MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI, đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của xã hội loài người về sự phát triển
kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội và khoa học công nghệ. Với những thành tựu đó, thế giới
đang hy vọng hướng đến một cuộc sống ấm no, hòa bình và phát triển cho tất cả mọi
người, ở các quốc gia khác nhau. Song con đường để đến với mục tiêu này thực sự khó
khăn và có nhiều yếu tố cản trở, một trong những cản trở lớn nhất có lẽ là vấn đề nghèo
đói. Nghèo đói vẫn còn, thậm chí quy mô và mức độ của nó ngày càng lớn, phạm vi ngày
càng mở rộng, kể cả những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao. Theo số liệu thống kê
của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1981, trên thế giới có 1,5 tỉ người nghèo tương ứng
với 40% dân số thế giới, năm 1993, số người nghèo là 1,314 tỉ người tương ứng với 29%
dân số thế giới, đến 2001 có 1,1 tỷ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có thu
nhập ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo.
Phần lớn những người nghèo này sống tại Châu Phi, Châu Á. Trong khi nhờ vào tăng
trưởng kinh tế tại nhiều vùng của Châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt (từ 58%
xuống còn 16% tại Đông á) thì con số những người nghèo nhất lại tăng lên ở Châu Phi
(gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con
số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số năm 2004. Nếu như đặt ranh giới
nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân số
thế giới [Theo thống kê của ngân hàng thế giới, 04/2004]. Nghèo đói gia tăng đã cản trở
đến mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, những bất ổn về quan hệ xã hội trong phạm vi từng
quốc gia nói riêng và thế giới nói chung. Do đó, giải quyết đói nghèo là yêu cầu mang tính
quyết định, là thước đo đánh giá sự tiến bộ của các quốc gia.
Việt Nam thuộc khu vực Châu Á với dân số hiện nay hơn 90 triệu người, trong
đó có 80% sống ở vùng nông thôn và các vùng hẻo lánh. Dân số đông đúc, chủ yếu
sống bằng nghề nông nghiệp, cùng với những tác động từ yếu tố lịch sử dân tộc và trên
thế giới mà hiện nay chúng ta vẫn là quốc gia nghèo. Theo thống kê của Bộ Lao độngThương binh và Xã hội năm 2012, tổng số hộ nghèo cả nước 2.149.110 hộ nghèo,
chiếm 9,60%, 1.469.727 hộ cận nghèo chiếm 6,57% [23, tr. 15]. Nghèo đói ở Việt
Nam tập trung ở nhiều khu vực khác nhau trong cả nước, trong đó tập trung chủ yếu ở
các vùng nông thôn, đặc biệt là ở các vùng miền núi. Nghèo đói kéo theo nhiều hệ quả
tiêu cực khác nhau, là nhân tố chính cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Do đó, công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nước ta luôn được Đảng và Nhà nước quan
1
tâm với chủ trương để tất cả mọi người dân “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”, “coi đói nghèo như là một loại giặc như giặc ngoại xâm” như lời của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dặn. Điều này được thể hiện thông qua các chương trình, kế
hoạch, biện pháp và các chính sách cụ thể như: chương trình 134, 135; chương trình
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững (chương trình 30a) ... cùng với nhiều chương
trình giảm nghèo khác đã, đang được triển khai thử nghiệm tại một số địa phương
mang lại hiệu quả cao đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo đói trong cả nước. Trong Báo cáo
"Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về
giảm nghèo và những thách thức mới" của Ngân hàng thế giới ngày 24/1/2013, cũng
ghi nhận: Trong vòng 20 năm (1990-2010), tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần
60% xuống còn 20,7% với khoảng hơn 30 triệu người thoát nghèo. Tính đến năm
2012, đã có 500 nghìn lượt hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, 542 triệu lượt người được
hỗ trợ bảo hiểm xã hội. Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện. Tỷ lệ hộ
nghèo và các huyện nghèo giảm nhanh, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội đề ra từ
14,2% (năm 2010) xuống còn 9,6% (năm 2012).
Thành phố Quy Nhơn nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Bình Định, chiếm một vị
thế hết sức quan trọng, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của tỉnh Bình
Định với dân số hiện nay khoảng 283.718 người. Do đặc thù của tự nhiên chủ yếu là
núi và biển, do đó, cơ cấu ngành kinh tế của thành phố Quy Nhơn rất đa dạng trong đó
bao gồm các ngành như công nghiệp, thương mại, dịch vụ và nuôi trồng, khai thác
thuỷ, hải sản. Trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách
thức do sự suy giảm của nền kinh tế trong nước và trên thế giới nhưng với những chủ
trương và chính sách đúng đắn nên nền kinh tế ở thành phố vẫn khá ổn định, tốc độ
tăng trưởng ở mức cao, trung bình hàng năm là 13%, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn
năm 2000 lên đến 101 triệu USD. Hạ tầng kỹ thuật được củng cố, nâng cấp, xây dựng
làm bộ mặt đô thị khởi sắc hẳn, đời sống nhân dân được cải thiện rất đáng kể…. Mặt
khác, công tác xóa đói giảm nghèo (XĐGN) đã đạt được những thành tựu đáng kể,
theo số liệu điều tra của Cục thống kê Bình Định năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
quốc gia giảm từ 4,87% (năm 2010) xuống còn 2,74% vào năm 2012. Có được những
kết quả trên, trước hết do cấp ủy, chính quyền các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo và triển
khai thực hiện có hiệu quả các chương trình XĐGN của Chính phủ; tính đồng thuận
cao của các chủ doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức và cá nhân đối với chính sách XĐGN;
2
đặc biệt sự nỗ lực vươn lên của hộ nghèo, hộ cận nghèo;…Từ chính sách hỗ trợ tín
dụng, Quỹ giải quyết việc làm; hỗ trợ giáo dục, chăm sóc y tế, đào tạo nghề; hỗ trợ
xây dựng nhà ở, trợ cấp khó khăn;…đã giúp hộ nghèo có nguồn vốn đầu tư ban đầu để
sản xuất, kinh doanh; giảm bớt gánh nặng trong chi tiêu khám, chữa bệnh, đóng tiền
học, cải thiện nhà ở;…góp phần nâng cao mức sống của hộ, vươn lên thoát nghèo.
Tuy nhiên, thành phố Quy Nhơn vẫn là một trong những đô thị nghèo so với các
thành phố khác trong cả nước. Tình trạng nghèo vẫn còn và tập trung ở nhiều phường,
xã khác nhau, trong đó có các khu tái định cư - đây là những hộ gia đình phải di dời tập
trung nhằm phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có công tác quy hoạch và
phát triển thành phố trong những năm sắp tới. Việc hình thành các khu tái định cư ở
thành phố Quy Nhơn là một chính sách đúng đắn, bởi qua đó sẽ tạo ra một diện mạo
mới cho khu đô thị Quy Nhơn, góp phần đẩy mạnh quá trình đô thị hóa đang diễn ra
khắp cả nước. Với nơi định cư mới, cuộc sống của nhiều gia đình đã có sự thay đổi, khả
quan hơn rất nhiều so với trước đây. Song vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp như: điều kiện
sinh hoạt của nhiều gia đình còn thiếu thốn, cuộc sống chưa đi vào ổn định; tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm vẫn còn nhiều, nguy cơ tái nghèo vẫn còn tiềm ẩn cao; các
loại tệ nạn xã hội và ô nhiễm môi trường đang trong tình trạng báo động ... mặc dù
chính quyền thành phố đã có nhiều giải pháp như cho vay vốn, đào tạo nghề và giới
thiệu việc làm ... nhưng chưa đem lại hiệu quả. Chính vì thế, việc đưa ra các chủ trương,
chính sách và các giải pháp nhằm giúp đỡ người dân tại các khu tái định cư trên địa bàn
thành phố ổn định cuộc sống, phát triển và thoát nghèo là vô cùng cần thiết.
