Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh của bảo ninh và ăn mày dĩ vãng của chu lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.33 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau năm 1975 đất nước chuyển sang một trang sử mới với biết bao vấn đề phức
tạp của thời hậu chiến song dư âm của cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn còn đọng lại
rất sâu sắc trong tâm khảm những người bước ra từ cuộc chiến tranh khốc liệt này và
nó còn ám ảnh cả những thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Văn học thời hậu chiến dần
mở rộng đề tài sang những vùng hiện thực mới. Tuy vậy, bên cạnh mảng văn học viết
về đề tài xây dựng kinh tế, về đời sống thế sự, văn học viết về chiến tranh vẫn có vị
trí quan trọng. Nhưng có một điều khác biệt, đó là, khi hòa bình lập lại người ta có
dịp nhìn nhận lại chiến tranh một cách toàn diện nhất. Nổi bật trong số các sáng tác
về đề tài này là tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng
của Chu Lai.
1.2. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai có thời
điểm xuất hiện gần nhau và đều được dư luận quan tâm đánh giá cao. Bảo Ninh và
Chu Lai đều là những người lính trực tiếp chiến đấu trước khi trở thành nhà văn. Vì
thế viết về đề tài chiến tranh sẽ là thế mạnh của họ và không gian – thời gian nghệ
thuật khi về viết về đề tài này được họ thể hiện một cách độc đáo trong các tác phẩm.
1.3. Nhìn lại chặng đường đã qua, ta thấy có nhiều ý kiến bình luận khác nhau, nhiều
nghiên cứu đánh giá khác nhau về hai cuốn tiểu thuyết và hầu hết đều khẳng định vị
trí quan trọng của chúng trong đời sống tiểu thuyết đương đại. Sự độc đáo về không
gian – thời gian nghệ thuật tuy đã được đề cập nhưng còn tản mạn, riêng lẻ và còn có
nhiều hướng mở ra để người nghiên cứu tìm hiểu sâu sắc hơn về vấn đề này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
Ngay sau khi xuất hiện trên văn đàn với nhan đề Thân phận của tình yêu, tác
phẩm của Bảo Ninh đã gây ra một làn sóng trong dư luận.
Trên báo Văn nghệ số 43, 44, 47 năm 1991 liên tục có các bài viết về Nỗi
buồn chiến tranh như Nguyễn Khắc Phê với Đôi điều quanh ba tiểu thuyết được
giải, Đỗ Ngọc Thống với bài Viết về một xu hướng tiếp cận tác phẩm.


Trong cuốn Thi pháp hiện đại, với bài viết Thân phận tình yêu của Bảo
Ninh tác giả Đỗ Đức Hiểu đã đánh giá cao về tác phẩm, về ngôn từ nghệ thuật cũng
như vai trò của nhà văn. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp với bài Kĩ thuật dòng ý thức
qua Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã có những nghiên cứu rất sâu về kĩ thuật
dòng ý thức – một thủ pháp trần thuật rất đặc sắc của Bảo Ninh ở tiểu thuyết này.
Trên một số tạp chí văn học và trang wed cũng đã xuất hiện một số các bài viết
về tác phẩm này. Và đặc biệt liên quan trực tiếp đến một phần của luận văn có bài
viết Thời gian trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh của Đào Duy Hiệp trên tạp
chí nghiên cứu văn học số 8 – 2007.
2.2. Tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai


2

Ra đời sau Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai ít gặp phải
nhiều tranh cãi như cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh. Khi công bố giải thưởng văn học
về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang tuyển chọn trong ba năm (1991
– 1993), nhà văn Xuân Thiều với cương vị chủ tịch Hội đồng xét giải cho rằng tác
phẩm “là cuốn tiểu thuyết sáng giá về chiến tranh và người lính, với tầm tư tưởng
đúng đắn và trong sáng rất đáng trân trọng, khích lệ.”.
Trong bài Một vài cảm nhận sau khi đọc Ăn mày dĩ vãng, tác giả Xuân
Trường đã đánh giá về cuốn tiểu thuyết của Chu Lai: “Cuộc chiến tranh mà Chu Lai
viết lại đó chính là cuộc chiến tranh thật anh dũng và quá nhiều đau thương mất mát.
Nhưng cái mất mát lớn nhất đó là sự ích kỷ, sự chia rẽ, kỳ thị dân tộc và sự hèn nhát
vẫn cứ len lỏi trong hàng ngũ những người cách mạng làm cho những người anh
dũng, gan dạ đánh giặc mù trời một thời ngang dọc như Hùng, Tám Tính, Tuấn, Ba
Thành… bị vứt ra ngoài lề xã hội ngay sau cuộc chiến”.
Bài viết Trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai trên báo Văn
nghệ số 7/1992 đã quy tụ nhiều ý kiến của các nhà văn, nhà thơ nghiên cứu về tiểu
thuyết Ăn mày dĩ vãng, chỉ ra những thành công và đôi điều hạn chế của tác phẩm.

