý nghĩa quan trọng
trong việc phân định thẩm quyền giữa Tòa án và cơ quan nhà nước khác. Mặt khác,
với sự thành lập một số Tòa chuyên trách khác trong hệ thống Tòa án, như Tòa kinh
tế, Tòa lao động, Tòa hành chính, việc nghiên cứu thẩm quyền xét xử về dân sự còn
cho phép phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa các Tòa chuyên trách với nhau.
Theo quy định từ Điều 25 tới Điều 32 của BLTTDS, Toà án có thẩm quyền thụ
lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với những tranh chấp, những yêu cầu
về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
2.1. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự
2.1.1. Những tranh chấp về dân sự

- Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.
- Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.
- Tranh chấp về hợp đồng dân sự.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, giữa các cá nhân, tổ
chức với nhau mà chỉ một bên có mục đích lợi nhuận hoặc các bên đều không có mục đích
lợi nhuận.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp
luật về đất đai.
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp
luật.
2.1.2. Những yêu cầu về dân sự
- Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản
của người đó.
- Yêu cầu tuyên bố một người mất tích, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người
mất tích.


- Yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người
là đã chết.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự,
quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước
ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong
bản án, quyết định hình sự, hành chính của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi
hành tại Việt Nam.
2.2. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình

2.2.1. Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
2.2.2. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình
- Yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Yêu cầu công nhận sự thoả thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi
ly hôn.
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền
thăm nom con sau khi ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hôn
nhân và gia đình của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về
hôn nhân và gia đình của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam.
2.3. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về kinh doanh, thương
mại
2.3.1. Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho
thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng
đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.



- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
2.3.2. Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại
- Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ
tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định
kinh doanh, thương mại của Toà án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài.
2.4. Những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật về lao động
2.4.1. Những tranh chấp về lao động
- Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động
mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà
nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoà giải không thành hoặc
không giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp sau đây
không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở:
+ Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động;
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động và người sử dụng lao động; về trợ
cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
+ Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
+ Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động;
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu lao
động.
- Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động

đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết
mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định của
Hội đồng trọng tài lao động, bao gồm:
+ Về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện
lao động khác;
+ Về việc thực hiện thoả ước lao động tập thể;
+ Về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn.
2.4.2. Những yêu cầu về lao động
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định lao động
của Toà án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Toà án
nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.


- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định lao động của Trọng tài
nước ngoài.
3. Người tham gia tố tụng dân sự
3.1. Đương sự trong tố tụng dân sự
3.1.1. Khái niệm về đương sự trong tố tụng dân sự
Đương sự trong tố tụng dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi
ích liên quan trong vụ án dân sự và người yêu cầu, người bị yêu cầu và người có liên
quan trong việc dân sự.
a. Nguyên đơn trong vụ án dân sự
Nguyên đơn là người được giả thiết có quyền, lợi ích hợp pháp đang bị xâm
phạm hoặc có tranh chấp nên đã yêu cầu Tòa án bảo vệ hoặc được người khác yêu cầu
Tòa án bảo vệ theo qui định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để
yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách cũng là nguyên đơn.
b. Bị đơn trong vụ án dân sự
Bị đơn là người giả thiết đã xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn hoặc tranh chấp với nguyên đơn và là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc cá

nhân, cơ quan, tổ chức khác khởi kiện theo quy định của pháp luật.
c. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự
Ngoài đương sự là nguyên đơn và bị đơn tạo thành các bên trong tố tụng dân sự
còn có thể có những người khác phải tham gia tố tụng vì việc giải quyết mối quan hệ
giữa nguyên đơn, bị đơn sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của họ. Trong tố tụng dân sự
họ được gọi là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia
tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn. Theo Điều 56 BLTTDS, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không
bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp
nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Toà án phải đưa họ vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
d. Người yêu cầu, người bị yêu cầu và người có liên quan trong việc dân sự
Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải
quyết việc dân sự. Người bị yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng để trả
lời về các yêu cầu của việc dân sự. Người có liên quan trong việc dân sự là người
tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả
lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
3.1.2. Quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự


Khi tham gia tố tụng, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình;
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp
chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án;

- Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể
thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu
thập do đương sự khác yêu cầu;
- Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất
trình hoặc do Toà án thu thập;
- Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án
tiến hành;
- Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
- Tham gia phiên toà;
- Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ
luật này;
- Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với
nhân chứng;
- Tranh luận tại phiên toà;
- Được cấp trích lục bản án, quyết định của Toà án;
- Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật
này;
- Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật;
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của Toà
án trong thời gian giải quyết vụ án;
- Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
- Nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật;
- Các quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.