Xét về mặt lý luận, Công tác xã hội có lịch sử lâu dài trong quá trình hỗ trợ giải
quyết nghèo đói ở các cấp độ khác nhau từ việc hỗ trợ cá nhân người nghèo đến phát
triển thay đổi cộng đồng nghèo và các chính sách, chương trình xã hội xoá đói giảm
nghèo của quốc gia. Công tác xã hội tham gia vào lĩnh vực này với ý nghĩa hết sức
quan trọng và mang tính nhân văn sâu sắc được dựa trên nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp- Đó là phấn đấu cho sự công bằng xã hội. Tuy nhiên, lĩnh vực hoạt động này
còn khá mới ở Việt Nam cả về mặt lý thuyết và thực hành. Nhiều trường Cao đẳng và
Đại học trong cả nước đã đưa chương trình này vào giảng dạy nhưng vẫn chưa có một
cuốn giáo trình, tài liệu tham khảo cụ thể cho sinh viên và học viên. Nhiều chương
trình, dự án Phát triển cộng đồng nhằm xóa đói giảm nghèo cho người dân vẫn còn
3
yếu và thiếu về đội ngũ nhân viên làm công tác xã hội, nếu có cũng chỉ ở mức độ bán
chuyên nghiệp.
Từ thực tiễn và lý luận nêu trên, tác giả quyết định chọn đề tài nghiên "Công tác
xã hội đối với người nghèo từ thực tiễn các khu tái định cư trên địa bàn thành phố
Quy Nhơn, tỉnh Bình Định" để làm luận văn tốt nghiệp. Với mong muốn hệ thống
hóa các vấn đề lý luận về công tác xã hội với người nghèo, tìm hiểu thực trạng nghèo
đói tại địa bàn nghiên cứu và hoạt động cụ thể của công tác xã hội trong việc trợ giúp
các đối tượng nghèo đói giải quyết khó khăn, hướng đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về nghèo đói, công tác xóa đói giảm nghèo và công tác xã hội đối
với đói tượng nghèo đói là lĩnh vực thu hút nhiều nhà nghiên cứu, các học giả trong và
ngoài nước quan tâm. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, tác giả lựa chọn và
phân tích một số công trình nghiên cứu, bài viết, tạp chí tiêu biểu.
Thứ nhất, công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến người nghèo nói chung
- Nghiên cứu: “Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam” của UNDP ( 1995). Điểm nổi
bật trong nghiên cứu này là đã làm rõ được nguyên nhân gây ra đói nghèo ở Việt Nam
và phân tích tác động của các nhóm giải pháp được thực hiện tương ứng với các
nguyên nhân. Trong đó, một số chính sách XĐGN như: chính sách đất đai, chính sách
tín dụng ưu đãi, chính sách xây dựng CSHT cũng được đánh giá khá chi tiết. Có thể
nói, trong giai đoạn này các nghiên cứu trên đều có một điểm chung là đã đề cập đến
một số chính sách liên quan trực tiếp đến XĐGN và các kết quả nghiên cứu đó đã góp
phần quan trọng cho chính phủ Việt Nam trong xây dựng chương trình XĐGN giai
đoạn 1998- 2000. Sau khi triển khai chương trình XĐGN (giai đoạn 1998-2000), với
hệ thống các chính sách trực tiếp tác động đến người nghèo, một loạt các nghiên cứu
của các tổ chức phi chính phủ được thực hiện với mục tiêu tiếp tục hỗ trợ chính phủ
Việt Nam xây dựng chương trình XĐGN giai đoạn tiếp theo.
- Nghiên cứu: “Về phương pháp đánh giá tác động của chính sách XĐGN và xây
dựng chiến lược XĐGN đến năm 2010” của tác giả Trần Thị Vân Anh thực hiện năm
2003. Theo tác giả, việc đánh giá kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo đã được
dựa trên các nguồn dữ liệu phong phú, đa dạng do các nhà khoa học, điều tra nghiên
cứu được, kết hợp với các nguồn thông tin thu thập trực tiếp từ người nghèo và cộng
đồng nghèo. Bên cạnh đó, tác giả cũng phát hiện có những trường hợp chính sách đã
4
không được đánh giá đầy đủ do những người thực hiện thường thiên về trình bày thành
tích mà thiếu sự phân tích các vấn đề tồn tại; quan tâm nhiều hơn đến các hoạt động cụ
thể mà thiếu chú ý đến các vấn đề có tính cơ chế, chính sách; quan tâm nhiều đến các
ngành, các lĩnh vực chuyên biệt mà ít coi trọng các vấn đề ở tầm vĩ mô chung.
- Luận án tiến sĩ: “Tài chính vi mô hỗ trợ xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Đồng Nai đến
năm 2020” của tác giả Lê Kiên Cương thực hiện năm 2013. Tác giả cho rằng: tài chính vi
mô là một hướng quan trọng trong công cuộc XĐGN của Tỉnh; Phát triển tài chính vi mô
hỗ trợ XĐGN là trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể và toàn dân tỉnh Đồng Nai;
Phát triển tài chính vi mô cần phải có trọng điểm, phát triển dần từ nhỏ đến lớn, phù hợp
với điều kiện mỗi vùng; Phát triển tài chính vi mô tập trung trước tiên tại những cộng
đồng còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Phát triển tài chính vi mô hỗ trợ XĐGN hướng
tới mục tiêu kinh tế và xã hội; Góp phần vào tăng trưởng kinh tế; Tạo thêm công ăn việc
làm; Nâng cao thu nhập của người nghèo; Đảm bảo an sinh xã hội, trợ giúp người nghèo
có thể vươn lên bằng chính sức lực của mình. Tác giả đưa ra một số giải pháp thực hiện:
Xây dựng các tổ chức tài chính vi mô bán chính thức; Khuyến khích sự mở rộng các chi
nhánh tài chính vi mô của tỉnh bạn; Phát triển tổ chức tài chính vi mô chính thức: Liên
doanh với một số ngân hàng Tài chính vi mô quốc tế. Nghiên cứu gợi mở cho đề tài luận
văn về vai trò của tài chính vi mô trong việc giảm nghèo cũng như cách thức trợ giúp các
hộ nghèo tại khu tái định cư tiếp cận với các nguồn tài chính vi mô hiện nay.
- Nghiên cứu: “Thực trạng đời sống kinh tế xã hội các hộ gia đình sau tái định cư:
vấn đề và giải pháp” của tác giả Lê Văn Thành thực hiện năm 2008. Đây là công trình
nghiên cứu đời sống “hậu tái định cư” của các hộ gia đình tại TP. HCM chịu ảnh hưởng
hoàn toàn bởi các dự án phát triển, theo các diện tái định cư theo chương trình của Nhà
nước (nhận nền nhà và nhận chung cư) và tái định cư nhận tiền tự lo nơi ở mới. Đề tài
cũng tìm hiểu tất cả những vấn đề liên quan đến cuộc sống của người dân như: việc làm
và thu nhập của người dân, việc học hành của con em hộ tái định cư, điều kiện nhà ở và
các điều kiện sinh hoạt khác, mối quan hệ với cộng đồng dân cư nơi ở mới và sự hỗ trợ
của chính quyền địa phương. bên cạnh những nét tương đồng đó, đề tài nghiên cứu này
còn có khá nhiều điểm mới và khác so với các công trình nghiên cứu trước.