Tác phẩm cũng được chọn làm đối tượng nghiên cứu của một số luận văn
Thạc sĩ ở trường Đại học. Nhìn chung, mỗi luận văn đã đề cập tới một vài phương
diện cụ thể của tác phẩm như: Cảm hứng, cái nhìn hiện thực về con người, quan niệm
nghệ thuật về con người, một số kiểu loại nhân vật….
Những tìm tòi đánh giá của những người đi trước là những gợi ý quý báu để
tác giả luận văn mạnh dạn đi vào khai thác tìm hiểu sâu sắc hơn đề tài nghiên cứu.
Bởi lẽ tác giả nhận thấy những bài viết, nghiên cứu đánh giá tuy nhiều nhưng vấn đề
về không – thời gian nghệ thuật trong hai tác phẩm còn có thể được khai thác tìm
hiểu sâu hơn. Hơn nữa tìm hiểu sự độc đáo về không – thời gian nghệ thuật và mối
quan hệ giữa chúng trong hai tác phẩm đặt trong sự đối sánh với các tác phẩm sau
năm 1975 viết về cùng chủ đề chiến tranh khác là điều rất cần thiết và là mục đích mà
tác giả luận văn muốn hướng tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm tòi, phát hiện những nét độc đáo riêng biệt của Không – thời gian nghệ
thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của
Chu Lai; Đi sâu phát hiện mối quan hệ giữa không – thời gian nghệ thuật và hiệu quả
nghệ thuật của những sáng tạo đó trong khi thể hiện nội dung hai tác phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (NXB Văn học, 2005) và Ăn
mày dĩ vãng của Chu Lai (NXB Hội nhà văn, 2004). Ngoài ra còn có một vài tác
phẩm văn xuôi khác cùng viết về đề tài chiến tranh.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
5.2. Phương pháp nghiên cứu lịch sử phát sinh
5.3. Phương pháp so sánh


3

5.4. Phương pháp nghiên cứu loại hình

5.5. Phương pháp hệ thống
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn phát hiện và chỉ rõ nét độc đáo riêng biệt và mối quan hệ giữa không
gian và thời gian nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết, nêu bật những đóng góp to
lớn của Bảo Ninh và Chu Lai trong hành trình cách tân thể loại tiểu thuyết Việt Nam
đương đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn sẽ được triển khai trong ba chương:
Chương 1: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai
trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam về đề tài chiến tranh sau năm 1975
Chương 2: Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai
Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai


4

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH VÀ ĂN MÀY DĨ VÃNG
CỦA CHU LAI TRONG DÒNG CHẢY CỦA TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH SAU NĂM 1975
1.1. Tiểu thuyết và những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết
“Tiểu thuyết là một thể loại lớn nằm trong phương thức tự sự có khả năng
phản ánh hiện thực một cách bao quát ở mọi giới hạn không gian và thời gian, khả
năng khám phá một cách sâu sắc những vấn đề thuộc thân phận con người thông qua
những tính cách đa dạng phức tạp và khả năng tái hiện những bức tranh mạng tính
tổng thể rộng lớn về đời sống xã hội”.

