Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

QUẢN LÝ ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.15 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

NGUYỄN VĂN CHUYỀN

QUẢN LÝ ĐÀO TẠO Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH ĐÁP ỨNG
NHU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG HIỆN NAY

Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số

: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Hải Hưng

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, đặc biệt là giảng viên TS. Dương Hải Hưng là người trực
tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn. Nhờ sự giúp, dìu
dắt của thầy cô em đã học hỏi được những kiến thức cơ bản đáng quý
không những từ sách vở mà cả trong thực tế, từ đó giúp em tích luỹ được
những kinh nghiệm quý báu để tiếp tục bước chân trên con đường sự
nghiệp sau này.
Tuy nhiên do thời gian hạn hẹp, khả năng của tác giả có hạn mà


vấn đề nghiên cứu quá rộng, nằm trong môi trường luôn vận động và biến
đổi, phải sử dụng một khối lượng lớn tài liệu nên luận văn không tránh
khỏi những sơ suất. Em rất mong nhận được những lời khuyên, những
góp ý của quý Thầy Cô trong hội đồng phản biện và những người đã đọc
luận văn này./.
Hà Nội, tháng 07 năm 2014
Tác giả

NGUYỄN VĂN CHUYỀN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BGH
CĐN
CBQL
CBGV
CNH
CSDN
CĐN
CMKT
DN
GD&ĐT
GV
GVDN
HĐH
HSSV
LĐTBXH
QLGD
SCN

TCN
TTLĐ

Xin đọc là
Ban giám hiệu
Cao đẳng nghề
Cán bộ quản lý
Cán bộ giáo viên
Công nghiệp hoá
Cơ sở dạy nghề
Cao đẳng nghề
Chuyên môn kỹ thuật
Doanh nghiệp
Giáo dục và đào tạo
Giáo viên
Giáo viên dạy nghề
Hiện đại hoá
Học sinh, sinh viên
Lao động - Thương binh và Xã hội
Quản lý giáo dục
Sơ cấp nghề
Trung cấp nghề
Thị trường lao động


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đảng và nhà nước luôn quan tâm tới vấn đề phát triển nguồn nhân lực có
kỹ năng nghề vững vàng. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng đã
đề ra chủ trương phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề giai đoạn 2006 2010 là: “Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng nhanh quy
mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, các
vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động” và “Tạo chuyển biến
căn bản về chất lượng dạy nghề tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực
và thế giới. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích phát triển các hình thức
dạy nghề đa dạng, linh hoạt: dạy nghề ngoài công lập, tại doanh nghiệp,
tại làng nghề”. Đặc biệt, tại Chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc
gia thời kỳ 2010 – 2020 đã xác định giải pháp để nâng cao chất lượng
nguồn là: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo nhu cầu
phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng đào tạo theo yêu cầu chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ
đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tại Chiến lược phát
triển dạy nghề giai đoạn 2011 - 2020 của Chính phủ đã có quan điểm chỉ
đạo thực hiện mục tiêu phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020 là: “Nâng
cao chất lượng và phát triển quy mô dạy nghề là một quá trình, vừa phổ
cập nghề cho người lao động, đồng thời phải đáp ứng nhu cầu của các
ngành, nghề sử dụng nhân lực có tay nghề cao trong nước và xuất khẩu
lao động”. Bởi vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục dạy nghề đáp ứng
nhu cầu lao động là hết sức quan trọng.
Yếu tố con người, vốn con người đã trở thành một yếu tố quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế. Nhờ có nền tảng giáo dục-đào tạo, trong
đó có đào tạo nghề, người lao động có thể nâng cao được kiến thức và kĩ
1


năng nghề của mình, qua đó nâng cao năng suất lao động, góp phần phát
triển kinh tế. Như vậy có thể thấy, giáo dục đào tạo nghề là một thành tố

và là thành tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định phát triển nguồn
nhân lực. Muốn có nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh
tranh cao trên thị trường lao động, song song với các cơ chế chính sách
sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, cần phải tăng cường quản lý nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng.
Nam Định là một tỉnh nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, Việt
Nam. Theo quy hoạch năm 2008 thì Nam Định thuộc vùng duyên hải Bắc
Bộ, có tiềm năng về đất đai, lâm sản, khoáng sản và thế mạnh phát triển
kinh tế - xã hội. Với những điều kiện thuận lợi về địa lý gắn với vùng
nguyên liệu, trong những năm qua lĩnh vực công nghiệp đã và đang phát
triển nên nhu cầu về lực lượng lao động có tay nghề là rất lớn.
Trường Cao đẳng nghề Nam Định được thành lập theo Quyết định
số 1989/QĐ-LĐTBXH ngày 29 tháng 12 năm 2006 trên cơ sở nâng cấp
từ trường Trung học thủy lợi và phát triển nông thôn Nam Định . Là
trường đào tạo đa dạng về trình độ chuyên môn kỹ thuật ( từ Sơ cấp nghề,
Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề) và đa dạng về ngành nghề. Với chức
năng nhiệm vụ đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật có tay nghề, chuyên
môn nghiệp vụ, có ý thức kỷ luật v.v... Trên thực tế trong những năm qua
và hiện nay trường Cao đẳng nghề Nam Định đã có nhiều đổi mới trong
công tác quản lý và đặt được nhiều thành tựu to lớn, nguồn nhân lực lao
động nhà trường đào tạo đã tăng cả về số lượng, chất lượng từng bước
đáp ứng được nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề cung cấp cho các doanh
nghiệp và thị trường lao động. Tuy nhiên, công tác đào tạo còn tồn tại
một số vấn đề như : Quá trình quản lý đào tạo nghề chưa đồng bộ về mục
tiêu, nội dung chương trình, đội ngũ giáo viên, số lượng tuyển sinh hằng
năm chưa đạt kế hoạch được giao, điều kiện cơ sở vật chất còn bất cập,
2