- Nghiên cứu: “Thực trạng và các chính sách giải pháp, biện pháp trong việc
bồi thường giải tỏa và tái định cư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong quá
trình thực hiện quy hoạch pháp triển kinh tế xã hội Thành phố” của tác giả Phạm
5
Xuân Bình, 2000, đề cập đến một số vấn đề sau: thực trạng thực trạng công tác quy
hoạch công tác giải tỏa bồi thường và giải quyết định cư, việc làm và đời sống);
Nguyên tắc chung của bồi thường giải tỏa; Giá bồi thường đất và nhà; Những giải
pháp về tổ chức định cư; Một số chính sách về tái định cư; Giải quyết việc làm các đối
tượng bị giải tỏa; Các giải pháp về quản lý.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến nghèo đói trên địa bàn
Bình Định
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Tìm hiểu thực trang việc làm của người dân sau
tái định cư ở phường Quang Trung TP. Quy Nhơn” của tác giả Nguyễn Đình Ngọc
năm 2009. Trong đề tài này, tác giả đã nêu bật thực trạng thay đổi việc làm của người
dân tái định cư khu vực Xóm Tiêu so với nơi định cư trước; Nguyên nhân của sự thay
đổi này xuất phát từ: bản thân người dân; từ cơ chế chính sách và từ chính quyền địa
phương. Đồng thời nghiên cứu còn đưa ra một số giải pháp cụ thể như: Xây dựng các
chương trình đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp; xây dựng một nguồn quỹ để sử dụng
vào công tác hỗ trợ người dân tại khu tái định cư; Tạo điều kiện để người dân tiếp cận
hơn nữa các nguồn vốn, nguồn tín dụng.v.v.
- Luận văn “Thực trạng đói nghèo và giải pháp xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Bình
Định” của tác giả Trần Thị Kim Chung, trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Trong
nghiên cứu này, tác giả nêu bật thực trạng nghèo đói ở tỉnh Bình Định và chỉ ra một số
nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói như: thiếu vốn sản xuất; neo đơn, mất sức lao
động; rủi ro, đau ốm; thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu đất canh tác... Trên cơ sở đó,
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm xóa đói giảm nghèo: giải pháp về
kinh tế; giải pháp về vốn; giải pháp về chính sách: như hỗ trợ người dân khi gặp hoạn
nạn khó khăn, chính sách miễn giảm học phí cho học sinh nghèo, chính sách đào tạo
nghề cho lao động nghèo.v.v.
Như vậy, các nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào vấn đề đói nghèo, các chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng. Chỉ có
một số công trình nghiên cứu về vấn đề đời sống và vấn đề việc làm của người dân sau
tái định cư. Ngoài ra, chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác xã hội đối với
người nghèo từ thực tiễn các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn cũng
6
như ở Việt Nam hiện nay. Vì thế để bổ sung vào những hạn chế đó, đề tài nghiên cứu
này sẽ trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn hiện
nay như thế nào?
- Những nguyên nhân nào dẫn đến các hộ nghèo tại các khu tái định cư trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn không thể thoát được nghèo?
- Công tác xã hội có vai trò như thế nào trong việc giúp đỡ các hộ nghèo tại các
khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn cải thiện tình trạng cuộc sống, vươn
lên thoát nghèo?.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
3.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiện cứu và làm sáng tỏ lý luận công tác xã hội, nghèo, công tác xã
hội đối đối với người nghèo từ thực tiễn các khu tái định cư trên địa bàn thành phố
Quy Nhơn, qua đó bổ sung và làm phong phú thêm về cách nhìn nhận, đánh giá của
mọi người về tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo nói chung và hoạt động
công tác xã hội đối với người nghèo đói nói riêng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu cung cấp cho chính quyền địa phương tỉnh, các nhà nghiên cứu quan
tâm về thực trạng nghèo đói, nguyên nhân nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn và tính hiệu quả, cần thiết của hoạt động Công tác xã hội đối với
người nghèo hiện nay. Trên cơ sở đó, giúp chính quyền địa phương và người dân hiểu
được tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm nghèo; đưa ra những giải pháp, chính
sách điều chỉnh phù hợp nhằm giúp người dân tại các khu tái định cư thoát nghèo, tiến
tới cuộc sống tốt đẹp.
Kết quả nghiên cứu còn là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các học giả, nhà
khoa học, nhà nghiên cứu, chuyên gia quan tâm đến lĩnh vực công tác xã hội nói
chung và công tác xã hội với người nghèo nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội đối với người nghèo từ thực tiễn các khu tái định cư trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
7
Khách thể nghiên cứu:
- Các hộ gia đình được xác định là hộ nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn.
- Vai trò và nhiệm vụ của nghề công tác xã hội chung và nhân viên công tác xã hội
trong việc trợ giúp các hộ nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu nghèo đói, công tác xã hội với người nghèo có
rất nhiều khía cạnh, yếu tố khác nhau. Nhưng do hạn chế về thời gian và kiến thức,
cho nên luận văn chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số nội dung: lý luận về công
tác xã hội; lý luận nghèo đói; công tác xã hội với người nghèo; thực trạng nghèo tại
các khu tái định cư và hoạt động cụ thể của công tác xã hội đối với người nghèo tại các
khu tái định trên địa bàn thành phố Quy Nhơn.
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu trên các đối tượng
là các hộ nghèo tại 4 khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10 năm 2013 đến
tháng 04 năm 2014
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
5.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng nghèo, nguyên nhân cản trở việc thoát
nghèo của các hộ nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn.
Đồng thời đề xuất vai trò và các nhiệm vụ cụ thể của Công tác xã hội đối với người
nghèo tại địa bàn nghiên cứu, nhằm giúp cộng đồng giải quyết khó khăn đang gặp
phải, biết cách vươn lên thoát nghèo và hướng đến sự phát triển bền vững.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhiệm vụ thứ nhất: Hệ thống hoá cơ sở lý luận liên quan đến công tác xã hội,
nghèo, công tác xã hội với đối với người nghèo và những vấn đề liên quan đến tái định
cư.
- Nhiệm vụ thứ hai: Nghiên cứu và tìm hiểu một số lý thuyết về công tác xã hội
và các chuyên ngành thuộc khoa học xã hội khác nhằm làm công cụ đánh giá, phân
tích về các nguyên nhân nghèo đói, nhu cầu của cộng đồng, các nguyên tắc phát triển
8
cộng đồng và vai trò của các tổ chức xã hội, cơ quan ban ngành trong công cuộc xóa
đói giảm nghèo.
- Nhiệm vụ thứ ba: Thu thập các thông tin liên quan đến địa bàn nghiên cứu, các
điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa ảnh hưởng đến cuộc sống người dân khu tái định cư.
- Nhiệm vụ thứ tư: Tổng hợp các thông tin thu được thông qua các phương pháp
khảo sát để đánh giá về thực trạng nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố
Quy Nhơn.
