Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nghiên cứu về dân ca quan họ bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.61 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Sinh ra trên mảnh đất mà người ta gọi là “cái nôi của văn hóa”, tôi
cảm thấy rất tự hào và yêu quý quê hương xứ Kinh Bắc này.
Vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc trước đây được coi là một trong tứ trấn của
Kinh Thành Thăng Long, chính nơi đây đã hội tụ và sản sinh ra quan họ Bắc
Ninh – một loại hình đặc sắc, độc đáo và tiêu biểu trong các hình thức diễn
xướng của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ.
Cư dân Hà Bắc có truyền thống cần cù, thông minh sáng tạo trong lao
động cho nên đến thế kỷ XI cùng với sự ra đời của Đại Việt triều Lý, Kinh
Bắc đã trở thành một vùng kinh tế mạnh của đất nước, làm nền cho sự phát
triển mọi mặt chính trị, văn hoá, xã hội…
Hàng nghìn năm, trong lịch sử chống ngoại xâm, vùng đất và con người
Kinh Bắc được lịch sử cả nước giao cho trọng trách là "đất phên dậu phía Bắc
của Thăng Long"
Chính thế đứng và trọng trách lịch sử ấy đã hun đúc nên phẩm chất anh
hùng, mưu lược, quyết chiến thắng của người dân Bắc Ninh Bắc Giang để họ
viết nên những trang sử vàng chói lọi về lịch sử chống ngoại xâm. Chính
những phẩm chất, tình cảm cao quý này sẽ chi phối mọi sáng tạo của người
dân Kinh Bắc trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật,
trong đó, có Quan họ.
2. Theo dòng chảy của thời gian, hiện nay dân ca quan họ vẫn là
loại hình sinh hoạt gắn liền, gần gũi và quan trọng ở Đồng bằng Bắc Bộ nói
chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Bên cạnh các đoàn nghệ thuật quan họ
chuyên nghiệp còn có 100% các làng của tỉnh Bắc Ninh đều có câu lạc bộ hát
quan họ. Bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng về sự tồn tại phát triển của dân
ca quan họ, thì dân ca quan họ vẫn còn hiện tượng dị bản, các nghệ nhân ngày
một già đi trong khi đó giới trẻ ngày nay thiếu nhiệt huyết đam mê lại muốn
quay lưng lại với dân ca quan họ và đi theo các loại âm nhạc thị trường hiện
1



nay. Đã xuất hiện một số bất cập trong loại văn hóa này như: hát quan họ trên
sân khấu có dàn nhạc đệm, và thể hiện phong cách xa lạ so với lối hát truyền
thống.
3. Đã có rất nhiều bài viết và công trình nghiên cứu dân ca quan họ, đánh
giá những giá trị đóng góp của loại hình nghệ thuật đặc sắc độc đáo này.
Các tác phẩm đã đi sâu vào nghiên cứu âm nhạc trong dân ca quan họ
hoặc chỉ coi sự hình thành và phát triển của nghệ thuật hát quan họ như một
yếu tố, môt tiền đề cho sự hình thành một loại hình nghệ thuật khác… Song
nghiên cứu dân ca quan họ từ một góc độ một loại hình nghệ thuật hát trong
đời sống văn hóa của người dân để từ đó gợi mở những giải pháp thích hợp.
Để phát huy tốt vốn di sản văn hóa đặc sắc này, cần phải có những khảo
sát, đánh giá đúng thực trạng của nghệ thuật hát quan họ.
Dân số Bắc Ninh chưa đầy một triệu người, mật độ dân số chỉ sau Hà
Nội và Sài Gòn. Siêu tốc đến chóng mặt về công nghiệp hoá và đô thị hóa
đang từng ngày, từng giờ “thôn tính” nếp sống văn hóa trữ tình từ nghìn xưa,
trong đó có quan họ Bắc Ninh.
II. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu lịch sử và phát triển của dân ca quan họ ở Đồng bằng Bắc Bộ
nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng,để nhận thấy nét độc đáo, đặc sắc của
một loại nghệ thuật mang tính chất rất rõ nét về văn hóa vùng miền nơi đây.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng trong nghệ thuật hát quan họ ở xứ Kinh Bắc, nhằm
đưa ra hướng giải pháp để dân ca quan họ trở thành hoạt động có ý thức trong
đời sống văn hóa cộng đồng, đồng thời góp phần vào việc bảo tồn, phát triển
hơn loại hình nghệ thuật này, tự hào hơn với vốn di sản văn hóa độc đáo
của vùng Đồng bằng Bắc Bộ, khẳng định hơn nữa vai trò của Dân ca Quan họ
trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong nước, quốc tế.
IV. Đối tượng nghiên cứu


2


Đề tài có tên: “ Nghiên cứu về dân ca quan họ Bắc Ninh” cho nên đối
tượng nghiên cứu sẽ là các yếu tố lịch sử, văn hóa – xã hội và giá trị của làn
điệu dân ca quan họ trong nền văn hóa.
V. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nghệ thuật hát Quan họ trong mối quan hệ văn hóa – xã
hội mà con người là chủ thể sáng tạo, cho nên các tài liệu mang tính lịch sử,
văn hóa – xã hội, nghệ thuật cũng được tham khảo và sử dụng, và tham khảo
thêm một số tài liệu của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã
được xuất bản, nghiệm thu và công bố.
VI. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về nghệ thuật hát quan họ trong đời sống văn hóa của
người dân Bắc Ninh trong bối cảnh kinh tế, văn hóa – xã hội thời mở cửa, hội
nhập, giao lưu và hợp tác với nước ngoài. Tôi còn sử dụng các phương pháp
so sánh, phân tích để từ đó rút ra những nhận xét, kết luận của Đảng và Nhà
nước về việc giữ gìn và phát huy bản sắc của các loại hình nghệ thuật. Đề tài
còn sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, sưu tầm tư liệu, tóm tắt,
trích lược, phê phán, các sách báo xuất bản hoặc chưa xuất bản có liên quan
để phục vụ cho việc nghiên cứu.