hạn chế nên chất lượng đào tạo nguồn nhân lực lao động còn chưa đáp

ứng được nhu cầu sử dụng lao động đa dạng hiện nay của thị trường,
chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của phát triển kinh tế – xã hội. Trong các
nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo nghề ở trường Cao đẳng nghề
Nam Định chưa như mong muốn thì công tác quản lý đào tạo là một hạn
chế cần khắc phục và đổi mới.
Là một cán bộ của sở lao động thương binh, xã hội và đồng thời
trực tiếp quản lý và giảng dạy tại trường cao đẳng nghề trên địa bàn tỉnh
Nam Định, tác giả nhận thấy được những mặt mạnh, ưu điểm cũng như
những tồn tại khuyết điểm cần khắc phục để nâng cao chất lượng đào tạo
ở trường Cao đẳng nghề Nam Định .
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài:
“Quản lý đào tạo ở trường Cao đẳng nghề Nam Định đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng dạy nghề tại trường Cao đẳng nghề Nam Định, đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động hiện nay .
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động đào tạo ở trường Cao đẳng nghề
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lí đào tạo ở trường Cao đẳng nghề Nam Định
đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động đào tạo ở trường Cao đẳng nghề Nam Định trong thời
gian qua đã được quan tâm quản lý chặt chẽ và đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Tuy nhiên, trước nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động
3



hiện nay, hoạt động đào tạo và công tác quản lý còn bộc lộ nhiều bất cập.
Nếu phân tích rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý đào tạo của trường cao
đẳng nghề Nam Định thì có thể đề ra được các biện pháp quản lý phù
hợp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của thị
trường lao động hiện nay ở địa phương và các vùng lân cận.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý hoạt động đào tạo nghề
trong các trường Cao đẳng nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động .
5.2 Khảo sát, đánh giá thực trạng đào tạo và quản lý đào tạo ở
trường Cao đẳng nghề Nam Định đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
5.3 Đề xuất các biện pháp quản lý đào tạo đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động hiện nay ở trường Cao đẳng nghề Nam Định.
6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Về nội dung: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về quản lý
giáo dục nói chung, vận dụng vào quản lý đào tạo nghề. Nghiên cứu,
đánh giá thực trạng công tác quản lý đào tạo, thực trạng các biện pháp
quản lý đào tạo, từ đó đề ra một số biện pháp quản lý đào tạo chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề tại trường Cao đẳng nghề Nam Định.
6.2. Về không gian nghiên cứu : Nghiên cứu được tiến hành tại
trường Cao đẳng nghề Nam Định. Khảo sát nhu cầu thị trường lao động ở
tỉnh Nam Định
6.3. Về thời gian: Nghiên cứu sử dụng số liệu thứ cấp thu thập
trong 3 năm, từ năm 2010 đến 2012, số liệu sơ cấp thu thập trong năm
2013, định hướng và các giải pháp đến năm 2020.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, so sánh, khái quát hóa, đánh giá tổng hợp các thông tin,
tài liệu để xác định cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý cho vấn đề nghiên cứu.
4



7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra viết : Là phương pháp nghiên cứu sử dụng
phiếu trưng cầu ý kiến với hệ thống câu hỏi. Phương pháp này dùng để
thu thập thông tin về thực trạng quản lý đào tạo của trường Cao đẳng
nghề Nam Định, nhu cầu sử dụng lao động tại các doanh nghiệp và các
cơ sở sản xuất từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất một số biện pháp quản lý
đào tạo.
- Phương pháp quan sát : là phương pháp trực tiếp tìm hiểu thực
trạng hoạt động quản lý đào tạo của trường Cao đẳng nghề Nam Định,
thực trạng về nhu cầu thị trường lao động ở tỉnh Nam Định. Theo dõi, tìm
hiểu những học sinh – sinh viên sau khi tốt nghiệp đã và đang làm việc tại
các cơ sở sản xuất, thông qua đó thu thập những thông tin từ phía người
sử dụng lao động.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm : Tổng kết kinh nghiệm quản lý
đào tạo của Ban giám hiệu Trường từ khi thành lập đến nay, kinh nghiệm
quản lý của các trường dạy nghề khác trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Phương pháp phỏng vấn : Trao đổi, xin ý kiến với các lãnh đạo,
giáo viên, học sinh và sinh viên nhà trường để có ý kiến trực tiếp hỗ trợ
cho người nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến của các chuyên gia về quản
lý đào tạo nói chung, quản lý đào tạo nghề nói riêng nhằm xem xét đánh
giá, khảo nghiệm tính khả thi của đề tài.
7.3 Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các công thức toán học để thống kê, xử lý số liệu đã thu được.
8. Điểm mới của đề tài
Về lý luận :
Xây dựng được cơ sở lý luận về quản lý đào tạo nghề theo hướng
đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện nay:
5