- Nhiệm vụ thứ năm: Đề xuất các vai trò, nhiệm vụ của Công tác xã hội đối với
người nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Từ khi chuyển đến nơi ở mới, cuộc sống của người dân tái định cư đã đi vào ổn
định. Nhiều hộ dân đã tìm kiếm được việc làm mới có thu nhập cao, trình độ dân trí
được cải thiện theo chiều hướng tích cực, nhiều gia đình đã thoát được cảnh nghèo đói
triền miên.v.v. Tuy nhiên, so với nhịp độ phát triển của các phường, xã khác trong
thành phố nói riêng và toàn tỉnh nói chung thì các hộ gia đình sống ở các khu tái định
cư đang còn gặp nhiều khó khăn. Tỉ lệ hộ nghèo vẫn còn cao, mức thu nhập bình quân
theo đầu người thấp, trình độ dân trí còn yếu kém, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm diễn ra thường duyên, tệ nạn xã hội xuất hiện nhiều.
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố cản trở việc thoát nghèo của người dân tại các
khu tái định cư. Bên cạnh yếu tố liên quan đến điều kiện tự nhiên; cơ chế chính sách; vai
trò của cộng đồng và các tổ chức xã hội thì yếu tố liên quan đến bản thân các hộ nghèo
đóng vai trò rất quan trọng trong đối với việc thoát nghèo của chính bản thân họ.
Công tác xã hội có vai trò quan trọng nhằm trợ giúp người dân thoát cảnh nghèo khổ
thông qua nhiều hình thức và biện pháp hỗ trợ như: cung cấp các dịch vụ xã hội khác
nhau; trợ giúp về mặt pháp lý; giúp tăng năng lực và sức mạnh giải quyết khó khăn, vươn
lên cuộc sống khá giả hơn; giúp các hộ nghèo phòng ngừa tái phát nghèo đói.v.v.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và
phương pháp nghiên cứu liên ngành, với các phương pháp cụ thể như sau:
7.1. Phương pháp luận
Nghèo là vấn đề xã hội đa dạng và phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố, thành
phần xã hội, điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội và bối cảnh lịch sử khác nhau. Vì vậy,
để nghiên cứu vấn đề này có hiệu quả, tác giả đã vận dụng một số quan điểm của triết
9
học Mác-LêNin làm cơ sở phương pháp luận khoa học cho đề tài, đó là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp duy vật biện chứng coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái
luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.
Nghiên cứu nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn cần đặt trong
bối cảnh phát triển chung của thành phố Quy Nhơn và tỉnh Bình Định. Các yếu tố như
điều kiện tự nhiên, dân số, trình độ học vấn, kinh tế-văn hóa-xã hội khác … được đặt
trong mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, được nghiên cứu qua
nhiều năm, trong một thời gian dài để có cái nhìn toàn diện và mang tính khoa học để đưa
ra những giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc trưng của cộng đồng.
Phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi khi nghiên cứu vấn đề nghèo, phải đặt
chúng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể và trên những địa bàn, vùng lãnh thổ cụ thể.
Nghèo chỉ được xem xét một cách toàn diện, đầy đủ khi chúng được đặt trong một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể với những địa phương nhất định. Việc tiếp cận đánh giá về
thực trạng nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn cần được
xem xét từ những tiền đề trong quá khứ, đứng trên quan điểm lịch sử để kiểm chứng
và dự báo về sự phát triển trong tương lai.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu và phân tích các tài liệu có liên quan như các báo cáo về quy hoạch xây
dựng khu tái định cư, báo cáo tổng kết hoạt động qua các năm của các phường thuộc thành
phố Quy Nhơn, tài liệu đánh giá tình hình nghèo đói của địa phương, báo cáo đánh giá tình
trạng xóa đói giảm nghèo của Sở Lao động - Thương binh & Xã hội tỉnh Bình Định, các
văn bản pháp lý, tài liệu từ các nguồn sách báo, báo điện tử, công trình nghiên khoa học của
nhiều tác giả liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.v.v.
7.2.2. Phương pháp bằng trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, với những tiêu chí và
khoảng cách phù hợp với nội dung nghiên cứu.
- Đối tượng: Những hộ gia đình thuộc diện nghèo tại các khu tái định cư trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn.
- Dung lượng mẫu: Bao gồm 133 hộ gia đình đang sinh sống tại các khu tái định cư.
- Cơ cấu mẫu: Tiến hành điều tra 4 khu tái định cư bao gồm:
10
1. Khu tái định cư Xóm Tiêu
2. Khu tái định cư Sông Bắc Hà Thanh
3. Khu tái định cư Võ Thị Sáu
4. Khu tái định cư Bùi Thị Xuân
Thông tin thu được từ bảng hỏi giúp nhân viên công tác xã hội có được những
thông tin định lượng về thực trạng nghèo; đặc điểm của các hộ nghèo và những nhân tố
cản trở việc thoát nghèo của các hộ gia đình nghèo đói ở địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở
những thông tin có được, giúp xác định các nhiệm vụ cụ thể của công tác xã hội trong
việc giúp đỡ, hỗ trợ người dân tái định cư thoát nghèo hiệu quả.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Đối tượng: Một số hộ gia đình thuộc diện nghèo, cán bộ khu vực tái định cư và
cán bộ quản lý phường.
- Dung lượng mẫu: 08 mẫu
- Cơ cấu mẫu: Cán bộ quản các khu tái định cư (04), bố/mẹ/người thân trong gia
đình (04)
Thông qua việc phỏng vấn các cán bộ khu vực, phường và người dân nhằm
mục đích thu thập các thông tin chuyên sâu về tình hình nghèo đói tại khu tái định cư,
khả năng tiếp cận các nguồn lực của hộ nghèo đói và mức độ quan tâm, hỗ trợ của
chính quyền địa phương, các tổ chức, ban ngành trong và ngoài tỉnh.
7.2.4. Phương pháp quan sát
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập, bổ
sung thông tin còn thiếu và kiểm tra độ tin cậy của các thông tin thông qua việc quan
sát bối cảnh sống, thái độ, thể trạng ... của người được điều tra.
8. Nội dung và Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: mục lục, danh mục các bảng, hình vẽ, mở đầu, kết luận, và
danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghèo và công tác xã hội đối với người nghèo
Chương 2: Thực trạng nghèo và các yếu tố cản trở đến việc thoát nghèo đối với hộ
nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác xã
hội trong việc trợ giúp các hộ nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy
Nhơn, tỉnh Bình Định thoát nghèo
11
12
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHÈO
1.1. Một số lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Lý thuyết phát triển cộng đồng
Lý thuyết phát triển cộng đồng bắt đầu hình thành vào thập kỷ 50 ở những vùng
nông thôn còn mang tính truyền thống và gần như tự cung tự cấp. Các đặc điểm văn
hoá xã hội của người dân rất đồng nhất và mối quan hệ giữa họ thật chặt chẽ và thân
mật. Quyền lợi và nhu cầu của họ cũng giống nhau, nên làng xã là đối tượng đầu tiên
của phát triển cộng đồng.