3


PHẦN NỘI DUNG

Chương I: Lược sử về dân ca Quan họ

1.1 Kinh Bắc nơi khơi nguồn văn hóa Quan họ

Kinh Bắc là một trong những vùng văn hóa lâu đời và phát triển nhất của
người Việt ở vùng đất phía Bắc Thăng Long, sông Hồng (chủ yếu là đất Bắc
Ninh, Bắc Giang ngày nay). Đây là một trong những trung tâm của nền văn
minh Việt cổ. Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được
phản ánh qua các huyền thoại về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu
Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương... Cùng với huyền thoại truyền thuyết là
các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương Vương, các đền thờ Lạc Long
Quân, Âu Cơ, đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên
Du...Thành cổ Luy Lâu ở xã Thanh Khương (Dâu) với các di tích dinh thự,
phố chợ, đền đài, chùa tháp nguy nga còn lại của trung tâm chính trị, kinh tế
thương mại, trung tâm Phật giáo và Nho giáo của nước ta trong thiên niên kỷ
đầu công nguyên. Bắc Ninh nổi tiếng với các làng nghề như làng tranh Đông
Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại
Bái, dệt Hồi Quan; Các di tích lịch sử như: đền Đô, chùa Phúc Nghiêm Tự
(chùa Tổ), đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng... Địa danh Kinh Bắc đã được
nói đến từ lâu với cái tên: Bắc Giang Lộ hay Kinh Bắc Lộ, Bắc Giang thừa
tuyên hay Kinh Bắc thừa tuyên, Kinh Bắc trấn và cái tên Bắc Ninh (ước muốn
yên bình cho một vùng đất quan trọng phía Bắc Tổ quốc nằm xa kinh thành
Huế) do vua Minh Mạng đổi tên năm 1822. Vùng đất có độ tuổi hàng nghìn
năm này là nơi giao lưu của các luồng văn hóa lớn được du nhập từ Trung
Hoa, Ấn Độ...Vì lẽ đó, văn hóa Kinh Bắc mang nhiều nét “cung đình”, là một
vùng văn hóa bị đứt gãy về mặt thời gian nên các yếu tố văn hóa dân gian còn
4


lưu lại đến ngày nay ít nhiều đều được thừa hưởng nét văn hóa truyền thống.
Đây chính là sự minh chứng hùng hồn cho sự phong phú đa dạng và tiêu biểu
hơn bất cứ địa phương nào trên mảnh đất Việt ngàn năm văn hiến.
“Bắc Ninh là cái nôi phát sinh của người Việt và văn hóa Việt”
Kinh Bắc còn là nơi khơi nguồn văn hóa Quan họ. Nói đến Quan họ là

nói đến nền văn hoá tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn hóa hóa nghệ
thuật dân gian trong một quá trình lịch sử lâu dài, có nhiều tầng, nhiều lớp
trong một chỉnh thể văn hóa; gắn bó với văn hóa, văn minh làng xã, thu hút
và biểu hiện những ước mơ; tập hợp và hành động chung cho những nguyện
vọng, những khao khát của con người xứ Bắc từ nhiều đời đối với quyền
sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người trên bình diện văn hóa - xã
hội. Nền văn hóa Quan họ là do các lối chơi quan họ của cộng đồng xây dựng
nên, luôn luôn được cộng đồng sàng lọc trong dòng chảy lịch sử. Việc khôi
phục và bảo tồn những tinh hoa nhất, bản sắc độc đáo, đậm đà nhất trong nền
văn hóa quan họ là phải khôi phục và bảo tồn kho tàng bài bản của quan họ,

cách hát và kỹ thuật hát quan họ

(quan họ

cổ) và cuối cùng là lối chơi quan họ. Làng Viêm Xá (làng Diềm), huyện Yên
Phong có đền thờ vua Bà. Truyền rằng, Vua Bà chính là người đã sáng tác ra
các làn điệu dân ca quan họ đầy tình tứ và quyến rũ. Nét đặc trưng, độc đáo

5


nhất của làng Diềm chính là “nghề chơi” quan họ với nghệ thuật và phong
cách hát quan họ vừa cổ xưa, vừa độc đáo, vừa phong phú, điêu luyện. Trong
số 49 làng Quan họ, làng Diềm còn duy trì được đội quan họ đông tới hàng
trăm người, đủ các thế hệ liền anh liền chị. Từng bọn Quan họ, mỗi nhóm liền
anh, liền chị khi gặp gỡ có thể cất giọng hát tuỳ theo nhu cầu, tâm trạng cảm
xúc. Việc truyền dạy hát quan họ được quan tâm ngay trong gia đình, không
phụ thuộc, hay chờ đợi việc tổ chức lớp học. Chính “cái nôi” văn hóa này là
nơi sản sinh ra văn hóa Quan họ với những làn điệu dân ca quan họ trữ tình,

đằm thắm; hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa mang tính chất dân gian,
nhưng lại nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi người chơi am tường tiêu chuẩn, tuân
theo lề luật.Văn hóa Quan họ là một di sản văn hóa quý giá không của riêng
vùng Kinh Bắc biểu hiện những quan niệm đẹp đẽ, trong sáng, chất phác của
người dân lao động sống trên mảnh đất Kinh Bắc xưa và nay. Tất cả hợp lại
mảnh đất tốt để dân ca quan họ, hay nói rộng hơn là những sinh hoạt văn hóa
Quan họ ra đời và phát triển.
1.2 Nguồn gốc.
Khi cắt nghĩa "Quan họ", nhiều người dùng lối phân tích ngữ nghĩa từ
đơn, tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của "quan" và
của "họ". Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ "âm
nhạc cung đình" (nhạc của tầng lớp quan lại), hay gắn với sự tích một ông
quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền
chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải này
đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình
thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời
chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ
chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong
sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian. Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ
6


bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không
phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận
định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ
nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian.
Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn
giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm
nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh
hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung

đình rồi trở lại với dân gian.
Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu
và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhóm
những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc. Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm
nào được đa số các học giả chấp nhận.
1.3. Văn hóa Quan Họ - tổng thể của nhiều yếu tố Văn Hóa, nghệ
thuật dân gian.
Dân ca quan họ.
Từ xa xưa dân ca quan họ đã là món ăn tinh thần, một nét sinh hoạt văn
hóa đẹp của người dân Kinh Bắc. Đây là những làn điệu dân ca đặc sắc của
vùng đồng bằng Bắc Bộ - thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu
trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng.
Có ít nhất 300 bài (giai điệu) quan họ đã được ký âm (ghi âm bằng ký hiệu
âm nhạc trên giấy), gồm những đoạn thơ, bài thơ chủ yếu là thể lục bá do các
nghệ nhân quan họ truyền thống bàn giao cho các nhà sưu tầm lưu giữ cho
đến hôm nay. Ngày nay, dân ca quan họ đã phát triển và hoàn chỉnh cả về
phương diện âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn.