- Làm sáng tỏ khái niệm: quản lý đào tạo nghề theo hướng đáp ứng
nhu cầu thị trường lao động ;
- Xây dựng được nội dung quản lý đào tạo nghề và đào tạo nghề ở
trường Cao đẳng nghề Nam Định theo chu trình đào tạo đáp ứng nhu cầu
thị trường lao động. Làm rõ được các yếu tố ảnh hưởng đến công tác
quản lý đào tạo nghề ở trường cao đẳng nghề theo hướng đáp ứng nhu
cầu thị trường lao động hiện nay
Về thực tiễn :
- Đánh giá được thực trạng đào tạo nghề và quản lý đào tạo nghề
theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện nay ở trường cao
đẳng nghề Nam Định và các DN tại Nam Định và các tỉnh khu vực đồng
bằng Sông Hồng.
- Đề xuất được 6 giải pháp quản lý đào tạo ở trường cao đẳng nghề
Nam định theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường lao động có tính khả thi.
9. Dự kiến cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đào tạo ở trường Cao đẳng
nghề đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động
Chương 2: Thực trạng quản lý đào tạo ở trường Cao đẳng nghề
Nam Định đáp ứng nhu cầu thị trường lao động
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động đào tạo ở trường Cao
đẳng nghề Nam Định theo hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường lao
động .

6


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO Ở TRƯỜNG CAO
ĐẲNG NGHỀ ĐÁP ỨNG NHU CẦU THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia gắn liền với chiến
lược phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, thay vì đầu tư khai thác tài
nguyên thiên nhiên, đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm
tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh và là yếu tố quyết định phát triển
bền vững đất nước.
Ở các nước phát triển, đào tạo nghề phát triển hướng theo đáp ứng
nhu cầu thị trường. Chất lượng đào tạo nghề được đánh giá bằng chất
lượng sản phẩm của người học nghề. Người học nghề sớm được tiếp cận
với thực tế sản xuất trong doanh nghiệp song song với học lý thuyết ở nhà
trường để kết thúc khóa học họ có khả năng tham gia sản xuất mà người
sử dụng lao động không phải mất chi phí và thời gian đào tạo lại.
Các quốc gia Châu Âu là những quốc gia có nền kinh tế phát triển
nhất thế giới, họ đi đầu trong việc Phát triển đào tạo nghề theo hướng
“cầu” và đã đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cao, uy tín.
Trong công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc tìm hiểu tổng quan, tiếp thu,
học hỏi có chọn lọc, áp dụng mềm dẻo kinh nghiệm phát triển đào tạo nghề
ở các quốc gia phát triển là thực sự cần thiết với nước ta hiện nay.
Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến lĩnh vực đào tạo
nghề, trong đó mối quan hệ giữa đào tạo nghề với cơ sở sử dụng lao động
được các quốc gia đề cập đến , nhằm góp phần quan trọng trong việc giải

7



quyết mối quan hệ giữa lao động và việc làm trong mỗi quốc gia .
Về đào tạo theo "hướng cầu " gắn đào tạo với sử dụng với nhu cầu
của doanh nghiệp, với việc làm và nhu cầu của người học được nhiều
nước trên thế giới nghiên và cứu triển khai,thực hiện .
* Nghiên cứu về đào tạo nghề
Ở Hoa Kỳ các trường dạy nghề đã sớm sử dụng mô đun trong đào
tạo công nhân, đó là việc đào tạo bổ túc tức thời cho công nhân làm trong
các dây chuyền sản xuất ô tô của các hãng General Motor và Fordvaof
những năm 20 của thế kỷ trước . Để đáp ứng với các dây chuyền sản xuất
theo kiểu Taylor vốn thống trị thời bấy giờ , công nhân được đào tạo cấp
tốc trong các khóa học ngắn hạn theo mô đun. Học viên được làm quen
với mục tiêu công việc và được đào tạo ngay tại dây truyền với nội dung
không thừa, không thiếu nhằm đảm nhận được một công việc cụ thể trong
dây chuyền. khi có sự thuyên chuyển vị trí làm việc (nội dung làm việc
khác) ,người công dân phải qua một khóa học ngắn hạn tương tự . Giai
đoạn 1970, tiếp cận năng lực được hình thành và phát triển rộng khắp tại
Mỹ giáo dục và đào tạo nghề dựa trên việc thực hiện nhiệm vụ, các tiếp
cận về năng lực đó phát triển một cách mạnh mẽ trên một nấc thang mới.
Khuyến cáo chung của UNESCO và ILO [48], đã đề cập đến mối
quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo, thế giới việc làm, giữa nhà trường và xã
hội. Tuy nhiên, đây chỉ là khuyến cáo chưa có giải pháp cụ thể.
ILO đã xuất bản cuốn sách “Mô đun kỹ năng hành nghề - Một
phương pháp tiếp cận trong đào tạo nghề” đề xuất đào tạo nghề theo Mô
đun kỹ năng hành nghề - MES (Module of Employable Skills) gắn với việc
làm và trên cơ sở đó, đã tổ chức biên soạn ngân hàng chương trình đào tạo
nghề theo KHM để phổ biến cho nhiều nước trên thế giới [49], [50].
UNESCO cũng đã xuất bản tác phẩm “Phát triển Mô đun cho Giáo
dục kỹ thuật và dạy nghề” [51].
8