Phát triển cộng đồng được dịch từ tiếng Anh Community Development xuất hiện
vào những năm 1940 tại các cựu thuộc địa đầu tiên của Anh. Ở Ghana một người Anh
tốt bụng đã nảy ra ý kiến giúp dân cư cải thiện đời sống bằng nỗ lực chung của chính
quyền và người dân. Một bên góp công, một bên góp của để đắp đường, xây trường
học, trạm xá Điều gây ngạc nhiên là người dân nghèo đã tích cực tham gia đóng góp
công sức và tiền của vào các chương trình, dự án có mục đích cải thiện cho chính
cuộc sống của họ. Kinh nghiệm này cũng cho thấy phát triển phải đồng bộ. Kinh tế,
sức khoẻ, văn hoá phải được nâng lên cùng một lúc. Nếu chỉ tiến công vào một khía
cạnh thì không thể nào phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, dốt nát, bệnh tật
Lý thuyết phát triển cộng đồng đưa ra một số khái niệm cơ bản sau:
- Cộng đồng được coi như là một hệ thống xã hội, một nhóm người cùng có những
đặc điểm chung. Ví dụ: đặc quyền, đặc lợi, sống với nhau, cùng chia sẻ những tài nguyên
và lợi ích chung Nói một cách khác, “Cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các
cá nhân con người sống chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội
hoặc sinh học nào đó và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào
đấy” [Trung tâm Nghiên cứu và Tập huấn PTCĐ, tr.6]
- Phát triển: “Phát triển mang tính so sánh, mang tính thời gian. Phát triển là sự
thay đổi theo hướng khác biệt đi theo hướng tốt hơn, hài lòng và ổn định hơn” [Trung
tâm Nghiên cứu và Tập huấn PTCĐ, tr.7].
- Phát triển cộng đồng : “là một tiến trình làm chuyển biến cộng đồng nghèo,
thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông qua việc giáo dục gây nhận thức về tình hình,
13
vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và tài nguyên sẵn có, tổ chức các hoạt
động tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức, và tiến tới tự lực, phát triển” [Nguyễn Thị
Oanh, 1995, tr. 6-7]
Lý thuyết phát triển cộng đồng còn đưa ra một số mục tiêu, nguyên lý và quy
tắc thực hành cụ thể như sau:
- Các nguyên lý trong phát triển cộng đồng
1. Phát triển cộng đồng dựa trên phương pháp luận từ dưới lên (Bottom up) xuất
phát từ nhu cầu của chính người dân.
2. Phát triển phải đồng bộ trên mọi khía cạnh của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội,
văn hoá phải cùng được nâng lên.
3. Tham gia của quần chúng là quan điểm cơ bản của đường lối phát triển cộng đồng.
4. Tạo được chuyển biến xã hội mới là quan trọng.
5. Phát triển năng lực trên cơ sở không “làm thay”, “làm cho” người dân. 6. Các
nghiên cứu làm nền tảng cho việc triển khai các dự án phải được đặt ngang tầm với vị
trí cần có của nó trong công tác phát triển cộng đồng.
- Mục tiêu của phát triển cộng đồng
Mục tiêu bao trùm của phát triển cộng đồng là tạo ra những chuyển biến xã hội
trong cộng đồng để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, mang lại sự bền vững về môi
trường. Phát triển cộng đồng còn góp phần mở rộng và phát triển các nhận thức và hành
động có tính chất hợp tác trong cộng đồng, phát triển năng lực tự quản cộng đồng.
Vận dụng lý thuyết phát triển cộng đồng trong nghiên cứu, giúp tác giả đưa ra
một số định hướng sau: Thứ nhất, việc tái định cư nhằm phục vụ cho công tác phát
triển cộng đồng tại thành phố Quy Nhơn là chính sách hoàn toàn đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn phát triển chung của quốc gia. Tuy nhiên, thực hiện tái định cư cần phải
quan tâm một cách đồng bộ và toàn diện, nghĩa là bên cạnh chú trọng phát triển cơ sở
hạ tầng đô thị, phát triển kinh tế, phát triển chính sách ... cần quan tâm đến công tác
xóa đói giảm nghèo. Bởi nghèo đói là nhân tố chính cản trở đến sự phát triển của một
cộng đồng, quốc gia dân tộc. Thứ hai, quá trình trợ giúp người nghèo tại các khu tái
định không chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất mà phải chú
trọng cả đời sống tinh thần của họ. Hay nói cách khác cần đảm bảo sự cân đối, hài hòa
14
giữa đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo. Thứ ba, để trợ giúp người nghèo,
hộ nghèo tại các khu tái định cư cải thiện cuộc sống, vươn lên thoát nghèo. Ngoài việc
huy động sự tham gia giúp đỡ của các tổ chức, các ban ngành đoàn thể ... thì sự tham
gia của chính bản thân người nghèo, gia đình các hộ nghèo là nhân tố cần được phát
huy. Muốn vậy, nhân viên công tác xã hội cần kêu gọi và khuyến khích người dân
tham gia vào việc xây dựng kế hoạch, thực hiện kế hoạch và đánh giá các chương trình
khi được triển khai.
1.1.2. Lý thuyết hệ thống và sinh thái
Lý thuyết hệ thống
Thuyết hệ thống trong công tác xã hội bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống tổng quát
của Bertalanffy* (Toseland và Rivas, 1998). Thuyết này dựa trên quan điểm của lý
thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống, được tạo nên từ
các tiểu hệ thống cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Lý thuyết này đưa ra một số
quan điểm chính như sau:
- Hệ thống: là bất cứ đơn vị, tổ chức nào có những giới hạn xác định được với
những bộ phận tương tác, những đơn vị, tổ chức này có thể mang tính vật chất, tính xã
hội, mang tính kinh tế hoặc mang tính lí luận. Nói cách khác, hệ thống là tập hợp các
thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt động thống nhất. Một hệ
thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống. Tiểu hệ thống là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống
hỗ trợ. Các tiểu hệ thống được phân biệt với nhau bởi các ranh giới. Đồng thời hệ
thống đó cũng là một bộ phận của hệ thống lớn hơn.
- Bản thân mỗi cá nhân cũng là một hệ thống và hệ thống cá nhân này lại bao
gồm các tiểu hệ thống như: hệ thống sinh lý, hệ thống nhận thức, hệ thống tình cảm,
hành động và các hệ thống phản ứng
- Theo Pincus và Minahan (năm 1970) thì Hệ thống mà nhân viên CTXH làm
việc là những hệ thống rất đa dạng: gia đình, cộng đồng, hệ thống xã hội, môi trường
văn hoá mà con người hiện đang tồn tại. Ví dụ: đối với học sinh đang ở độ tuổi VTN,
hệ thống được chia thành ba hình thức chính bao gồm: (1) Hệ thống phi chính thức:
gia đình, bạn bè (2) Hệ thống chính thức: trường học (3) Hệ thống xã hội: các tổ chức
xã hội
15
Các hệ thống luôn có sự tác động lên các cá nhân. Có thể đó là sự tác động tích
cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối vì với cá nhân
này hệ thống trợ giúp có thể là hệ thống chính thức nhưng với cá nhân khác lại là hệ
thống xã hội. Vì thế cách phân chia trên chỉ mang tính tương đối. Hoặc có thể đối với cá
nhân một là hệ thống chính thức, nhưng đối với cá nhân khác đó lại là hệ thống Xã hội.
Lý thuyết hệ thống sinh thái
Thuyết hệ thống sinh thái dựa trên quan điểm của Germain & Gitterman và
Germain (1980) cho rằng con người ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng tới môi trường.
Ngược lại môi trường cũng ảnh hưởng đến con người.