7


Người vùng Kinh Bắc, từ già đến trẻ ai cũng hát được một vài làn điệu
quan họ. Người chơi quan họ sành điệu không chỉ hát hay, hát được nhiều làn
điệu mà phải hát được nhiều bài lời cổ. Người Kinh Bắc hát dân ca quan họ,
chơi quan họ không những trong dịp lễ hội mà cả trong khi lao động, trong
các đám giỗ chạp... Mỗi khi lễ hội mùa xuân, các làn điệu quan họ với những
câu hát trữ tình làm say đắm lòng người quan họ và khách thập phương ngân
lên trong không gian văn hoá quan họ. Quá trình hình thành lời ca, làn điệu
quan họ gắn liền với quá trình phát triển của đời sống xã hội nhằm nâng cao
và tôn vinh các mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hóa. Cũng vì lẽ đó,

sinh hoạt quan họ thường gắn liền với những sinh hoạt hội hè, ca hát, giao
lưu; gắn với đời sống tình cảm, tinh thần của người lao động biết hưởng tới
cái đẹp.
Dân ca quan họ mang nhiều nét độc đáo, được chia thành những loại sau:
Quan họ truyền thống :
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Quan họ, vùng Kinh Bắc có tất cả 49
làng duy trì được lối chơi văn hóa Quan họ (44 làng ở Bắc Ninh, 5 làng ở Bắc
Giang) với hàng ngàn bài hát lời cổ mộc mạc, dân dã mang nét đẹp riêng vừa
thiêng liêng, vừa cổ xưa mà rất Việt Nam. Kho băng ghi âm quan họ cổ do
các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Quan họ truyền thống hát không nhạc
đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân ở các
làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị
được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả
nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ…
"Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng
thời là người thưởng thức (thưởng thức “cái tình” của bạn hát). Các làn điệu
quan họ cổ tiêu biểu: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ
8


la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, Gió mát trăng
thanh, Tứ quý... vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa thích và hát
đến ngày nay.
Quan họ mới:
Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ" là hình thức biểu diễn (hát)
quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng, như: Tết
đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch...Từ sau năm 1954, quan họ được khai
thác làn điệu, đặt lời mới thành ra ca cảnh diễn trên sâu khấu. Thực tế, quan
họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa CD,

DVD về quan họ ngày nay đều là hình thức quan họ biểu diễn trên sân khấu.
Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán
thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không
còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra nhiều nơi, đến với thính giả
trong nước và các quốc gia trên trên thế giới. Quan họ mới có hình thức biểu
diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát
tốp, hát có múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống t heo
hai cách: không có ý thức và có ý thức.
Nét đặc trưng của quan họ chính là ở hình thức hát đối đáp giữa một bên
liền anh và một bên liền chị trong không gian văn hoá Quan họ.
+ Hát hội (hát vui và hát thi-hát giải): hình thức "hát vui đôi câu để vui
xuân, vui hội, vui bàu, vui bạn" là hình thức ca hát Quan họ chủ yếu ở hội.
+ Hát lễ thờ: Khi các Quan họ rủ nhau đến hát hoặc hát giải, thì mỗi
nhóm hát Quan họ đều sắm sửa trầu, cau, hương, nến, hoa quả để vào đình
làm lễ và cũng là lễ trình dân.
+ Hát cầu đảo(cầu mưa): Người Quan họ cũng như đông đảo cư dân
nông nghiệp trên quê hương Quan họ dùng tiếng hát thấu đến trời cao và thế
9


giới thần linh mong muốn mưa thuận, gió hoà, mùa màng tươi tốt, dân an, vật
thịnh, âm dương ngũ hành, đất trời và con người hoà hợp...
+Hát kết chạ: Các làng đã kết chạ anh chạ em (có nơi gọi là kết ước, ăn
giải), vào dịp có hội lễ, chạ anh chạ em thường mời nhau sang dự hội,
mời nhau sang ca vui ở hội hoặc ca những canh hát thâu đêm trong nhà gọi là
hát kết chạ.
+ Hát giải hạn: Sau khi thực hiện xong các nghi thức cúng lễ giải hạn,
gia đình thường mời từ 4-6 nhóm Quan họ vừa nam, vừa nữ đến nhà ca một
đêm Quan họ với niềm tin cái may sẽ đến, cái rủi sẽ qua. Hát giải hạn không
bị gò bó nhiều vào lề lối mà có thể chỉ ca đối đáp một bài theo giọng La rằng.

+Hát mừng : Hát nhân ngày vui, mở tiệc khao (khánh thành nhà, con cái
đỗ đạt, lên thọ, thăng quan tiến chức...). Ngoài những nghi lễ mời họ hàng,
dân làng đến ăn mừng thì trong vùng Quan họ thường mời những canh hát
Quan họ của nhiều nhóm kéo dài có khi vài ngày đêm.Trong cuộc hát mừng
này, Quan họ không phải tuân thủ lề lối nghiêm ngặt mà hầu hết là ca những
bài giọng Vặt nội dung lời ca sâu nặng nghĩa tình, gắn bó keo sơn và không
khí hát phải thật vui (tránh những bài có lời ca ai oán, trách móc, than thân
trách phận).
+ Hát đối đáp: tuân theo lề luật: đối đáp nam nữ, đối giọng, đối lời và
hát đôi nam đối với nữ.
+Hát canh: Nhiều nơi kiêng chữ hát, nên canh hát còn được gọi là canh
ca; chẳng hạn: ca một canh.
Một canh hát Quan họ đúng lề lối xưa thường diễn ra vào mùa xuân hoặc
mùa thu,mùa của hội chùa, hội đình làng vào đám, giữa những nhóm Quan họ
nam và nữ mới nhau đến nhà "ca một canh cho vui bàu vui bạn, vui xóm, vui
làng, cầu may, cầu phúc". Canh hát thường được giữ đúng các lề lối như
Quan họ đã định ra và thường kéo dài từ 7, 8 giờ tối đến 2, 3 giờ sáng. Ðôi
10