Ngoài các quyền và nghĩa vụ tố tụng trên, nguyên đơn còn có các quyền tố tụng
như rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; thay đổi nội dung yêu cầu khởi
kiện; đề nghị Toà án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng;


đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Bị đơn còn có quyền chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn; bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ mà
nguyên đơn yêu cầu; được Toà án thông báo về việc bị khởi kiện.
3.2. Người đại diện của đương sự
3.2.1.Đại diện theo pháp luật của đương sự
Đương sự là cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự không thể tự
mình tham gia tố tụng mà phải có đại diện thay mặt tham gia tố tụng. Đối với trường
hợp đương sự là pháp nhân hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật thì việc
tham gia tố tụng sẽ được thực hiện thông qua hành vi của cá nhân là người đại diện
hợp pháp trong các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động. Đại diện này
còn được gọi là đại diện đương nhiên của đương sự hay đại diện theo pháp luật. Theo
quy định tại Điều 73 BLTTDS thì người đại diện theo pháp luật được quy định trong
Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Theo qui định tại Điều 141 Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam 2005(BLDS) thì người đại diện theo pháp luật bao gồm:
- Cha mẹ;
- Người giám hộ;
- Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi;
- Người đứng đầu pháp nhân theo qui định của điều lệ pháp nhân hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Chủ hộ gia đình;
- Tổ trưởng tổ hợp tác;
- Những người khác theo qui định của pháp luật.
3.2.2. Đại diện do đương sự uỷ quyền

Theo qui định tại Điều 73 BLTTDS, đương sự là cá nhân, người đại diện theo
pháp luật của đương sự, có thể làm uỷ quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt
mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn. Trong các trường hợp này, luật sư hoặc “người
khác” được uỷ quyền được gọi là người đại diện do đương sự uỷ quyền.
Người uỷ quyền phải là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy,
về nguyên tắc chỉ các đương sự là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự thì mới được uỷ quyền. Ngoài ra, các đương sự, người đại diện
theo pháp luật của đương sự cũng có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt trong tố
tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Việc uỷ quyền phải được thực hiện bằng văn
bản, trong đó phải ghi rõ nội dung của sự uỷ quyền.
3.2.3. Đại diện do Tòa án chỉ định
Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của
họ thuộc một trong các trường hợp không được làm người đại diện cho đương sự theo


quy định của BLTTDS thì Toà án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.
Đại diện do Tòa án chỉ định được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự, được đại diện để bảo vệ quyền lợi của họ.
3.3. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Theo qui định tại Điều 63 BLTTDS, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là
người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận tham gia tố tụng bảo vệ quyền
lợi cho đương sự.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể là luật sư hoặc người khác không
thuộc trường hợp pháp luật cấm không được làm người bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho đương sự. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải là cá nhân, không thể là cơ
quan, tổ chức. Một người có thể bảo vệ quyền lợi cho nhiều người, nếu quyền lợi của
những người đó không đối lập nhau. Căn cứ vào Điều 64 BLTTDS, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự trong tố tụng dân sự có các quyền và nghĩa vụ tố tụng sau:
- Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố
tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia

phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết.
- Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ
sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để
thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Tham gia việc hoà giải, tham gia phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
- Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
- Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
- Quyền tham gia tranh luận tại phiên toà, phải có mặt theo giấy triệu tập của
Toà án và chấp hành các quyết định của Toà án trong thời gian giải quyết vụ án, tôn
trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà.
3.4. Người tham gia tố tụng khác
3.4.1. Người làm chứng
Người nào được biết những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được Tòa án
triệu tập làm chứng.
Theo Điều 66 BLTTDS thì người làm chứng có các quyền và nghĩa vụ tố tụng
sau đây:
- Cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật mà mình có được có liên
quan đến việc giải quyết vụ án.
- Khai báo trung thực những tình tiết mà mình biết được có liên quan đến việc giải
quyết vụ án.


- Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí
mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo đó có ảnh
hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình.
- Được nghỉ việc trong thời gian Toà án triệu tập hoặc lấy lời khai, nếu làm việc
trong cơ quan, tổ chức, được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy

định của pháp luật.
- Yêu cầu Toà án đã triệu tập, cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng.
- Bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những lời khai báo
sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác, phải có mặt tại phiên toà
theo giấy triệu tập của Toà án.
3.4.2. Người giám định
Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của
pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên đương sự thoả thuận
lựa chọn hoặc được Toà án trưng cầu để giám định đối tượng đó theo yêu cầu của một
hoặc các bên đương sự.
Theo Điều 67 BLTTDS, người giám định có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Được đọc các tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến đối tượng giám định;
yêu cầu Toà án cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc giám định;
- Đặt câu hỏi đối với người tham gia tố tụng về những vấn đề có liên quan đến
đối tượng giám định;
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, trả lời những vấn đề liên quan đến
việc giám định và kết luận giám định một cách trung thực, có căn cứ, khách quan;
- Phải thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc không thể giám định được
do việc cần giám định vượt quá khả năng chuyên môn, tài liệu cung cấp phục vụ cho
việc giám định không đủ hoặc không sử dụng được;
- Phải bảo quản tài liệu đã nhận và gửi trả lại Toà án cùng với kết luận giám định
hoặc cùng với thông báo về việc không thể giám định được;
- Không được tự mình thu thập tài liệu để tiến hành giám định, tiếp xúc với
những người tham gia tố tụng khác nếu việc tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến kết quả
giám định; không được tiết lộ bí mật thông tin mà mình biết khi tiến hành giám định
hoặc thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp Thẩm phán quyết
định trưng cầu giám định;
- Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp

luật;
- Phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
3.4.3. Người phiên dịch


Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng Việt
và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng
Việt. Người phiên dịch được các bên đương sự thoả thuận lựa chọn và được Toà án
chấp nhận hoặc được Toà án yêu cầu để phiên dịch.
Theo Điều 70 BLTTDS, người phiên dịch có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; phiên dịch trung thực, khách quan,
đúng nghĩa; không được tiếp xúc với những người tham gia tố tụng khác nếu việc
tiếp xúc đó làm ảnh hưởng đến tính trung thực, khách quan khi phiên dịch; người
phiên dịch cố ý dịch sai sự thật hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có
lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
- Được hưởng các khoản phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp
luật; đề nghị người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng giải thích thêm lời nói
cần phiên dịch;
4. Chứng cứ trong tố tụng dân sự
4.1. Khái niệm chứng cứ
Muốn tìm ra chân lý khách quan của vụ án thì nhiệm vụ của Tòa án là phải làm
sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ án.
Việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các đương sự gắn liền
với những sự kiện pháp lý nhất định.
Các sự kiện khi xảy ra trong thực tế thì nhất thiết phải thể hiện dưới những hình
thức khác nhau, phải để lại những dấu vết hoặc giữ lại trong trí nhớ của những người
chứng kiến.
Để làm sáng tỏ được những tình tiết liên quan đến vụ án, Tòa án cần triệu tập các
đương sự, người làm chứng và những người khác để nghe lời khai của họ, phải nghiên
cứu những tài liệu khác nhau, xem xét các vật khác nhau. Lời khai cuả các đương sự,

người làm chứng, kết luận của người giám định, các tài liệu, các vật có liên quan được
Tòa án sử dụng làm phương tiện để xác định những tình tiết cuả vụ án. Tòa án sử
dụng chúng như là những phương tiện, vì chúng chứa đựng những tin tức của vụ án.
Trong tố tụng dân sự với những phương tiện mà nhờ nó Tòa án xác định được các tình
tiết của vụ án được gọi là chứng cứ. Chứng cứ được rút ra từ những phương tiện nêu
trên (Điều 82 BLTTDS).
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay
sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
4.2. Các đặc điểm của chứng cứ
Chứng cứ có ba đặc điểm sau đây:
4.2.1. Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết phải là những gì có thật, tồn tại khách quan không phụ thuộc


vào ý thức chủ quan của con người. Chứng cứ hình thành, thay đổi hình thức hay nội
dung và có thể mất đi hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của con người. Nếu một ai đó
muốn tạo ra một sự kiện giả để đánh lừa Tòa án thì những sự kiện đó không thể là
chứng cứ. Tòa án, Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng có thể thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, nhưng không tạo ra chứng cứ.
Một sự kiện tồn tại khách quan muốn được sử dụng trong quá trình chứng minh
thì trước hết cần phải được con người phát hiện, nghiên cứu, đánh giá. Như vậy, tuy
không tạo ra chứng cứ nhưng con người cần tác động vào sự kiện đó để khai thác
chúng như là chứng cứ.
4.2.2. Tính liên quan của chứng cứ
Chứng cứ là những sự kiện thực tế tồn tại khách quan và có liên quan mật thiết
đến vụ án mà Tòa án cần giải quyết.
Mỗi một sự kiện thực tế cần phải mang một nội dung thiết thực gắn liền với việc