Nguyên tắc cơ bản của sinh thái là mỗi cơ thể sống có quan hệ qua lại liên túc
với các thành phần khác tạo nên môi trường của chúng (những hệ thống sinh thái là
một khoa học khác với khoa học môi trường).
Lý thuyết hệ thống sinh thái được coi như là mô hình về cuộc sống. Mô hình này
chủ yếu được xây dựng trên lý thuyết sinh thái. Mô hình này còn có tên gọi là “con
người trong môi trường” (Person In Environment PIE), trong đó người ta tác động lẫn
nhau và tác động vào môi trường sống. Mục tiêu của CTXH là làm thế nào để con
người phù hợp với môi trường sống của họ.
Vận dụng lý thuyết hệ thống và sinh thái trong nghiên cứu, giúp tác giả đưa ra
một số định hướng sau: Thứ nhất, người nghèo ở các khu tái định cư trên địa bàn
thành phố Quy Nhơn là một hệ thống nằm trong những hệ thống khác lớn hơn như: Hệ
thống các phường, xã; hệ thống các phòng ban, các cơ quan đoàn thể, hội; hệ thống
các chính sách có liên quan đến người nghèo ... và chịu sự tác động của những hệ
thống đó. Vì vây, khi trợ giúp người nghèo nhân viên công tác xã hội cần tác động và
huy động sự trợ giúp từ nhiều hệ thống để tạo sức mạnh cho người nghèo có tiềm lực
vươn lên thoát nghèo, chẳng hạn: huy động sự trợ giúp từ hệ thống chính sách liên
quan đến vốn tín dụng, chính sách liên quan đến bảo hiểm y tế, sự hỗ trợ từ hội phụ
nữ, hội thanh niên. Tuy nhiên, tùy vào khả năng của từng hộ gia đình và năng lực của
từng cá nhân mà khả năng tiếp cận của họ đối với các hệ thống trợ giúp là khác nhau.
Do đó, khi làm việc với thân chủ, nhân viên công tác xã hội cần có những cách thức
tiếp cận và hỗ trợ khác nhau. Thứ hai, tái định cư là việc di dời một nhóm, một bộ
16
phận hay một cộng đồng dân cư từ nơi ở này sang nơi ở khác. Chính vì thế, việc thay
đổi chỗ ở này đã dẫn đến việc thay đổi các thành phần khác trong hệ thống như: kinh
tế (việc làm và thu nhập), giáo dục và đào tạo, điều kiện nhà ở và các điều kiện khác,
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội ... và như thế cuộc sống của người dân đã bị ảnh
hưởng. Thứ ba, môi trường sống cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cuộc sống
và khả năng thích nghi của những hộ nghèo. Môi trường ở đây xét theo góc độ môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chính vì vậy, để trợ giúp các hộ nghèo, nhân
viên công tác xã hội cần quan tâm đến việc tạo ra sự thay đổi về môi trường sống của
các hộ nghèo. Chẳng hạn, giúp người nghèo cải thiện về môi trường không bị ô nhiễm;
cải thiện việc thực hiện các chính sách hỗ trợ; tư vấn để cung cấp đất sản xuất cho hộ
nghèo.v.v.
1.1.3. Lý thuyết nhu cầu
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện
vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình
độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu
cầu khác nhau (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là cha đẻ của lý thuyết nhu
cầu. Theo Maslow, nhu cầu của con người được sắp xếp theo thứ tự bậc thang từ thấp tới
cao - từ các nhu cầu thiết yếu nhất tới các nhu cầu thứ yếu, cao hơn. Sự thoả mãn nhu cầu
của con người cũng theo các bậc thang đó (hình dưới). Khi con người thoả mãn được nhu
cầu cấp thấp rồi thì sẽ tiến tới thoả mãn các nhu cầu cấp cao hơn[24,tr.17].
(1) Nhu cầu cơ bản hay nhu cầu sinh học: là những nhu cầu đảm bảo cho con
người tồn tại như: ăn, uống, mặc, tồn tại và phát triển nòi giống và các nhu cầu của cơ
thể khác. (2) Nhu cầu về an ninh và an toàn: là các nhu cầu như ăn ở, sinh sống an
toàn, không bị đe đọa, an ninh, chuẩn mực, luật lệ... (3) Nhu cầu xã hội hay nhu cầu
liên kết và chấp nhận: là các nhu cầu về tình yêu được chấp nhận, bạn bè, xã hội... (4)
Nhu cầu được tôn trọng: là các nhu cầu về tự trọng, tôn trọng người khác, được người
khác tôn trọng, địa vị ... (5) Nhu cầu tự thể hiện hay tự thân vận động: là các nhu cầu
như chân, thiện, mỹ, tự chủ, sáng tạo, hài hước...
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu chúng tôi tìm hiểu
nhu cầu của những hộ nghèo tại các khu tái định cư trên địa bàn thành phố Quy Nhơn
17
theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem xét các nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu
cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào
trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học
A.Maslow.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Công tác xã hội
1.2.1.1. Khái niệm
Công tác xã hội là một nghề chuyên môn, một khoa học đã xuất hiện trên thế
giới hàng trăm năm. Tùy vào những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội, văn hóa cũng
như nền tảng tư tưởng mà công tác xã hội tại mỗi khu vực, mỗi quốc gia trên thế giới
lại có những đặc điểm riêng biệt. Do đó có rất nhiều định nghĩa về công tác xã hội:
Định nghĩa của Hiệp hội quốc gia nhân viên xã hội Mỹ (NASW - 1970): "Công
tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng cường
hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích
hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó” [15,tr.8]
Định nghĩa của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7
năm 2000 tại Montréal, Canada (IFSW): "Nghề Công tác xã hội thúc đẩy sự thay đổi
xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải
phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, Công tác xã hội
tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của họ. Nhân quyền và
Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề".
Công tác xã hội có thể hiểu là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm
trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và
tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách,
nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng
ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội..
1.2.1.2. Mục đích, chức năng của công tác xã hội
Mục đích của công tác xã hội
Hoạt động nghề nghiệp Công tác xã hội hướng tới 2 mục đích cơ bản
sau[25,tr.37]:
18
Một là, nâng cao năng lực cho các nhóm đối tượng như cá nhân, gia đình và
cộng đồng có hoàn cảnh khó khăn.
Hai là, cải thiện môi trường xã hội để hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng
thực hiện các chức năng, vai trò của họ có hiệu quả.
Các chức năng của công tác xã hội
Như là bác sĩ xã hội, các nhân viên xã hội thực hiện những chức năng của
ngành công tác xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội. đó là: chức năng Phòng ngừa,
chức năng Can thiệp, Chức năng Phục hồi; Chức năng Phát triển.
Chức năng phòng ngừa
Với quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh, công tác xã hội không chờ tới khi cá
nhân hay gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn rồi mới giúp đỡ. Công tác xã hội rất
quan tâm đến phòng ngừa những vấn đề xã hội của cá nhân, gia đình hay cộng đồng.
Những hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức cho cá nhân hay gia đình, việc cung
cấp các kiến thức về HIV/AIDS hay kiến thức về ma tuý... đều có ý nghĩa cho công tác
phòng ngừa.
Chức năng can thiệp
Chức năng can thiệp (còn được gọi là chức năng chữa trị hay trị liệu) nhằm trợ
giúp cá nhân, gia đình hay cộng đồng giải quyết vấn đề đang gặp phải. Khi thực hiện
chức năng này nhân viên xã hội giúp đỡ đối tượng vượt qua khó khăn, giải quyết vấn
đề đang tồn tại.