khi, hội làng mở nhiều ngày, cũng có những canh hát kéo dài 2, 3 ngày đêm.
Trình tự một canh hát đúng lề lối có thể chia thành 3 chặng. Chặng đầu tiên,
người ta hát những giọng cổ cũng gọi là giọng lề lối. Vai trò của giọng La
rằng đặc biệt quan trọng trong việc chi phối nghệ thuật ca hát ấy, cả hai bên
sớm đi vàosự ăn nhập về cao độ, trường độ về sự vang, rền, nền, nẩy...của
nghệ thuật ca hát.
Chặng cuối thường diễn ra vào khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng, có thể
cuối hoặc gần cuối chặng hát giữa, su lúc người Quan họ mời nhau xơi tiệc
mặn và tiệc ngọt có nơi uống rượu, có nơi không. Nếu nơi có uống rượu thì
Quan họ chủ thường nâng chén rượu hát bài ca chuốc rượu để mời bạn. Xong

bữa tiệc và tuần trầu, nước, Quan họ cũng có thể hát đối đáp thêm một số câu
giọng vặt nữa rồi chuyển sang ca những bài ca giã từ bạn, cũng tức là chuyển
sang chặng cuối của canh hát.

1.4. Dân ca quan họ với các lễ hội truyền thống
Tục lệ của các làng Quan họ qui định chặt chẽ: Quan họ phần lễ là để
thờ Thần, thờ Phật, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh là “cầu may” - tức cầu
cho Thần, Phật phù hộ cho dân an vật thịnh, mùa màng phong đăng hòa cốc.
Phần hội là diễn ra các tục trò dân gian vui chơi giải trí như: tuồng, chèo, ca
trù, quan họ, vật… nhằm thư giãn sức dân sau những ngày mùa vụ vất vả
trong năm. Khác với lễ hội của các làng khác, lễ hội của các làng Quan họ
thường có tục hát Quan họ diễn ra cả phần lễ và phần hội. Quan họ phần lễ:
theo tục lệ của các làng Quan họ gốc, hát thờ Thần được qui định chặt chẽ
như: Chỉ có Quan họ nam hoặc nữ của làng được hát. Trong hát thờ chỉ được
hát những những giọng lề lối (giọng cổ)như: Hừ la, La rằng, Tình tang, Cây
gạo...có nội dung ca ngợi công đức của Thần. Tuyệt đối không được hát
giọng vặt có nội dung nam nữ yêu đương.
11


+Quan họ phần hội: Quan họ phần hội là để Quan họ nam và nữ của các
làng hát đối đáp giao duyên nhằm tạo không khí vui vẻ, giải trí với nhau. Hội
của các làng Quan họ hấp dẫn và quyến rũ nhất chính là phần Quan họ hát đối
đáp giao duyên với nhau. Bởi các liền anh, liền chị bằng những làn điệu,
những lời ca ngọt ngào đầy tình cảm thể hiện những tâm trạng yêu đương,
nhớ nhung, đằm thắm, da diết, quyến luyến của những lứa đôi. Hẳn vì thế, ở
những hội Quan họ như Diềm, hội Lim, hội Ó, hội Nhồi... người ta thấy từng
tốp Quan họ nam và nữ say sưa hát ở sân đình, sân đền, sân chùa, trên đồi
núi, quanh đình chùa... có khi tràn cả xuống bờ ruộng, trên thuyền giữa sông
nước.

Sau phần lễ là phần hội, Quan họ chủ nhà đưa bạn tham gia phần hát hội.
Các liền anh, liền chị Quan họ từng tốp hát đối đáp giao duyên say sưa bên
nhau ở sân đình, sân chùa, tràn cả xuống những vạt núi, đồi, ruộng và trên ao
hồ quanh đình, chùa và đây chính là phần hấp dẫn nhất của các lễ hội Quan
họ. Sau khi tham gia hát hội, Quan họ chủ nhà đưa bạn mình về “nhà chứa”
để hát canh Quan họ với nhau. Vào canh hát Quan họ, baogiờ Quan họ chủ
nhà cũng mời trầu nước bằng những cử chỉ, lời ca cung kính, tế nhị. Vào canh
hát bao giờ người ta cũng hát đôi và hát đối theo lề lối. Hát theo lề lối có
nghĩa là các đôi Quan họ bắt đầu hát bằng hệ thống giọng cổ như: Hừ la, La
rằng, La hời, Tình tang, Cây gạo, Cái ả, Lên núi, Xuống sông... Hội Lim được
coi là hội hát quan họ lớn nhất vùng Kinh Bắc được tổ chức và trung tuần
tháng Giêng âm lịch hàng năm, không khí lễ hội rộn rã nhất và du khách thập
phương cũng trảy hội đông nhất. Bên cạnh Hội Lim, vùng Kinh Bắc còn nổi
tiếng bởi Hội làng Diềm (6/2 âm lịch) - nơi có đền thờ Vua Bà, được coi
là thủy tổ quan họ Ngoài hai Hội làng to nhất là Lim và Diềm thì vùng Kinh
Bắc còn nổi tiếng bởi những hội hát quan họ như: Bịu, Ó, Nhồi, Bùi, Bò.

12


1.5. Cách thức sinh hoạt văn hóa Dân ca Quan họ.
Sinh hoạt vǎn hoá Quan họ của liền anh, liền chị xứ Kinh Bắc có nhiều
hình thức tổ chức khác nhau. Cuộc hát Quan họ được xem là Canh hát chính
thống thường phải tuân thủ đủ trình tự các chặng: lề lối, giọng vặt và giã bạn.
Trong ba chặng hát: Lề lối, giọng vặt, giã bạn – mỗi giai đoạn đều có những
biểu hiện khác biệt ở phần nội dung cũng như hình thức cấu trúc bài bản. Lề
lối là các bài Quan họ cổ, thường được hát ở nhịp độ chậm, bài bản có nhiều
tiếng đệm, lời phụ. Người hát những bài Quan họ Lề lối phải biết kỹ thuật hát
vang, rền, nền, nảy, ngắt, rớt mới có thể thực hiện tốt và “đúng chất” Quan
họ. Về những bài hát Dân ca Quan họ, được phân chia ra nhiều thể loại: Giao

duyên, Thờ cúng tổ tiên, Cầu mưa, Cầu may mắn và thịnh vượng, Cầu
ân phúc của tổ tiên.