giải quyết vụ án của Tòa án. Những sự kiện không có ý nghĩa đối với vụ án thì không
được thu thập và đánh giá như những chứng cứ. Do đó, Tòa án phải biết chọn lọc và
chỉ đánh giá những sự kiện có liên quan và có ý nghĩa đối với vụ án.
Tuy vậy, lý luận về chứng cứ cũng thừa nhận trong nhiều trường hợp có những
sự kiện không trực tiếp liên quan đến vụ án, nhưng nếu chứng minh được những sự
kiện đó có tồn tại thì giúp Tòa án làm sáng tỏ được những tình tiết cần chứng minh
trong vụ án. Những sự kiện không trực tiếp liên quan đến vụ án này được gọi là những
sự kiện trung gian.
Việc Tòa án sử dụng các sự kiện trung gian trong tố tụng dân sự khác với lý luận
về suy đoán chứng cứ.
4.2.3. Tính hợp pháp của chứng cứ
Các sự kiện hợp pháp nêu trên cần phải được thu thập, bảo quản, củng cố,
nghiên cứu và đánh giá theo một trình tự do luật định. Các sự kiện thực tế khách quan
sẽ mất hết giá trị nếu Tòa án trong qúa trình thu thập, củng cố và đánh giá các sự kiện
này vi phạm những quy định của pháp luật. Bản thân những sự kiện này cũng sẽ tự
mất đi giá trị thực của nó nếu không được bảo quản và củng cố tốt.
4.3. Phân loại chứng cứ
Việc phân loại chứng cứ đối với thực tiễn xét xử của Tòa án có ý nghĩa quan
trọng. Nó giúp Tòa án thu thập, nghiên cứu đánh giá được đầy đủ các chứng cứ của vụ
án, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn vụ án. Có nhiều cách phân loại, song phổ biến
nhất là ba cách phân loại sau:
4.3.1. Phân loại chứng cứ dựa vào nguồn thu nhận chứng cứ
Dựa vào nguồn thu nhận, chứng cứ được phân ra thành chứng cứ theo người và
chứng cứ theo vật.
4.3.2. Phân loại chứng cứ căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ
Căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được chia thành chứng cứ
gốc và chứng cứ thuật lại.


Chứng cứ gốc là những sự kiện thực tế đầu tiên về sự kiện cần chứng minh.

Thông tin đó có liên quan trực tiếp đến sự kiện cần chứng minh.
Chứng cứ thuật lại là những chứng cứ được sao chép lại từ những chứng cứ
khác. Giữa chứng cứ thuật lại và chứng cứ gốc là một khâu trung gian.
4.3.3. Phân loại chứng cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với những sự
kiện cần chứng minh
Căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với sự kiện cần chứng minh, chứng cứ
được chia ra thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
Chứng cứ trực tiếp là những sự kiện, tin tức thực tế mà dựa vào đó Tòa án có thể
rút ra được một kết luận xác thực là có hay không có trong thực tế những sự kiện cần
chứng minh. Ví dụ: Bản di chúc trong tranh chấp về thừa kế, bản hợp đồng trong tranh
chấp về hợp đồng.
Chứng cứ gián tiếp là chứng cứ nếu đứng độc lập thì giúp Tòa án rút ra không
phải là một kết luận nhất định nào đó mà là nhiều giả thiết, nhiều giả thiết này nếu
được so sánh với các chứng cứ khác thì giúp Tòa án tìm ra được một kết luận nhất
định.
II.THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự
1.1. Khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự
Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân và các
chủ thể khác yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người
khác.
Các chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự được quy định tại Điều 161, 162
BLTTDS. Cụ thể như sau:
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
- Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình
trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định.Chẳng hạn, yêu cầu Tòa án

huỷ việc kết hôn trái pháp luật, xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, cấp dưỡng,
chấm dứt việc nuôi con nuôi....
- Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động
trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do
pháp luật quy định.
- Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách.