Chức năng phục hồi
Đó là việc công tác xã hội giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng khôi phục lại
chức năng xã hội đã bị suy giảm. Nó bao gồm những hoạt động trợ giúp đối tượng trở
lại mức ban đầu và hoà nhập cuộc sống xã hội.
Chức năng phát triển
Chức năng phát triển của công tác xã hội thể hiện qua các hoạt động nhằm tăng
năng lực, tăng khả năng ứng phó với các tình huống có vấn đề, những sự việc có nguy
cơ cao. Ví dụ như các chương trình giải quyết việc làm, các dịch vụ cung cấp đào tạo
cho người thất nghiệp, hướng dẫn các gia đình nghèo làm kinh tế, chương trình tập
huấn kỹ năng làm cha mẹ.v.v.
19
1.2.1.3. Vai trò của nhân viên xã hội
Theo quan điểm của Feyerico (1973) người nhân viên xã hội có những vai trò
sau đây:
- Vai trò là người vận động nguồn lực: là người trợ giúp đối tượng (cá nhân, gia
đình, cộng đồng...) tìm kiếm nguồn lực (nội lực, ngoại lực) cho giải quyết vấn đề.
Nguồn lực có thể bao gồm về con người, về cơ sở vật chất, về tài chính, kỹ thuật,
thông tin, sự ủng hộ về chính sách, chính trị và quan điểm...
- Vai trò là người kết nối - còn gọi là trung gian: nhân viên xã hội là người có
được những thông tin về các dịch vụ, chính sách và giới thiệu cho đối tượng các chính
sách, dịch vụ, nguồn tài nguyên đang sẵn có từ các cá nhân, cơ quan tổ chức để họ tiếp
cận với những nguồn lực, chính sách, tài chính, kỹ thuật để có thêm sức mạnh trong
giải quyết vấn đề.
- Vai trò là người biện hộ: là người bảo vệ quyền lợi cho đối tượng để họ được
hưởng những dịch vụ, chính sách, quyền lợi của họ đặc biệt trong những trường hợp
họ bị từ chối những dịch vụ, chính sách lẽ ra họ được hưởng.
- Vai trò là người vận động/hoạt động xã hội: là nhà vận động xã hội tổ chức
các hoạt động xã hội để biện hộ, bảo vệ quyền lợi cho đối tượng, cổ vũ tuyên truyền.
Ví dụ như sự vận động cho quyền lợi của những người khuyết tật được hưởng chính
sách hoà nhập.
- Vai trò là người giáo dục: là người cung cấp kiến thức kỹ năng liên quan tới vấn
đề họ cần giải quyết, nâng cao năng lực cho cá nhân, gia đình, nhóm hay cộng đồng qua
tập huấn, giáo dục cộng đồng để họ có hiểu biết, tự tin và tự mình nhìn nhận vấn đề đánh
giá vấn đề phân tích và tìm kiếm nguồn lực cho vấn đề cần giải quyết.
- Vai trò người tạo sự thay đổi: người nhân viên xã hội được xem như người tạo
ra sự thay đổi cho cá nhân, giúp họ thay đổi suy nghĩ, thay đổi hành vi tiêu cực hướng
tới những suy nghĩ và hành vi tốt đẹp hơn.
- Vai trò là người tham vấn: nhân viên xã hội trợ giúp gia đình và cá nhân tự
mình xem xét vấn đề, và tự thay đổi. Ví dụ như nhân viên xã hội tham gia tham vấn
giúp trẻ em bị xâm hại tình dục hay phụ nữ bị bạo hành vượt qua khủng hoảng.
20
- Vai trò là người trợ giúp xây dựng và thực hiện kế hoạch cộng đồng: trên cơ
sở nhu cầu của cộng đồng đã được cộng đồng xác định, nhân viên xã hội giúp cộng
đồng xây dựng chương trình hành động phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, tiềm năng
của cộng đồng để giải quyết vấn đề của cộng đồng.
- Vai trò là người chăm sóc, người trợ giúp: nhân viên xã hội còn được xem
như người cung cấp các dịch vụ trợ giúp cho những cá nhân, gia đình không có khả
năng tự đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của mình và giải quyết vấn đề.
1.2.2. Nghèo
1.2.2.1. Khái niệm
Quan niệm về nghèo của quốc tế
“Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế – xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy
được xã hội thừa nhận” [7,tr.40].
Nhà kinh tế học Mỹ Galbraith quan niệm: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà
thu nhập của họ, ngay dù khi thích đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức
thu nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng
coi như các cần thiết tối thiểu để sống một cảnh đúng mức”.
Định nghĩa mới của Ngân hàng Thế giới đề cập đến nghèo ở khía cạnh rộng hơn
không chỉ là thiếu thốn điều kiện về vật chất mà còn là những vấn đề khác như giáo dục,
sức khỏe hay khả năng dễ bị tổn thương. Theo tổ chức này “Nghèo là khái niệm vượt
khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất; nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập
mà còn gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả
năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực”.
Ngoài ra, Liên hiệp quốc cũng phân nghèo thành hai loại:
- Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những
nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống hằng ngày như ăn, mặc, nhà ở, nước uống, vệ sinh, y
tế, giáo dục và sự tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
- Nghèo tương đối: là những hộ có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn thu
nhập bình quân trong cộng đồng, hay không có khả năng đạt tới mức sống tối thiểu tại
một thời điểm nào đó.
21
Quan niệm nghèo đói của Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm nghèo
đói, song ý kiến chung nhất cho rằng:
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư vẫn còn thiếu ăn, nhưng không đứt
bữa, mặc không đủ ấm, nhà ở chủ yếu là tranh tre, không có hoặc không đủ các điều
kiện để phát triển sản xuất, tăng thu nhập và đáp ứng các nhu cầu về học tập, chữa
bệnh cũng như các nhu cầu xã hội khác.
- Hộ nghèo: là hộ có thu nhập bình quân trên đầu người trên tháng nhỏ hơn
hoặc bằng chuẩn nghèo.
- Hộ cận nghèo: là hộ có mức thu nhập bình quân trên đầu người trên tháng từ
trên chuẩn nghèo đến tối đa bằng 130% chuẩn nghèo.
- Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn: là hộ dân tộc thiểu số phải là hộ
nghèo, trình độ sản xuất lạc hậu chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp, thiếu đất sản xuất
và không có tài sản hoặc có nhưng giá trị rất thấp.
- Người nghèo: là người có tên trong sổ chứng nhận hộ nghèo/sổ theo dõi quản
lý hộ nghèo.
- Xã nghèo: là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên, được xác định theo chuẩn
nghèo hiện hành.
1.2.2.2. Tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo ở Việt Nam
Tiêu chí xác định hộ nghèo và cận nghèo được xác định theo từng giai đoạn
khác nhau.
Chuẩn nghèo mới nhất được áp dụng theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về
chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015:
- Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6 triệu đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng.
- Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng
đến 650.000 đồng/người/tháng.
22
Mức chuẩn nghèo quy định nêu trên là căn cứ để thực hiện các chính sách an
sinh xã hội và chính sách kinh tế, xã hội khác. Hiện nay, tỉnh Bình Định và thành phố
Quy Nhơn đều áp dụng chuẩn nghèo theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg về chuẩn
hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 nêu trên.