13


Chương II: Giá trị tư tưởng của lời ca Quan họ

2. Đôi nét về văn bản lời ca
Cho đến nay, chưa có con số chính thức cuối cùng về số bản lời ca quan
họ. Theo con số đi sưu tầm, ghi chép được của Ðoàn dân ca quan họ thì có
gần 250 bài bản lời ca. Có tài liệu nói có 500 bản lời ca. Nếu tính theo số bài
bản về bài hát (ca khúc và lời) thì có trên dưới 200 bản, và nếu mỗi bài ca đều
có 2 lời thì ta có trên dưới 400 bài lời ca. Ngay từ những năm 1970 đã cố
gắng sưu tầm nhưng củng chỉ thấy có một số lời ca, một số lời ca thứ hai của
một số bài được sáng tác mới trong những năm 1970, 1980… lời ca cho một
bài nào đấy, nhìn chung thì thống nhất trong cả vùng, nhưng cũng có những
dị bản.
Ví dụ có làng hát:
Rủ nhau đi gánh nước thuyền
Ðứt quang vỡ sải nước liền xuống sông
Nhưng làng khác nhất định hát:
Rủ nhau đi gánh nước thuyền
Ðứt quang vỡ sải nước liền xuôi đông
Tìm hiểu lời ca Quan họ như một yếu tố hợp thành bài ca Quan họ và
gằn liền với hoạt động ca hát Quan họ. Nhưng vẫn có thể và cần tách hệ
thống lời ca Quan họ như môt chỉnh thể thuộc thơ ca dân gian để dễ tìm hiểu.
Chính vì vậy, phương pháp tìm hiểu lời ca Quan họ có thể vận dụng được
nhiều phương pháp tìm hiểu và thưởng thức thơ nói chung, thơ ca dân
gian nói riêng.

Quan họ có hệ thống lời ca riêng, đạt tới một trình độ riêng, đáp ứng
những nhu cầu văn hóa, nghệ thuật có nhiều nét riêng của sinh hoạt văn hóa

14


quan họ. Nhưng cũng như âm nhạc quan họ, lời ca quan họ đã du nhập, thu
hút tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian, dân tộc như: ca dao, tục ngữ, hệ
thống truyện thơ nôm, lời ca của hát chèo, tuồng, ả đào, ví, trống quân, vv...
Chính vì vậy, khi tìm hiều lời ca quan họ cũng cần có những tri thức về thơ ca
dân gian, dân tộc để nhiều khi phải so sánh, đối chiếu, liên tưởng... mới hiểu
đúng hoặc hiểu sâu một từ ngữ, một hình ảnh, hình tượng... một lời ca.Khi
chúng ta có một hệ thống lời ca, am hiểu đặc điểm ra đời và lưu hành hệ
thống lời ca đó, có tri thức về thơ ca dân gian, dân tộc, hiểu và vận dụng được
các phương pháp tìm hiểu, thưởng thức thơ ca; đặt lời ca gắn liền với âm nhạc
và hoạt động ca hát quan họ... chúng ta có thể hiểu được những giá trị nhiều
mặt của hệ thống lời ca quan họ.
2.1 Giá trị tư tưởng của lời ca Quan họ
Nội dung tổng quát của hệ thống lời ca quan họ là sự mơ ước, khát khao
về hạnh phúc của cuộc sống.
+ Khao khát thương yêu và được thương yêu
Trong lời ca quan họ cần lưu ý: người ta ít khi dùng chữ yêu mà hầu hết
dùng chữ thương; ít khi xưng hô, gọi nhau bằng những chữ chàng, nàng,
mình, ta, anh, em mà hay dùng chữ người, ngay cả trong những bài bộc lộ sâu
sắc những tình cảm của tình yêu nam nữ.
Về chữ thương và chữ yêu, trong khẩu ngữ dân gian xưa, cũng ít khi
dùng chữ yêu nói về tình yêu nam nữ. Cho đến đầu thế kỷ XX, khi đi đến nhà
gái dạm hỏi, bà mối hoặc ông mối cũng thường nói:
"Hai cháu đã thương nhau..."
, hoặc

"hai cụ đã thương đến các cháu..."
, hoặc
"đã thương thì thương cho chót..."
15


.Mấy chục năm gần đây, chữ yêu thay thế dần chữ thương. Về chữ
Người trong lời ca Quan họ:
" Người ơi, Người ở đừng về”.
Chữ "người"chứa đọng những tình cảm đậm đà, sâu sắc, tinh tế. Cần lưu
ý một vài điểm như vậy để khi vào tìm hiểu nội dung lời ca Quan họ chúng ta
dễ tiếp nhận hơn. Khi đã được nghe trọn vẹn nhiều canh hát Quan họ với
hàng trăm bài ca nối tiếp nhau từ đầu đến cuối, đối đáp nam nữ, tiếng bổng,
tiếng trầm, thanh trong, thanh đục... rồi suy ngẫm trước hệ thống lời ca quan
họ, nhiều người cảm thấy ngay từ canh hát đầu tiên, sau đó ngày càng lắng
đọng, ghi sâu trong tiềm thức, trong xúc cảm của ta về sự khao khát yêu
thương và được yêu thương giữa con người với con người.
Mở đầu canh hát người quan họ đã biểu lộ ngay nỗi vui mừng vừa trân
trọng, vừa thân thiết trước cảnh
"sum họp trúc mai", "tứ hải giao tình", "bốn bể giao hoà..." , với ý nghĩa
"tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm", "càng sâu nghĩa bể càng
dài tình sông”
Một canh hát quan họ, trước hết, là sự sum vầy bàu bạn trong tình sâu,
nghĩa nặng, là sự thực hiện một khát khao gặp mặt, giao hoà, sau nhiều ngày
đêm khắc khoải, chờ mong tơ tưởng:
...Ngày thì luống những âm thầm
Ðêm nằm ít cũng tám, chín, mười lần chiêm bao...(Giọng La rằng)
Thế rồi canh hát cứ tiếp diễn, tiến triển cùng với sự thôi thúc, đan xen
của hai tình cảm mãnh liệt nhất của tuổi trẻ là tình yêu nam nữ và tình bạn
thần tiên. Người ta hát với nhau về ân sâu, nghĩa nặng, vì chỉ có ân sâu, nghĩa

nặng, chỉ có tình gắn liền với nghĩa, với ân thì thương yêu kia mới thật, mới
sâu, mới bền, mới chung thuỷ:
... Nghĩa người tôi bắc lên cần
16