Trong công trình “Triển khai đào tạo linh hoạt – Kinh nghiệm của
Úc”, Julie Hekenberg đã kiến nghị tổ chức đào tạo nghề phải linh hoạt để
đáp ứng nhu cầu của thị trường luôn biến động bằng cách tổ chức các
chương trình đào tạo nghề theo mô đun [52]. Trong công trình “Đào tạo
nghề theo Mô đun kỹ năng hành nghề” của Elizabeta Strojna [53], bà cho
rằng, chương trình đào tạo theo mô đun có tính linh hoạt, dễ cải tiến cập
nhật và bổ sung, giúp người học dễ tiếp thu bài giảng, đào tạo liên kết với
việc làm ở Ba Lan.
Trong công trình “Đào tạo nghề ở Hoa Kỳ...” Carnevale A.P.,
Gainer L.J. and Villet J. đã nêu rõ tại Trung tâm giáo dục nghề nghiệp ở
Ohio người ta sử dụng hệ thống bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo
viên dạy nghề trên cơ sở sử dụng 100 mô dun thuộc 10 loại nghiệp vụ sư
phạm nghề nghiệp khác nhau [54].
Ở Úc, Donel O. đã xuất hiện tác phẩm “Thiết kế chương trình theo
mô đun cho hệ thống TAFE” [55].
Trong tác phẩm “Đào tạo – Tiếp cận hệ thống” của Viện nghiên cứu
về quản lý giáo dục của Thụy Điển đã nêu lên mối quan hệ giữa đào tạo
với sản xuất, với thị trường lao động . Ở Thụy Điển, chương trình đạo tạo
công nhân được cấu trúc theo trình tự và nội dung cơ bản của quy trình
công nghệ ở xí nghiệp. Mỗi nội dụng cơ bản được thể hiện qua các mô
đun đào tạo, trong đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Điều đặc biệt đáng lưu ý
là việc kết thúc một hay nhiều mô đun phụ thuộc vào nguyện vọng
của người đi học với sự thỏa thuận của chủ xí nghiệp và có ảnh hưởng
đến mức lương và thu nhập của một công nhân vì nó là “một chỉ số
nói lên trình độ và mức độ toàn tâm và sẵn sàng vì công việc” của
người công nhân.
9



* Quản lý đào tạo nghề theo năng lực thực hiện đáp ứng nhu cầu
các doanh nghiệp cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu như công trình
“Thiết kế chương trình đào tạo theo năng lực thực hiện”

của Bruce

Markenzie [56], công trình “Phát triển chương trình đào tạo nghề ngắn
hạn” của Doug Ledgerwood [57], công trình “Thiết kế đào tạo theo năng
lực thực hiện” của Fletcher S. [50], công trình “Chuẩn kỹ năng” của Viện
đào tạo Kỹ thuật của Úc [58]. Các công trình này đề lưu tâm đến việc đào
tạo theo năng lực với các chuẩn đầu ra để đáp ứng nhu cầu các doanh
nghiệp dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và của sản xuất.
* Quản lý đào tạo nghề trong cơ chế thị trường cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu của nhiều tác giả như: “Chiến lược quản lý đào tạo
ở các nước phát triển” của John E. Kerrigan and Jeff S. Luke [58],
“Quản lý đào tạo nghề đáng ứng nhu cầu thị trường lao động” và “Phát
triển nguồn nhân lực: mẫu hình, chính sách và thực tiễn” của R.Noonan
[59], [60], “Quản lý đào tạo và phát triển hệ thống” của William R. Tracey
[61]. Những công trình này đều đề cập đến quản lý đào tạo trong cơ chế thị
trường theo quy luật cung cầu và quản lý hệ thống đào tạo theo phương
pháp tiếp cận hiện đại gắn nhà trường với doanh nghiệp, với sản xuất, quản
lý đào tạo theo “hướng cầu” như: Đào tạo dựa trên nhu cầu của việc làm và
nhu cầu của người học trong cộng đồng; Tổ chức đào tạo linh hoạt; Quản lý
Giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, Những
công trình này cũng đề cập đến chất lượng và hiệu quả đào tạo trong cơ chế
thị trường, tính cơ động và quản lý trong môi trường luôn biến đổi.
Tóm lại, quản lý đào tạo tại các trường dạy nghề theo hướng đáp
ứng nhu cầu xã hội đã được các nhà khoa học ngoài nước đề cập đến. Tuy
nhiên, mỗi tác giả chỉ đề cập đến một số vấn đề quản lý đào tạo khác

nhau mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện và chưa hình thành được lý
luận quản lý đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu xã hội một cách hệ thống.
10