1.1.2. Điều kiện thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự
Để thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự, các chủ thể của quyền khởi kiện vụ
án dân sự phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Một là phải có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Hai là việc khởi kiện vụ án dân sự phải đúng thẩm quyền của Tòa án. Đối với
những việc pháp luật quy định phải được cơ quan khác giải quyết trước khi Tòa án
giải quyết thì chỉ được khởi kiện khi cơ quan hữu quan đã giải quyết.
Ba là chỉ được khởi kiện đối với những việc chưa được Tòa án giải quyết bằng
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
Bốn là đối với những việc pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện thì việc khởi
kiện phải được tiến hành trong thời hiệu khởi kiện.
Ngoài các điều kiện trên, đối với cá nhân muốn khởi kiện vụ án dân sự còn phải
có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Những người không có năng lực hành vi tố tụng
dân sự, trong trường hợp cần yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ
thì người đại diện theo pháp luật khởi kiện thay. Đối với các tổ chức, muốn khởi kiện
phải có tư cách pháp nhân. Với tổ chức không có tư cách pháp nhân, các thành viên
của tổ chức có thể cùng khởi kiện.
1.2. Thụ lý vụ án dân sự và trả lại đơn khởi kiện
1.2.1. Thụ lý vụ án dân sự

Thụ lý vụ án dân sự là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện và
vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết.
Việc thụ lý vụ án dân sự được thực hiện theo trình tự sau:
- Khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải nghiên cứu xem đã rõ ràng chưa, nếu
thiếu Toà án có thể yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung;
- Xét xem người khởi kiện có quyền khởi kiện không;
- Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện, xác định thẩm quyền của Tòa án đối với việc
giải quyết vụ án;
- Sau khi đã nghiên cứu, xem xét kỹ các mặt, nếu thấy đủ điều kiện để thụ lý vụ
án thì Tòa án ấn định mức tiền tạm ứng án phí nguyên đơn phải nộp và thông báo cho
họ nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí tại Cơ quan thi hành án cùng cấp nơi Tòa án xét
xử sơ thẩm vụ án. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nộp đơn nguyên đơn phải nộp
tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp được miễn án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm
ứng án phí. Tòa án có thể gia hạn nộp tiền tạm ứng án phí thêm một tháng. Hết hạn đó
nếu nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án không thụ lý vụ án.
- Khi nguyên đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, Tòa án vào sổ thụ
lý vụ án. Thời hạn chuẩn bị xét xử tính từ ngày thụ lý vụ án. Nếu người khởi kiện
được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án thụ lý vụ án từ ngày
nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo (Điều 171 BLTTDS).


1.2.2. Những trường hợp trả lại đơn kiện
Đối với những trường hợp sau, theo Điều 168 BLTTDS, Tòa án không thụ lý vụ
án mà trả lại đơn kiện cho người khởi kiện:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết;
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự;
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ
trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức

cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi
nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ
điều kiện khởi kiện;
- Hết thời hạn được thông báo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự mà
người khởi kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do
chính đáng;
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện;
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Hoà giải và chuẩn bị xét xử, tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án,
đưa vụ án ra xét xử
2.1. Hòa giải vụ án dân sự
2.1.1. Khái niệm hòa giải
Theo Điều 10 BLTTDS, để giải quyết vụ án dân sự Tòa án có thể giải thích pháp
luật, giúp đỡ đương sự nhận thức đúng quyền lợi, nghĩa vụ của mình, giải quyết
những vướng mắc trong tư tưởng tình cảm giữa họ để các bên thỏa thuận với nhau về
giải quyết vụ án. Việc đó được gọi là hòa giải vụ án dân sự. Việc hòa giải vụ án dân
sự được Tòa án tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án. Hòa giải vụ án trước khi
xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc đối với việc giải quyết hầu hết các vụ án dân sự.
Như vậy, hòa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự
thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự.
Việc hòa giải trước hết là do đương sự tiến hành, vì đương sự là chủ thể của các
quan hệ pháp luật nội dung cần giải quyết trong vụ án. Đương sự mới có quyền trong
việc thương lượng, điều đình giải quyết các vấn đề của vụ án, không ai, dưới bất kỳ
hình thức nào có thể cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận.
Tuy vậy, Tòa án giữ một vai trò rất quan trọng trong việc hòa giải vụ án dân sự.
Quá trình hòa giải vụ án dân sự có kết quả hay không phụ thuộc rất lớn vào Tòa án. Là
cơ quan có nhiệm vụ giải quyết vụ án, Tòa án chủ động triệu tập các đương sự đến,
giải thích pháp luật cho các đương sự hiểu, giúp đỡ họ tháo gỡ những vướng mắc để
thỏa thuận với nhau về giải quyết các vấn đề của vụ án. Trường hợp đương sự thoả
thuận được việc giải quyết vụ án, Tòa án cũng cần kiểm tra lại trước khi ra quyết định

công nhận.