Tạc lên bia đá, để bên dạ vàng...
... Ðem vàng mà bắc lên cân
Bên vàng nặng chín, bên ân nặng mười

Canh hát càng về khuya thì tiếng hát quan họ càng bổng, trầm, non nỉ,
tình người quan họ càng nồng đượm, thiết tha.
...Dây nào xe bốn chúng tôi
Se chín lần kép, se mười lần đơn...
Người quan họ nhìn nhau bằng một tấm lòng trân trọng lẫn nhau, trân
trọng con người, nền tảng của tình yêu, tình bạn, nên họ phát hiện tinh tế
những vẻ đẹp tâm hồn và hình thể của nhau. Sự phát hiện ấy lại được hát lên
cho nhau, vì nhau, nên tiếng hát kia càng thấm sâu vào xúc cảm người hát,
người nghe:
... Trúc xinh, trúc mọc đầu đình
Anh Hai xinh, anh Hai đứng một mình cũng xinh
Trúc xinh, trúc mọc bờ ao
Anh Ba xinh, anh Ba đứng nơi nào cũng xinh
Trúc xinh, trúc mọc đầu chùa
Không yêu em lấy đạo bùa cho phải yêu
Tóm lại, sự khao khát yêu thương và được yêu thương giữa người với
người, được biểu hiện ở nhiều sắc thái tình cảm của tình bạn, tình yêu nam
nữ... cùng với những đỉnh điểm nghệ thuật của thơ ca, âm nhạc quan họ, đã
trở thành nội dung tình cảm, tư tưởng chủ đạo trong hệ thống lời ca quan họ,
góp phần tạo nên bất diệt của những giá trị quan họ.

+Một tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương thắm thiết
Trước hết, đó là một quê hương
"sơn thuỷ hữu tình", những "đường về Quan họ"
17


,những
"đầu làng có chiếc giếng khơi"
, những
"cây gạo chon von"
, một
"quán Dốcchợ Cầu"
, một
"quán trắng phố Nhồi"
,…. Từ biển mặn, đầm lầy, ô trũng, qua bao thế hệ nhọc nhằn, cần cù và
sáng tạo mới có một cảnh sắc quê hương ấy. Gắn liền với thiên nhiên, cảnh
sắc ấy là những con người "như trúc mọc ngoài trời" , có vẻ đẹp tâm hồn toả
lên từ đôi mắt "lấp lánh, nhấp nhánh" như sao trời. Tình yêu ấy lại càng
sâu sắc khi người quan họ xây và giữ gìn quê hương mình không chỉ bằng mồ
hôi, tâm sức và trí tuệ mà còn bằng máu, nước mắt, bằng những mất mát, hy
sinh lớn lao trong suốt trường kỳ lịch sử giữ nước và dựng nước khi lịch sử
và đất nước đặt trọng trách cho quê hương này là "phên dậu phía Bắc của
Thăng Long".
Chính những tình cảm chủ đạo ấy trước hết đã góp phần hun đúc nên
tâm hồn, tình cảm, tài năng... của người Quan họ, và, cùng với sức sống dài
lâu nhiều khi kỳ diệu của tiếng hát Quan họ, những tình cảm chủ đạo trên mãi
mãi thấm sâu trong lòng người nghe Quan họ, góp phần tạo nên những tâm
hồn nhậy cảm, gắn bó với sự yêu thương giữa con người với con người, giữa
con người cùng muôn vật, muôn loài.
2.2 Nghệ thuật thơ ca trong lời ca Quan họ

Hầu hết lời ca của các bài ca Quan họ là thơ lục bát hoặc lục bát biến
thể. Có tài liệu đã thống kê, phân loại thì thấy trong tổng số 285 bài lời ca
Quan họ in trong cuốn sách ấy, có 237 bài theo thể lục bát hoặc lục bát biến
18


thể, chiếm chừng 80%, 29 bài theo thể bốn từ hoặc bốn từ hỗn hợp, chiếm
12%, 19 bài theo các lối biến thể khác 8%.
Thơ lục bát và một số thể thơ trong lời ca Quan họ
Một trong những đặc điểm của thể thơ lục bát là luật bằng trắc thể hiện
luật phối thanh của thể thơ này.Ví dụ:
Người về (B) em vẫn (T) khóc thầm (B)
Ðôi bên (B) vạt áo (T) ướt đầm (B) như mưa (B)
Như vậy, nếu theo lệ phổ biến như trên thì các thanh ở câu sáu chữ cũng
như ở câu tám chữ nếu đứng vào hàng chẵn như chữ thứ 2, 4, 6 phải tuân theo
luật bằng trắc như ví dụ kể trên, còn những chữ đứng vào hàng lẻ như chữ thứ
1, thứ 3, thứ 5, thứ 7 không buộc phải theo luật bằng trắc thật nghiêm
ngặt. Như vậy, trong hệ thống lời ca Quan họ, người nghệ sĩ Quan họ đã biết
sử dụng tài tình biến hoá thể thơ lục bát và tạo nên những bài ca theo thể thơ
này có thể tồn tại độc lập mà vẫn có những giá trị nghệ thuật thơ ca ở trình độ
cao. Nhưng khi cần thiết, người Quan họ cũng sử dụng một số thể thơ khác kể
cả văn xuôi để làm lời ca và cũng có những thành công ở những mức độ khác
nhau.
Ngôn ngữ thi ca trong lời ca Quan họ đạt tới những thành tựu nghệ thuật
đặc sắc, độc đáo. Một ngôn ngữ khi thì mộc mạc đồng quê, khi thì trau chuốt
tài hoa nhưng baogiờ cũng giàu tính hình tượng, sâu đậm nghĩa tình. Ngôn
ngữ ấy đã thu hút nhiều tinh hoa của nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca dân gian,
thơ ca bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng với những giá trị nổi bật, góp
phần tạo nên những giá trị riêng của bài ca quan họ.
2.2.1 Sự mộc mạc và sự trau chuốt