1.1.2. Việt Nam
1.1.2.1. Đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động
Phó thủ tướng – Nguyễn Thiện Nhân đã đề ra chủ chương “đào tạo
đáp ứng nhu cầu xã hội” và đã được xã hội hoan nghênh. Thứ trưởng Bộ
GD&ĐT Bành Tiến Long đã công bố công trình: “Đào tạo theo nhu cầu
xã hội ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” [28]. Năm 2007 Bộ
GD&ĐT đã tổ chức tại TP.HCM Hội thảo quốc gia “Đào tạo theo nhu
cầu xã hội” nhằm tìm sự đồng bộ giữa nhà trường với thị trường lao động
và đã đưa ra một số định hướng và các giải pháp về đào tạo theo nhu cầu
xã hội như sau:
- Thành lập cơ quan dự báo nhu cầu xã hội.
- Xây dựng cơ chế chính sách năng động để thực hiện đào tạo theo
nhu cầu xã hội.
- Tăng cường cơ chế hợp tác giữa nhà trường với nhà tuyển dụng.
- Phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý.
- Xây dựng danh mục nghề và tiêu chuẩn nghề nghiệp.
- Kiểm định và đánh giá năng lực nghề nghiệp.
Năm 2008 Bộ GD&ĐT tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội
hội thảo quốc gia “Sinh viên với đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu
cầu doanh nghiệp” và đã đi đến kết luận: Đào tạo theo nhu cầu xã hội cần
1 “tam giác” gồm: sinh viên, nhà trường, doanh nghiệp tạo thành một tam
giác để đáp ứng được đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động .
Đại học Xã hội nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã tổ
chức Hội thảo khoa học “Đào tạo theo nhu cầu xã hội” và hội thảo đó chỉ
ra sinh viên yếu kỹ năng và kém về thực hành, đào tạo để đáp ứng nhu

cầu xã hội phải bắt đầu từ nhận thức.
Nghiên cứu về đào tạo nghề theo “hướng cầu” đã có một số công
trình như: “Đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH-HĐH, trong điều
11


kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” của Nguyễn
Minh Đường, Phan Văn Kha [29], “Hoàn thiện đào tạo nghề tại xí
nghiệp”, báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ, mã số B91-38-07 của Trần
Khánh Đức, Nguyễn Lộc; “Mở rộng hình thức dạy nghề trong doanh
nghiệp” của Minh Hiền [30]; “Đào tạo nghề gắn kết giữa nhà trường và
doanh nghiệp” của Nguyễn Thị Minh Nguyệt [31]; “Một số giải pháp về
đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp” của Mạc Văn Tiến [32];
“Về đào tạo theo nhu cấu xã hội đối với các cơ sở đào tạo” của Đặng
Xuân Hải [33], “Cung – Cầu giáo dục” của Vũ Ngọc Hải [34], “Đào tạo
và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Phan
Văn Kha [35], “giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân
lực” của Trần Khánh Đức [36], “Quan hệ giữa giáo dục và kinh tế thị
trường, tình hình ở một số nước” của Đặng Bá Lâm [37], Báo cáo đề tài
NCKH cấp Bộ “Các giải pháp liên kết giữa nhà trường với cơ sở sản
xuất nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo” của Nguyễn Xuân
Mai [38], “Giáo dục nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế” của Phan Văn Nhân [39],... Những công trình này đã đề
cập đến sự cần thiết phải đào tạo theo “hướng cầu” đề đáp ứng nhu cầu
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đồng thời cũng đã nêu lên một số ý
tưởng về một số giải pháp để thực hiện đào tạo đáp ứng nhu cầu doanh
nghiệp nhưng chưa đề cập đến vấn đề cốt lõi là đối với mục tiêu, nội
dung và chương trình đào tạo cũng như tổ chức quá trình đào tạo để thích
ứng với đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện
nay.

1.2.2.2. Đào tạo nghề theo mô đun gắn với việc làm
Ở nước ta, năm 1986 Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề, với sự tài
trợ của UNESCO đã tổ chức cuộc hội thảo về phương pháp biên soạn nội
dung đào tạo nghề, trong đó có đề cập đến kinh nghiêm đào tạo nghề theo
12


mô đun ở một số nước. Tiếp đó, năm 1990 Bộ GD&ĐT đã tổ chức cuộc
hội thảo với sự tài trợ của ILO nhằm tìm hiểu khả năng ứng dụng phương
thức đào tạo nghề theo mô đun kỹ năng hành nghề (Module of
Employable Skills – MES) ở Việt Nam. Tháng 5 năm 1992, Trung tâm
phương tiện kỹ thuật day nghề (CREDEPRO) cũng đã tổ chức cuộc hội
thảo về phương pháp tiếp cận đào tạo nghề theo MES với tài trợ của
UNDP. Năm 1994, Nguyễn Minh Đường đã cho xuất bản cuốn sách “Mô
đun kỹ năng hành nghề - Phương pháp tiếp cận, hướng dẫn biên soạn và
áp dung” [40]. Vào những năm 1993-1994, Vụ Trung học chuyên nghiệp
và Dạy nghề, Bộ GD&ĐT đã tổ chức xây dựng 5 bộ chương trình dạy
nghề ngắn hạn theo MES và đã thực nghiệm ở một số trung tâm dạy nghề
và trường dạy nghề. Năm 1997, Nguyễn Đức Trí cũng đã có công trình
“Nghiên cứu ứng dụng phương pháp đào tạo nghề theo mô đun kỹ năng
nghề nghiệp”.
Về quản lý đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, nhu
cầu xã hội cũng đã có một số công trình như: “Định hướng phát triển hệ
thống thông tin thị trường lao động phục vụ đổi mới hệ thống giáo dục kỹ
thuật và dạy nghề ở Việt Nam” của Tổng cục dạy nghề, Bộ Lao động –
Thương bình và Xã hội [41], “Lý luận quản lý nhà trường” của Nguyễn
Thị Mỹ Lộc, Nguyễn Quốc Chi [42], “Cở sở lý luận quản lý trong tổ
chức giáo dục” của Nguyễn Lộc (chủ biên), Mạc Văn Trang, Nguyễn
Công Giáp [43], “Xây dựng mô hình liên kết dạy nghề giữa nhà trường
và doanh nghiệp”, báo cáo tổng kết đề tài NCKH cấp Bộ của Trần Văn