2.1.2. Phạm vi hòa giải
Theo Điều 181, 182 BLTTDS, Tòa án hòa giải tất cả các việc, trừ những việc
sau:
- Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
- Những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã
hội.
- Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng
mặt.
- Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
- Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi
dân sự.
2.1.3. Thủ tục hòa giải
- Sau khi điều tra lập hồ sơ vụ án, Tòa án đã nắm được nội dung vụ án, những
nguyên nhân và điều kiện phát sinh vụ án, những vướng mắc giữa các đương sự thì
Tòa án triệu tập các đương sự đến để hòa giải. Trong một vụ án có nhiều đương sự,
mà có đương sự vắng mặt trong phiên hoà giải, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng
ý tiến hành hoà giải và việc hoà giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của
đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa các đương sự có mặt; nếu
các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án
thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải (Điều 184 BLTTDS).
- Khi hòa giải, thẩm phán giải thích pháp luật, phân tích nội dung sự việc, để các
đương sự thỏa thuận với nhau về các vấn đề giải quyết trong vụ án. Nếu các đương sự
thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết vụ án thì thẩm phán kiểm tra
lại. Nếu sự thỏa thuận không trái pháp luật thì thẩm phán lập biên bản hòa giải thành.
Biên bản hòa giải thành có giá trị pháp lý xác nhận sự thỏa thuận của đương sự, nội
dung biên bản phải ghi rõ nội dung việc tranh chấp và những điều các đương sự đã
thỏa thuận.

- Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành mà không có
đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải
hoặc một Thẩm phán được Chánh án Toà án phân công ra quyết định công nhận sự
thoả thuận của các đương sự.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thoả
thuận của các đương sự, Toà án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện
kiểm sát cùng cấp.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực thi hành ngay, đương sự không có quyền kháng cáo quyết định này theo thủ tục phúc thẩm mà chỉ có
quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại việc giải quyết vụ án theo thủ tục
giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thoả thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe
doạ hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 187, 188 BLTTDS)
- Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận


được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành
và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trừ trường hợp có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ việc giải quyết vụ án.
2.2. Chuẩn bị xét xử
Từ khi Toà án thụ lý vụ án dân sự, Toà án chính thức xác nhận thẩm quyền và
trách nhiệm của mình trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nếu hoà giải không thành
Toà án phải củng cố, hoàn thiện hồ sơ vụ án để đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm tại phiên
toà. Các công việc chuẩn bị xét xử bao gồm phân công Thẩm phán thụ lý, lập hồ sơ vụ
án, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người tham gia tố tụng đến tham
gia phiên toà.
Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án được quy định như sau:
- Đối với các vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình, thời hạn chuẩn bị xét xử là
bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với các vụ án về kinh doanh, thương mại, lao
động thời hạn này là hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
- Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án
Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá một

tháng đối với vụ án về kinh doanh, thương mại, lao động và hai tháng đối với vụ án về
dân sự, hôn nhân và gia đình.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các
quyết định như công nhận sự thoả thuận của các đương sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ
án, đình chỉ giải quyết vụ án, đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp đương sự không
thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu Toà án thì Thẩm phán có thể tiến
hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
- Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
- Trưng cầu giám định;
- Quyết định định giá tài sản;
- Xem xét, thẩm định tại chỗ;
- Uỷ thác thu thập chứng cứ;
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
2.3.Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án và đưa vụ án ra xét xử
2.3.1. Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án
Căn cứ vào quy định tại 189 BLTTDS, trước khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án ra
quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong những trường hợp sau:
- Đương sự là cá nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể
mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân,
cơ quan, tổ chức đó.
- Một bên đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định
được người đại diện theo pháp luật.