Có một số lời ca quan họ, nếu tách riêng lời ca thành văn bản, thì bước
đầu tiếp xúc, có khi ta chưa thấy hết cái đẹp, cái hay của lời ca đó, nhất là

19


cảm thụ theo góc độ thi ca thuần tuý. Ví dụ, lời bài ca "Trên rừng 36 thứ
chim"
Trên rừng ba mươi sáu thứ chim
Thứ chim chèo bẻo, thứ chim chích choè
Trong Quan họ có người trồng tre
Sự mộc mạc của ngôn từ lời ca đã đưa ta đến bắt gặp một dáng dấp, một
phong cách, một dạng hình, một tâm hồn... cũng hết sức mộc mạc nhưng rất
đáng yêu của con người lao động một thời, con người ấy phải được miêu ta
bằng ngôn từ ấy.
Chính sự mộc mạc nghệ thuật, không giống sự dễ dãi của ngôn từ lời ca
quan họ đãgây xúc cảm cho từ người lao động ít đến những bậc đại khoa,
những thi sĩ có tài.Chính vì vậy người sáng tạo lời ca biết gạn lọc, lựa chọn
ngôn từ ở trình độ cao, có một trình độ tích luỹ, am hiểu sâu rộng về thơ ca
dân gian và cao hơn hết là sự rung cảm nghệ thuật tinh tế, chân thành.
2.2.2 Nghệ thuật xây dựng hình tượng trong lời ca
Có những hình tượng đã quen thuộc và được khẳng định giá trị nghệ
thuật trong thơ ca và nghệ thuật tạo hình từ rất sớm, ví dụ hình tượng cây trúc
trong thơ ca và hội hoạ, điêu khắc... từ nhiều thế kỷ. Hình tượng cây trúc ta
thường gặp ấy đã trở nên biểu tượng cốt cách, phẩm chất của người quân tử:
cứng rắn, vươn thẳng, sức sống dẻo dai, bền vững trước mọi thử thách; ý chí
kiên định; nhân cách thanh cao... Nhưng hình tượng cây trúc trong lời ca
Quan họ lại mang những biểu tượng gần gũi với phong độ, cốt cách, phẩm
chất đẹp đẽ của người bình dân:
Hôm nay xum họp trúc mai

Tình trong một khắc, nghĩa dài trăm năm...

20


Hình tượng con đò, con thuyền được biểu hiện khá thành công trong
nhiều bài ca Quan họ.
2.2.3 Nghệ thuật sử dụng từ có nghĩa xác định cụ thể để mở ra sự
trừu tượng, sự hàm ý phong phú, sâu rộng của lời ca
Người Quan họ rất tài tình trong việc sử dụng những từ có ý nghĩa xác
định cụ thể, để mở ra sự trừu tượng, sự hàm ý phong phú, sâu rộng, làm cho
lời ca ít lời mà sâu sắc, luôn luôn rộng mở về ý, khiến người nghe, người cảm
thụ phát huy được khả năng liên tưởng, tưởng tượng, cảm xúc.
Thí dụ:
... Năm canh, sáu khắc, người ơi!
Người cười nửa miệng, em vui nửa lòng
Người cười nửa miệng, em vui nửa lòng: cửa nửa miệng, vui nửa lòng,
vừa là những hình ảnh cụ thể, là những từ mang tính xác định, nhưng lại để
người nghe rơi vào sự liên tưởng, tưởng tượng đạt tới cảm xúc.
Ảnh hưởng qua lại giữa lời ca Quan họ với thơ ca dân gian, dân tộc
Lời thơ trong lời ca Quan họ gắn bó, có ảnh hưởng qua lại đối với ca
dao, lời các dân tộc khác, lời thơ trong hệ thống truyện nôm khuyết danh,
hoặc truyện nôm có tác giả, nhất là với truyện Kiều. Cũng thấy những trường
hợp lời ca Quan họ có những câu giống với lời ca chèo, chầu văn và một số
dân ca các vùng miền khác. Ở đây tìm hiểu thêm mối liên hệ giữa lời thơ
Truyện Kiều và lời thơ trong lời ca Quan họ, cũng là mối liên hệ giữa thơ ca
dân gian với một tác phẩm thơ ca thành văn vào bậc lớn nhất của Văn học
Việt Nam, để từ đó tìm hiểu những thủ pháp nghệ thuật mà người Quan họ đã
xử lý trong mối quan hệ nhiều chiều trên con đường sáng tạo lời ca.
Trong nghệ thuật làm lời ca, người Quan họ đã biết sử dụng thể loại thơ,

nhất là thể loại thơ lục bát với tất cả mọi dạng biến thể của thể loại này, biết
thu hút những tinh hoa của nghệ thuật thơ ca dân gian, dân tộc, nhất là những
21


tác phẩm nổi tiếng của dân tộc như Truyện Kiều, biết sử dụng ngôn ngữ thơ
ca để xây dựng nên những hình tượng trữ tình đặc sắc, những đoạn thơ, câu
thơ, ý thơ mới chỉ cần đọc diễn cảm,chưa cần hát, đã khiến người nghe xúc
động, bồi hồi vì tình, vì ý... của thơ. Chính vì những thành tựu trong nghệ
thuật thơ ca như vậy, nên nhiều bài lời ca Quan họ có giá trị độc lập của thơ
ca. Liên kết những bài lời ca có giá trị thơ ca cao với sự sáng tạo âm nhạc và
những giọng hát hay, đẹp của người Quan họ, chúng ta đã có những bài hát
sống mãi.
Một số làn điệu trong Dân ca Quan họ
• Giọng Hừ La: Vui vẻ thế này( Điếu đổ làn xe - Phải duyên thì lấy chớ
nghe ai dèm - Vui bằng đám hội đốt cây nhang trầm)
• Giọng La Rằng:
Hôm nay lan huệ sánh bày
Đào đông muốn hỏi liễu tây vài lời….
•Giọng Đường Bạn: Kim loan ai hỡi kim loanLại đây tôi kết nên đôi
vợ chồng
•Giọng Tình Tang: Trèo lên cây bưởi hái hoa Người ta hái hết đôi ta
bẻ cành.
Dân ca Quan họ - Nét sinh hoạt văn hóa giao duyên đậm chất trữ
tình của hai cộng đồng làng xã
Cũng như các loại hình dân ca khác, Quan họ bắt nguồn từ nhu cầu hoạt
động văn nghệ của quần chúng nên rất khó xác định thời điểm xuất hiện.
Theo thần tích làng Diềm (thôn Viêm Xá - Hoà Long - Yên Phong - Bắc
Ninh), công chúa Nhữ Nam con vu a Hùng du xuân gặp mưa to gió lớn dừng
chân ở làng Diềm và ở lại dạy dân là măn, giáo hoá lễ nghĩa. Những lúc nông