Xuyên [44], “Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm” của
Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh [45], “Quản lý giáo
dục – Quản lý nhà trường, Một số hướng tiếp cận” của Đặng Quốc Bảo
[46], “Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội – Quan niệm và giải pháp thực
hiện” của Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Thị Hằng [47], ... Những công
13


trình nêu trên đã đề cập đến những vấn đề lý luận về quản lý và các định
hướng về quản lý đào tạo nhưng chưa đề cập đến vấn đề quản lý đào tạo
cụ thể của nhà trường để đáp ứng nhu cầu thị trường lao động .
Tuy vậy cho đến nay, vấn đề quản lý hoạt động đào tạo ở trường dạy
nghề nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường lao động vẫn chưa được nghiên
cứu một cách cụ thể, còn thiếu những biện pháp quản lý vi mô cần thiết.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Nghề xã hội và nghề đào tạo
Nghề là thuật ngữ để chỉ một hình thức lao động sản xuất nào đó
trong xã hội.
Tác giả E.A.Klimov viết: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng
sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn,
cần thiết cho xã hội (do sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo
cho con người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những
phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển” . Với khái niệm này,
nghề được gọi là “nghề xã hội”.
Theo từ điển Tiếng Việt, nghề là: “Công việc chuyên môn làm theo
sự phân công lao động xã hội”
Theo tác giả Nguyễn Hùng thì:“ Những chuyên môn có những đặc
điểm chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên môn và
được gọi là nghề. Nghề là tập hợp của một nhóm chuyên môn cùng loại,
gần giống nhau. Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó

con người dùng sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác
động vào những đối tượng cụ thể nhằm biến đổi những đối tượng đó
theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi ích của con người ” .
Hai khái niệm trên đều đề cập đến vấn đề “chuyên môn” nghĩa là
cần có sự đào tạo. Vậy có thể nói, nghề đào tạo là công việc được mà
người lao động được đào tạo thông qua các chương trình được nhà quản
14


lý và nhà giáo dục thiết kế dựa trên những tiêu chí về phẩm chất, năng
lwhc của người lao động trong lĩnh vực đó.
Tác giả nghiên cứu luận văn này theo khái niệm nghề đào tạo đã
nêu ở trên.
1.2.1.1. Đào tạo
Trong giáo dục và đào tạo có các quá trình tiếp nối và xen kẽ: đào
tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại. Các quá trình này gắn liền với sự hình
thành và phát triển nghề nghiệp của người giáo viên theo xu thế học tập
thường xuyên, suốt đời.
Theo quan niệm phổ biến, đào tạo là một quá trình trang bị kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ phẩm chất đạo đức cho người học để vào
đời, họ có thể trở thành những người lao động có kỹ thuật, có năng suất
lao động cao. Quá trình đào tạo diễn ra theo kế hoạch, chương trình ứng
với từng thời gian quy định, trong các cơ sở đào tạo.
Trong Từ điển bách khoa Việt Nam : "Đào tạo là quá trình tác động
đến một con người, làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích
nghi với cuộc sống và có khả năng nhận được sự phân công lao động nhất
định, góp phần của mình vào sự phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền
văn minh của loài người" (Từ điển Bách Khoa Việt Nam – H., 1995).
Đào tạo có nhiều dạng: đào tạo cấp tốc; đào tạo chuyên sâu; đào tạo

cơ bản; đào tạo ngắn hạn; đào tạo từ xa và đào tạo lại (tương đương với
bồi dưỡng)... Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động,
người ta phân loại đào tạo gồm đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề
nghiệp, và chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào
tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới thực sự có kết quả cao.
Tác giả Hồ Ngọc Đại (Giải pháp về giáo dục – H, 1991) định nghĩa: "Đào
tạo được hiểu là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình
15