Những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có thể kể đến như: khả năng phản ánh
một cách toàn vẹn và sinh động bức tranh mang tính tổng thể của hiện thực đời sống;
“tính đa thanh phức điệu”; khả năng hướng nội, đi sâu khai thác từng mảnh đời,
từng góc khuất trong sâu thẳm tâm hồn con người; bản chất tổng hợp…
1.2. Diện mạo của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng về đề tài
chiến tranh sau năm 1975
1.2.1. Khái quát về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam trước năm 1975
Cảm hứng chủ đạo trong văn xuôi chiến tranh trước năm 1975 là chủ nghĩa
yêu nước, khát vọng tự do độc lập, là niềm tự hào về sự nghiệp cứu nước vĩ đại của
nhân dân Việt Nam anh hùng.
Âm hưởng sử thi hào hùng, sảng khoái, cảm hứng ngợi ca cuộc chiến hiện tại
và tin tưởng mãnh liệt vào ngày mai đã trở thành đặc điểm chủ đạo trong văn xuôi về
đề tài chiến tranh trước năm 1975.
Nhìn chung, cốt truyện của văn xuôi Việt Nam trước năm 1975 thường được
xây dựng trên cơ sở xung đột địch – ta. Phù hợp với cách tổ chức cốt truyện, nhân
vật được phân ra rạch ròi hai tuyến chính diện và phản diện. Văn học nổi bật tính đơn
thanh trong giọng điệu, ngôn ngữ. Hào sảng hoặc trữ tình thống thiết là những sắc
giọng thể hiện ý thức nhà văn về tính chất chính nghĩa và vẻ đẹp của cuộc kháng
chiến.
Tóm lại, là một bộ phận cơ bản làm nên diện mạo văn học 1945 – 1975, đề tài
chiến tranh được các nhà văn xử lý nhất quán, tuân theo khuôn mẫu chung của loại
hình văn học sử thi.
1.2.2. Diện mạo của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng về đề
tài chiến tranh sau năm 1975
Sau năm 1975, nhất là khoảng từ năm 1986, văn học chiến tranh dần dần
nghiêng về kiểu con người cá nhân, con người bi kịch. Không chỉ bó hẹp trong cái
nhìn giai cấp, dân tộc, con người đã được nhìn nhận từ góc độ nhân bản và nhân loại.
Nhìn chiến tranh qua số phận con người, cảm hứng thế sự dần dần thay thế cho cảm



5

hứng sử thi, cảm hứng nhân bản, cảm hứng bi kịch và nhu cầu thể hiện nỗi buồn đã
trở thành những cảm hững chủ đạo của nhiều tác phẩm.
Bên cạnh cách tổ chức cốt truyện theo kiểu truyền thống nhiều nhà văn đã
dùng nghệ thuật xáo trộn trật tự trần thuật và tổ chức cốt truyện theo kiểu đồng hiện
giữa quá khứ và hiện tại. Ngôn ngữ giàu tính đối thoại và sự đa dạng về giọng điệu là
đặc điểm của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết chiến tranh thời đổi mới nói riêng.
Qua những tác phẩm văn xuôi nói chung và tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi
mới nói riêng có thể thấy được bên cạnh sự kế thừa truyền thống, một số nhà văn đã
có những đột phá trong việc xử lý hiện thực để đem đến cho độc giả những tác phẩm
nghệ thuật có nhiều mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức.
1.3. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai – sự tiếp
nối đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975
1.3.1 Một số nét về nhà văn Bảo Ninh và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
Từ sau năm 1975 và nhất là sau năm 1986, văn xuôi đã có sự khởi sắc, trong
đó tiểu thuyết vẫn là thể loại độc đáo bộc lộ ưu thế của mình trong cách nhìn nhận,
khám phá và nghiền ngẫm hiện thực. Hàng loạt tên tuổi như Bảo Ninh, Chu Lai,
Dương Hướng, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương… đã góp phần không nhỏ tạo nên
diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Trong rất nhiều tên tuổi ấy, Bảo
Ninh được đánh giá là “cây bút quan trọng góp phần làm nên cuộc cách mạng trong
nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam”.
Nỗi buồn chiến tranh là câu chuyện kể về một người lính tên Kiên, đan xen
giữa hiện tại hậu chiến với hai luồng hồi ức về chiến tranh và về mối tình đầu với cô
bạn học Phương. Nỗi buồn chiến tranh đánh dấu một thành công của tiểu thuyết Việt
Nam. Tiểu thuyết này không chỉ lạ về hình thức mà còn mới mẻ cả về nội dung so
với thời điểm khi nó ra đời. Đến Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, người đọc
chập chờn sống giữa hai bờ hư – thực, dòng suy nghĩ bị choáng ngợp bởi kí ức, bởi
những ám ảnh day dứt khôn nguôi của nhân vật Kiên. Nó thể hiện những trải nghiệm
không chỉ riêng Bảo Ninh mà của cả một thế hệ, một thời đại.