22


nhàn, bà dạy dân các làn điệu hát đối đáp nam nữ. Nhờ có bà, dân làng no đủ
cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần.

Khi bà mất, dân làng lập đền thờ và tôn làm Thành hoàng làng. Hội đền
được tổ chức vào ngày 6/2 âm lịch. Ngoài các nghi thức tế lễ dâng hương còn
có các sinh hoạt “bọn” Quan họ đặc sắc để tưởng nhớ đức Vua Bà thuỷ tổ
Quan họ. Từ làng Diềm, các làn điệu và lề lối hát đối Quan họ lan toả sang
nhiều làng quê khác.
Theo truyền thuyết, vào thời Lý, dân ca Quan họ đã phổ biến hầu khắp
phủ Thiên Đức. Tuy nhiên, người có công tổ chức hát xướng và bổ sung nâng
cao dân ca Quan họ là quận công Đỗ Nguyên Thụy, quê Bình Cả - Nội Duệ Tiên Du - Bắc Ninh. Ông làm quan thời chúa Trịnh Cương, hiện ở quê còn di
tích lăng mộ đá và nhà thờ khá hoàn chỉnh được xây dựng từ năm 1734.
Hát Quan họ chủ yếu chỉ được tổ chức ở mỗi làng mỗi năm một lần vào
dịp hội làng. Các cuộc Hát Quan họ có thể diễn ra ở trong nhà cũng như ngoài

23


trời. Phương thức sinh hoạt ở các làng khá đa dạng, song nhìn chung, ngoài
một số nét khác biệt, trong Hát Quan họ chứa đựng cả những nét có ở nhiều
thể loại hát đối đáp nam nữ của các tộc trên đất nước. Quan họ là hình thức
hát đối giữa liền anh - liền chị của hai cộng đồng làng xã. Hát đối đáp nam nữ
như hát Ví, hát Trống quân, hát Đúm… nhiều vùng đều có. Nó gắn với tục
kết bạn nam nữ, kết nghĩa giữa hai làng khác nhau.

Chương III: Một vài suy nghĩ về vấn đề bảo tồn và phát huy Dân ca

Quan họ trong bối cảnh xã hội hiện nay

3.1 Tính khép - mở trong Dân ca Quan họ
Cho đến bây giờ bản thân tôi cũng chưa tìm được cái nút cơ bản để lý
giải các vấn đề bao chứa trong nó. Bởi vậy, ở đây tôi chỉ điểm lại một số
những điều mà các nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra, qua đó hi vọng (cho dù
là mong manh) sẽ lý giải được điều gì nhỏ bé trong khối dân ca quan họ Bắc
Ninh đồ sộ kia.
Thứ nhất
Về nguồn gốc và tên gọi của loại dân ca vùng Kinh Bắc này, mặc dù đã
định hình từ lâu nhưng cho đến ngày nay nó vẫn chưa có sự nhất quán cao

24


trong con mắt của các nhà nghiên cứu. Khi nói về nguồn gốc của quan họ,
người ta thường
hay dựa vào truyền thuyết có vị quan khi qua cánh đồng thấy giọng hát hay
của người con gái, nên họ (dừng) lại nghe hát - từ đó có tên là Quan họ. Hoặc
là lối hát của quan viên hai họ khi gặp nhau. Lý giải về tên gọi như vậy rõ
ràng mang tính thực dụng, nhưng không thuyết phục. Từ cách lý giải này nhìn
rộng ra thì lại thấy được một vấn đề khác đó là sự khẳng định lối hát được đặt
tên là quan họ đã có từ rất lâu đời và nó được gắn với người dân Kinh Bắc.
Cũng phải nói thêm rằng, Kinh Bắc xưa là vùng đất cổ, có sông, có núi, có
những đồng lúa bát ngát nâng cánh cò bay. Là vùng đất nằm giữa châu thổ
cao và châu thổ thấp, thực tế có thể coi đây là điểm tạm dừng chân của người
Việt để tiếp tục bước chân đi khai phá vùng đất mới phương Nam. Nhìn lại
lịch sử, Kinh Bắc đã từng là trung tâm văn hóa của người Việt giai đoạn đầu
thời kỳ trung cổ. Như vậy, điều kiện tự nhiên và môi trường như thế đã giúp
con người Kinh Bắc dệt nên một nét văn hóa riêng: vừa thân thiện, đầm ấm,

vừa lai láng bồng bềnh. Điều đó đã được phản ánh thật rõ nét trong các làn
điệu dân ca của họ vừa có tính khép kín nhưng lại có tính mở rộng.
Thứ hai hệ thống bài bản của dân ca quan họ Bắc Ninh là vô cùng phong
phú. Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở về đây, theo kết quả của các nhà
nghiên cứu thì con số về bài bản, làn điệu của dân ca quan họ Bắc Ninh là
chưa thống nhất. Tuy nhiên một con số trong bản Báo cáo về công tác sưu
tầm và phát động quần chúng bảo vệ giữ gìn vốn văn hóa quần chúng (1973)
đã làm mọi người phải thán phục, đó là số lượng bài hát có thể lên tới 300
bài. Và năm 2002 nhạc sỹ Hồng Thao cho ra mắt giới âm nhạc 300 bài dân
ca quan họ đây là công trình mang nhiều tâm huyết của ông, qua đó người ta
đủ lòng tin để khẳng định sự phong phú của loại dân ca này.

25


×