thành và phát triển một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
nghề nghiệp và thái độ của người lao động nhằm xây dựng nhân cách cơ
bản cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho họ có thể tham gia lao động nghề
nghiệp trong cuộc sống xã hội".
Tác giả Nguyễn Minh Đường trong đề tài KX07 - 14 quan niệm:
"Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành
và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ... để hoàn
thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành
nghề một cách năng suất và hiệu quả"...
Như vậy, có thể hiểu: Đào tạo là quá trình trang bị kiến thức, kỹ
năng ban đầu cùng với những phẩm chất, thái độ cần thiết để người được
đào tạo có thể hành nghề và trở thành người lao động có năng lực và
phẩm chất nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của xã hội. Còn đào tạo lại cũng
chính là một dạng của đào tạo, là quá trình tạo cho người lao động (đã
được đào tạo) có cơ hội được học tập, được đào tạo chuyên sâu hay một
lĩnh vực chuyên môn mới một cách cơ bản, có hệ thống cả tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo lẫn thái độ nhằm mục đích có trình độ tay nghề cao hơn
hoặc có thể chuyển đổi nghề (hay công việc mới). Đây chính là quá trình
hoạt động nhằm phát triển nhân cách một cách hài hoà, toàn diện cho mọi
người, giúp họ trở thành người lao động có năng lực và phẩm chất nghề

nghiệp, đáp ứng yêu cầu xã hội.
1.2.1.2. Đào tạo nghề:
Đào tạo nghề (ĐTN) là quá trình phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp; ĐTN là nhằm hướng vào hoạt động
nghề nghiệp và hoạt động xã hội.
Có rất nhiều định nghĩa về ĐTN, dưới góc độ quản lý ĐTN có thể
định nghĩa: ĐTN là quá trình giáo dục, phát triển một cách có hệ thống

16


các kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp và khả năng tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm.
Rõ ràng nếu người tốt nghiệp không có khả năng tìm được việc làm
không biết tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường, thì ĐTN sẽ không
mang lại hiệu quả, sẽ tốn kém vô ích và cũng chỉ góp phần nâng cao dân
trí giống như giáo dục phổ thông mà thôi.
Hiện nay, đang tồn tại nhiều định nghĩa về đào tạo nghề (Dạy
nghề). Một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số khái
niệm:
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “Dạy nghề là cung
cấp cho người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm
vụ liên quan tới công việc nghề nghiệp được giao”.
Ngày 29/11/2006, Quốc hội đã ban hành Luật Dạy nghề số
76/2006/QH11.Trong đó viết: “ Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm
trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người
học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc từ tạo việc làm sau khi hoàn
thành khoá học”
Vậy, Đào tạo nghề là quá trình truyền thụ và lĩnh hội một hệ thống
tri thức nhất định trong nghề đào tạo và tư duy con người, các kỹ năng,

kỹ xảo và năng lực nhận thức để hình thành nhân cách nghề nghiệp, quá
trình này được thực hiện thông qua việc giảng dạy theo các nghề đào tạo.
*Nguyên tắc đào tạo nghề:
Đào tạo nghề là khâu quan trọng trong việc giải quyết việc làm
cho người lao động, tuy nó không tạo ra việc làm ngay nhưng nó lại là yếu
tố cơ bản tạo thuận lợi cho quá trình tìm việc làm và thực hiện công việc.
Dạy nghề giúp cho người lao động có kiến thức chuyên môn, kỹ năng và
thái độ nghề nghiệp để từ đó họ có thể xin làm việc trong các cơ

17


quan, doanh nghiệp, hoặc có thể tự tạo ra công việc sản xuất cho bản thân.
Vậy công tác đào tạo nghề thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo các quan điểm, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung chương trình, giáo trình đào tạo
phải thực hiện theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, phải được xây dựng phát triển theo quy trình đổi mới và phát triển
của đất nước.
- Đảm bảo đào tạo theo nhu cầu: Đào tạo phải thực hiện trên nhu
cầu của xã hội, nhu cầu thực tiễn của sản xuất. Có thể nói rằng, các cơ sở
đào tạo cần dạy cho người học những nghề mà thị trường cần, chứ không
phải dạy cho người học những nghề mà cơ sở đào tạo có.
- Đào tạo gắn với thực hành và thực tiễn: Nguyên tắc này đòi hỏi
nội dung chương trình, giáo trình, trang thiết bị thực hành phải gắn với
thực tiễn. Đào tạo lấy thực hành, thực tập kỹ năng nghề, khả năng
vận dụng vào thực tiễn làm chính; coi trọng giáo dục đạo đức, lương
tâm nghề nghiệp, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong
công nghiệp của người học, đảm bảo tính giáo dục toàn diện để sau khi
tốt nghiệp người học có thể đáp ứng được những yêu cầu của xã hội.

- Đảm bảo tính hiệu quả: Nguyên tắc này phải đảm bảo chất lượng
và hiệu quả, đảm bảo thực hiện tốt các khâu như xác định nhu cầu đào
tạo, lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá kết quả đào tạo.
*Quá trình đào tạo nghề
Quá trình đào tạo nghề bao gồm xác định mục tiêu đào tạo, nội
dung chương trình đào tạo, kế hoạch đào tạo, hình thức tổ chức đào tạo,
phương pháp đào tạo, kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, chất lượng
đào tạo.