1.2.2. Một số nét về nhà văn Chu Lai và tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng
Đại tá, nhà văn Chu Lai cũng được coi là một cây bút tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt
Nam hiện đại. Bao trùm lên các sáng tác của Chu Lai là sự trăn trở day dứt của tác giả

về số phận con người mà tiêu biểu là số phận người lính trước và sau chiến tranh.
Ăn mày dĩ vãng là câu chuyện kể về một kẻ “ăn mày” đặc biệt: không xin tiền
vàng, chức tước, địa vị mà chỉ cần tìm lại và làm rõ một sự thật trong quá khứ. Người
đọc luôn luôn hồi hộp suốt 16 chương tiểu thuyết và bị cuốn theo hành trình tìm lại
ký ức với những day dứt, ân hận của nhân vật tôi vì đã chạy vào hầm trước và không
chạy ra cứu người yêu mình khi khoảng cách chỉ là ba chục mét để có thể sống chết
bên nhau. Tác phẩm nhắc nhở người đọc phải luôn biết trân trọng những phút giây
quá khứ thiêng liêng và tôn trọng sự thật để sống cho tốt hơn, thanh thản hơn.


6

CHƯƠNG 2
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
VÀ ĂN MÀY DĨ VÃNG CỦA CHU LAI
2.1. Khái lược chung về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Không gian nghệ
thuật gắn với cảm thụ về không gian, mang tính chủ quan… chẳng những cho thấy
cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều
sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai đoạn văn học”.
Một trong những ưu điểm đặc trưng nổi bật của không gian nghệ thuật trong
tiểu thuyết là khả năng mở rộng tối đa đến hết chiều kích. Nếu thời gian trong tiểu
thuyết là vô tận thì không gian nghệ thuật ở đó cũng là vô cùng. Không gian nghệ
thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện

quan niệm nhất định về cuộc sống. Do đó không thể đồng nhất không gian trong tác
phẩm văn học với không gian địa lý, không gian vật lý được.
Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật trong tác phẩm bao giờ
cũng mang tính biểu trưng và tính quan niệm, thể hiện một cách nghĩ, cách nhìn
nhận, đánh giá của tác giả về vấn đề đang được nói tới trong tác phẩm của mình.
2.2. Các mô hình không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai
2.2.1. Không gian chiến trường
Nhắc tới tiểu thuyết về đề tài chiến tranh ta không thể nào không nhắc tới
không gian chiến trường. Trong Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng, Bảo Ninh
và Chu Lai chủ yếu hướng ngòi bút vào những vùng hiện thực mà trước đó thường
được xem là “vùng cấm” (những hoài nghi, giằng xé, những nỗi sợ hãi, những bất ổn
trong lòng người, gương mặt khủng khiếp, ghê rợn của chiến trận…). Đào sâu vào
những vùng khuất tối, hai nhà văn đã đem vào văn học Việt Nam một định nghĩa mới
về chiến tranh với không gian chiến trận khốc liệt, bạo tàn.
Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng gây ấn tượng dữ dội với người đọc
trước hết bởi những trang văn “đầy rẫy tử thi”và “ngập ngụa máu”. Trong Nỗi buồn
chiến tranh, ta thấy một không gian chiến trận ác liệt với bao sự tàn bạo của chiến
tranh, thấy được sinh mạng của con người thật mong manh bèo bọt. Nhân vật Kiên
trong tác phẩm như bị cầm tù bởi những ký ức về chiến trận ở sông Sa Thầy, ở đồi
Xáo Thịt, ở Truông Gọi Hồn…“Và ai đã đọc Kiên thì đều có dịp hình dung những
trận mưa cẳng chân, bàn tay rơi lịch bịch lẹt bẹt xuống đồng cỏ voi bên bờ sông Sa
Thầy vào lúc rạng mơ sau suốt một đêm B52 liên tục chần. Có thể tận mắt ngắm
sườn Xáo Thịt sau ba ngày huyết chiến nom y hệt một mái nhà lợp bằng thây người”.
Không gian chiến trận ở đây được tái hiện bằng cả thị giác và thính giác, hiện lên ghê
rợn và tang thương. Cuộc chiến không kể ngày tháng ấy đã biến mặt đất thành đầm