1.2.2.3. Nguyên nhân nghèo đói ở Việt nam
Nguyên nhân đói nghèo rất đa dạng, có những nguyên nhân độc lập, nhưng
cũng có những đan xen, quan hệ nhân quả với nhau. Ở nước ta, nghèo đói do các
nguyên nhân chủ yếu sau:
Nhóm nguyên nhân do điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội
Việt Nam ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tiếp giáp biển Đông, là quốc gia
gồm 1 trong 5 ổ bão trên thế giới, cho nên hàng năm có hàng chục cơn bão trong đó có
2-3 cơn bão mạnh, lũ lụt, hạn hán, thời tiết thay đổi… gây thiệt hại nặng nề về người, tài
sản, hoa màu, cơ sở hạ tầng. Mặt khác Việt Nam có ¾ diện tích là đồi núi; Đất đai cằn
côi diện tích canh tác thấp; Địa dư rộng, địa hình phức tạp, xa xôi hẻo lánh, giao thông
đi lại không thuận tiện, quan hệ thị trường chưa phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, Thời
tiết khí hậu khắc nghiệt thường bị thiên tai bão lụt, sâu bệnh, hạn hán mất mùa…
Trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội phát triển,
tỉ lệ tăng dân số còn cao; Do sự cách biệt, cô lập với tình hình phát triển chung như
đường giao thông, phương tiện thông tin tiến bộ, khoa học kỹ thuật, phúc lợi xã hội,
không nói được ngôn ngữ chung của đất nước.v.v.
Bình Định thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ thuộc vùng có khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa và được chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa (từ tháng 8 đến tháng 12) thường
trùng với mùa bão nên thường gây ra lũ lụt, ngược lại mùa nắng kéo dài nên gây hạn
hán ở nhiều nơi. Địa hình phổ biến là đồi thấp xen kẽ thung lũng hẹp đã gây ra những
trở ngại cho việc sản xuất nông nghiệp của người dân. Mặt khác, đây cũng là tỉnh có
nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, với nhiều phong tục tập quán khác nhau, ngôn ngữ
khác nhau ... nên việc phát triển KT-XH trên địa bàn gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là
công tác xóa đói giảm nghèo triển khai rất khó khăn.
Nhóm nguyên nhân do cơ chế chính sách
Trải qua thời gian dài trong cơ chế bao cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế; vì
vậy, việc xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường là đúng đắn, kịp thời.
23
Song cơ chế mới, nhiều chính sách về kinh tế xã hội còn thiếu, chưa đồng bộ, trong đó
chính sách đầu tư phát triển đặc biệt là đầu tư phát triển nông nghiệp – nông thôn; Các
chính sách ưu đãi, khuyến khích, sản xuất, tạo việc làm, y tế, văn hoá, giáo dục; Chính
sách đầu tư cơ sở hạ tầng chưa thỏa đáng, nhất là ở các vùng núi, vùng cao, vùng sâu…
Do bản thân người nghèo:
Ngoài những tác động trên vấn đề nghèo đói còn do yếu tố chủ quan của người
nghèo như:
Thiếu vốn; thiếu kiến thức; thiếu thông tin về thị trường; thiếu đất; đông con,
thiếu lao động; thất nghiệp; rủi ro, ốm đau, tai nạn; vướng vào tệ nạn xã hội.
Một bộ phận không nhỏ người nghèo, xã nghèo vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa chủ động vươn lên thoát nghèo.
Các nguyên nhân trên tác động qua lại lẫn nhau làm cho tình trạng nghèo đói
trong từng vùng thêm trầm trọng, gay gắt…
1.2.3. Công tác xã hội đối với người nghèo
1.2.3.1. Khái niệm
Hiện nay, có một số khái niệm đề cập đến Công tác xã hội với người nghèo như sau:
- “Công tác xã hội đối với người nghèo là tiến trình tổ chức, hoạt động của tác
viên công tác xã hội với người nghèo và cộng đồng của họ bằng việc thúc đẩy nhận
thức, nâng cao năng lực, khả năng tự vươn lên của người nghèo trong việc tìm ra
nguyên nhân của sự nghèo đói, xác định ý thức, trách nhiệm, khả năng và tự lựa chọn
giải pháp của bản thân và khai thác các yếu tố sẵn sàng giúp đỡ của cộng đồng để
thoát nghèo. Mặt khác tác viên phải huy động tài nguyên, tính sẵn sàng của cộng đồng
giúp đỡ người nghèo thoát nghèo, tạo ra sự hài hòa của quan hệ giữa người nghèo với
cộng đồng” [26,tr.43].
- “Công tác xã hội với gia đình nghèo (người nghèo) là cách tiếp cận giúp đỡ gia
đình gặp khó khăn về kinh tế, khó khăn trong việc duy trì cuộc sống sinh hoạt bình
thường hoặc có nguy cơ rơi vào tình trạng khó có thể duy trì trạng thái cân bằng trong
gia đình” [27,tr.13].
Từ những quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm như sau: Công tác xã hội với
người nghèo là quá trình thúc đẩy nhận thức, tăng năng lực và tự lực cho người nghèo.
24
Giúp họ tìm ra nguyên nhân của nghèo đói, xác định ý thức trách nhiệm, khả năng, ý
chí để cải thiện cuộc sống và vươn lên thoát cảnh nghèo khổ.
1.2.3.2. Mục tiêu công tác xã hội với người nghèo
Mục tiêu cuối cùng của CTXH với gia đình nghèo là giúp thành viên học cách
thực hiện chức năng của mình để đáp ứng các nhu cầu về phát triển cả về mặt tâm lý,
tình cảm và xã hội cho tất cả các thành viên trong gia đình (Colins, Jordan và
Coleman, 2007). Các mục tiêu cụ thể:
-
Tăng cường sức mạnh của cá nhân và gia đình để mọi người sẵn sàng cho
những thay đổi tốt hơn;
-
Cung cấp thêm những dịch vụ can thiệp cá nhân và gia đình để duy trì thực
hiện chức năng một cách hiệu quả;
-
Tạo ra những thay đổi cụ thể trong việc thực hiện chức năng của gia đình nhằm
duy trì hoạt động để đảm bảo tốt cuộc sống hàng ngày của mọi thành viên trong gia đình.
1.2.4. Khái niệm tái định cư
- Theo nghĩa rộng: “Tái định cư là một quá trình bao gồm đền bù các thiệt hại
đất đai và tài sản di chuyển, tái định cư nhằm ổn định và khôi phục cuộc sống cho
những người bị thu hồi đất để xây dựng các dự án. Tái định cư còn bao gồm các hoạt
động nhằm hỗ trợ cho những người bị ảnh hưởng do việc thực hiện các dự án gây ra,
khôi phục và cải thiện mức sống, tạo điều kiện phát triển các cơ sở sản xuất kinh tế,
văn hóa, xã hội và cộng đồng”.
- Theo nghĩa hẹp, Tái định cư được dùng chỉ sự di chuyển của các hộ gia đình
tới định cư ở nơi ở mới.
- Theo Từ điển Tiếng Việt: Tái định cư được hiểu là: Đến một nơi nhất định để
sinh sống lần thứ hai (lại một lần nữa) [28,tr.57].
- Theo Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì tái định cư được giải thích
là: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà
phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau: 1.
Bồi thường bằng nhà ở. 2. Bồi thường bằng giao đất ở mới. 3. Bồi thường bằng tiền để
tự lo chỗ ở mới.”
25