- Chấm dứt đại diện hợp pháp của đương sự mà chưa có người thay thế.
- Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật
quy định là phải do cơ quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án.
- Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2.3.2. Đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự

Căn cứ vào Điều 168, 192 BLTTDS, trước khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án trong những trường hợp sau:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không
được thừa kế;
- Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ
quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người khởi
kiện không có quyền khởi kiện;
- Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có nguyên đơn
hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án;
- Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ
án;
- Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt;
- Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác
xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa
vụ, tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
2.3.3. Đưa vụ án dân sự ra xét xử
Theo Điều 179 BLTTDS, nếu đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà không có căn
cứ để ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án hoặc quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự thì Tòa án phải ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử.
3. Phiên tòa sơ thẩm dân sự
3.1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên toà được quy định tại các điều từ Điều 213 tới Điều 215
BLTTDS.
Trước khi tiến hành phiên tòa, cán bộ Tòa án được phân công làm thư ký phiên
tòa kiểm tra những người được triệu tập đã có mặt chưa, nếu có người vắng mặt thì
tìm hiểu lý do, sau đó phổ biến nội quy của phiên tòa. Khi Hội đồng xét xử vào phòng
xử án thì mọi người phải đứng dậy. Thủ tục bắt đầu phiên toà được tiến hành như sau:
- Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.

- Thư ký Toà án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những
người tham gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý do vắng mặt.


- Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên toà
theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và kiểm tra căn cước của đương sự.
- Chủ toạ phiên toà phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những
người tham gia tố tụng khác.
- Chủ toạ phiên toà giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch.
- Chủ toạ phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người tiến
hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.
- Trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định
- Khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà mà không thuộc trường
hợp Toà án phải hoãn phiên toà thì chủ toạ phiên toà phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn
phiên toà hay không; nếu có người đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định
việc hoãn phiên toà.
- Trong trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn
nhau thì chủ toạ phiên toà có thể quyết định cách ly đương sự với người làm chứng
trước khi hỏi người làm chứng.
3.2. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
Thủ tục xét hỏi được quy định tại các điều từ Điều 217 tới Điều 231 BLTTDS.
Thủ tục này được tiến hành như sau:
- Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe lời
trình bày của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp đương sự và nghe ý kiến bổ sung của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện đương sự.
- Sau khi nghe xong lời trình bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn
đề được thực hiện theo thứ tự chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân,
sau đó đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự và những

người tham gia tố tụng khác; trường hợp có Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì Kiểm
sát viên hỏi sau đương sự.
- Kết hợp với việc xét hỏi, Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án, xem
xét các tài liệu, vật chứng, kết luận giám định.
3.3. Tranh luận tại phiên tòa
Thủ tục tranh luận được quy định tại các điều từ Điều 232 tới Điều 235
BLTTDS.
Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Hội đồng xét xử hướng dẫn các đương sự, người
đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiến hành tranh luận. Khi
tranh luận, những người tham gia tranh luận không trình bày lại sự việc mà trình bày ý
kiến của mình về đánh giá chứng cứ, hướng giải quyết vụ án.
Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải
quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập


được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên
toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên
toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia
tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan
đến vụ án.
Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người
tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm
sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem
xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định
trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
3.4. Nghị án
Hội đồng xét xử nghị án tại phòng riêng, khi nghị án, Hội đồng xét xử xem xét
tất cả các vấn đề của vụ án và các yêu cầu của đương sự.
Trong quá trình nghị án, chủ tọa phiên tòa nêu từng vấn đề để các thành viên của

Hội đồng xét xử thảo luận. Hội đồng xét xử quyết định giải quyết các vấn đề của vụ
án theo đa số.
Tùy từng trường hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ hay một phần yêu cầu
của đương sự hoặc bác toàn bộ các yêu cầu của đương sự.
Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận của từng thành viên
Hội đồng xét xử và quyết định của Hội đồng xét xử (Điều 236 BLTTDS).
3.5. Tuyên án
Khi tuyên án chủ tọa phiên tòa phải đứng đọc nguyên văn bản án từ đầu đến
cuối. Nếu Tòa án xử kín vụ án thì tùy từng trường hợp, chủ tọa phiên tòa có thể đọc
toàn bộ bản án hoặc chỉ tóm tắt nội dung sự việc và nhận định của Tòa án, nhưng
phần quyết định của bản án thì phải đọc công khai. Sau khi đã tuyên án, chủ tọa phiên
tòa giải thích cho các đương sự về quyền kháng cáo của họ.
Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người
phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết (Điều
239 BLTTDS).



×