18


- Mục tiêu đào tạo nghề : là kết quả cần đạt được sau khi kết thúc
quá trình đào tạo, thể hiện ở những yêu cầu về phát triển nhân cách và
trang bị kiến thức, kỹ năng nghề cho người học. Mục tiêu đào tạo quy
định nội dung và phương pháp đào tạo, đồng thời là căn cứ để kiểm tra,
đánh giá kết quả và chất lượng của quá trình đào tạo. Nếu mục tiêu đào
tạo sát với thực tế và yêu cấu của xã hội thì người học sau khi kết thúc
khóa học sẽ có khả năng làm việc, đáp ứng được yêu cầu của người sử
dụng lao động, tức là hiệu quả đào tạo cao.
- Kế hoạch, nội dung và chương trình đào tạo: Nội dung và chương
trình đào tạo nghề là một thể thống nhất các kiến thức, kỹ năng của từng
môn học được liên kết với nhau một cách logic từ đó vận dụng các kiến
thức chuyên môn để hình thành tư duy kỹ thuật, thực tiễn và sáng tạo. Kế
hoạch, nội dung và chương trình đào tạo phải tuân theo các nguyên tắc sư
phạm, đảm bảo tính hiệu quả, đạt mục tiêu đào tạo và phải có tính mềm
dẻo, linh hoạt tạo được khả năng liên thông dọc và ngang, thích ứng với
sự thay đổi của khoa học công nghệ và thị trường lao động.
- Hình thức tổ chức đào tạo : Hình thức tổ chức đào tạo là sự kết
hợp các hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện các nội dung

đào tạo. Có nhiều hình thức tổ chức như tự học, thực hành, tham quan,
thực tập…
- Phương pháp đào tạo: Phương pháp đào tạo là sự tác động qua lại
với nhau giữa nhà trường, giáo viên, học sinh nhằm chuyển biến nhân
cách, chuyên môn của học sinh theo mục tiêu và nội dung đã xác định. Ví
dụ như phương pháp dạy – học, phương pháp giáo dục,rèn luyện học sinh
về phẩm chất đạo đức…
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo: Trang thiết bị, máy
móc, nhà xưởng, nguyên vật liệu và các cơ sở vất chất kỹ thuật phục vụ
công tác đào tạo, các điều kiện phục vụ nhu cầu cần thiết cho giáo viên và
19


học sinh trong nhà trường. Công tác phục vụ đào tạo tốt sẽ đảm bảo, nâng
cao chất lượng cho quá trình đào tạo nghề.
- Xã hội hóa công tác đào tạo nghề: Cùng với sự đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy nghề của nhà nước và các tổ chức xã hội, sự đóng
góp của gia đình học sinh, phối hợp với các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất để tạo điều kiện cho người học tiếp cận nhanh với thực tế, giải quyết
việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp.
- Chất lượng đào tạo: Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất
của tất cả các cơ sở đào tạo. Chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức
độ đạt được mục tiêu đào tạo đã đề ra.
Chất lượng đào tạo được phản ánh các mức độ của kết quả hoạt
động giáo dục và hoạt động đào tạo có tính liên tục từ khởi đầu quá trình
đào tạo đến kết thúc quá trình đó.
Mỗi cơ sở đào tạo đều có một nhiệm vụ, điều này chi phối hoạt động
của nhà trường. Từ nhiệm vụ này, nhà trường xác định các mục tiêu đào tạo
của mình sao cho phù hợp với nhu cầu và sự phát triển của xã hội để đạt
được chất lượng bên ngoài, đồng thời các hoạt động của nhà trường sẽ được

hướng vào nhằm đạt mục tiêu đó, đạt chất lượng bên trong.
Sơ đồ 1.1. Quan niệm về chất lượng đào tạo
Kết quả đào tạo phù hợp với
nhu cầu sử dụng (đạt chất
lượng ngoài)

Nhu cầu xã hội

Kết quả đào tạo

Mục tiêu đào tạo
Kết quả đào tạo khớp với mục
tiêu đào tạo (đạt chất lượng
trong)
20


1.2.2. Quản lý đào tạo Nghề
1.2.2.1. Quản lý:
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã
hội của lao động. Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của
con người. Cho đến nay, về cơ bản mọi người đều cho rằng: quản lý
chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của
những người khác nhằm thu được kết quả mong muốn.
Khái niệm quản lý đã được phát hiện cách đây hơn 700 năm. Thời
kỳ cổ Hy Lạp đã áp dụng quản lý tập trung và dân chủ - Khái niệm về
trách nhiệm và kiểm tra đã có từ thời Babilon vào khoảng năm 1750
tr.CN. Thời Trung Hoa cổ đại, các nhà hiền triết của Trung Quốc trước
công nguyên đã có những đóng góp to lớn về tư tưởng quản lý quan trọng
thuộc phạm vi vĩ mô, quản lý toàn xã hội trên quan điểm triết học đương

thời, vạch ra lôgích của quá trình quản lý xã hội theo các mức từ thấp đến
cao “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Bước sang thời kỳ Chủ nghĩa tư bản, do yêu cầu phát triển sản xuất
đại công nghiệp, dưới tác dụng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật,
yêu cầu về quản lý không ngừng tăng lên. Quản lý từng bước tách khỏi
triết học và dần dần trở thành bộ môn khoa học độc lập, với sự tham gia
đóng góp của nhiều trường phái và nhiều học giả.
- Charles Babbage (1792-1871) là người đầu tiên đề xuất phương
pháp tiếp cận có khoa học trong quản lý, quan tâm tới mối quan hệ giữa
người quản lý với người bị quản lý. Các ý tưởng trên thực tế trở thành
một học thuyết nhờ đóng góp của Ferdrick winslow Taylor (1856-1915)
người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý khoa học, ông cho rằng:

21


×