7


lầy, ngổn ngang những xác người và muông thú. Không gian chiến trường trở thành
không gian nghĩa địa.
Với Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng, ký ức về chiến tranh cũng dữ dội và khốc
liệt chẳng kém. Anh kể lại: “Còn đơn vị tôi, không biết đã bị xóa phiên hiệu đi, xóa
phiên hiệu lại đến lần thứ mấy nữa?... Có quân vào là có việc làm, có mục tiêu để nổ
súng và để lại tiếp tục ngã xuống đến người chót cùng”. Cái chết của đồng đội mà
Hai Hùng phải chứng kiến hoàn toàn nằm ngoài trí tưởng tượng của người may mắn
chưa phải sống trong cảnh bom đạn chiến tranh. Đó là “những thây người ngã xuống,
rách toác, óc vỡ, ruột đùn ra như ruột lợn, những ống xương thòi thụt nham nhở,
trắng hếu”.
Không chỉ có chết chóc, không gian chiến trường còn đi liền với đói khổ và
cực nhọc. Ta thấy hiện lên trong không gian chiến trận những cuộc đói ăn, đói ngủ và
thiếu thốn đủ mọi thứ tối thiểu cho một cuộc sống bình thường. Cái đói triền miên đã
làm mụ mị tâm hồn người chiến sĩ tới mức, trước sự gào réo của bao tử họ đã quên
mất cả tự trọng. Không gian chiến trường vì thế hiện lên đã làm trào dâng trong ta
những niềm cảm thương sâu sắc.
Ngoài ra, ta thấy không gian chiến trường hiện lên luôn có sự song hành của
tình yêu nhưng dường như ở đó “hạnh phúc lứa đôi thường đặt song hành cùng sự
chia biệt, cái chết”. Mới chạm cửa chiến tranh, mối tình đẹp đẽ giữa Kiên và Phương
trong Nỗi buồn chiến tranh đã bị nó chà nát tới mức dù họ còn rất yêu nhau nhưng
vĩnh viễn không thể đem lại hạnh phúc cho nhau. Hay mối duyên tình chung đụng,
phi lý và tội lỗi giữa những người lính trinh sát với ba cô gái bị bỏ quên nơi rừng già
đem lại cho họ chút hạnh phúc ngắn ngủi, cho họ được hưởng “những giọt cuối cùng
còn sót lại của tình người” lại như một “điềm gở” báo trước cho số phận bi thảm của
những chàng trai cô gái đang ở độ tuổi thanh xuân ấy. Ngay sau những cuộc hẹn hò
đắm đuối là cái chết đau đớn, tức tưởi của ba cô gái cùng với cái chết của Thịnh
“con” “đạn trúng tim, không kịp kêu một tiếng, ngã sấp”.
Trong không gian chiến trường của Ăn mày dĩ vãng, tình yêu của Hai Hùng và
Ba Sương cũng luôn hiện lên với cảm giác bị chia lìa ám ảnh. Người ta rỉ tai lời đồn
Ba Sương có số sát người yêu nên cô thường phải kìm chế tình cảm để mong Hai

Hùng không bị tử thần cướp mất. Trớ trêu thay, sau những phút giây hạnh phúc nơi
căn hầm bí mật ngột ngạt với xiết bao nguy hiểm đang rình rập trên mặt đất, họ đã
vĩnh viễn mất nhau, bởi chính Ba Sương phải xót xa từ bỏ quá khứ để ngậm ngùi trở
thành người chiến sĩ anh hùng, lưu danh trong trang sử quê hương. Mối tình mà Hai
Hợi dành cho Tám Tính cũng có kết cục thật đau buồn. Cô giao liên Thu hoặc một
người chiến sĩ dũng cảm như Khiển đã gặp tử thần ngay sau những phút giây hạnh
phúc tình cờ, ngắn ngủi.
Có thể thấy, cùng viết về không gian chiến trường nhưng tác phẩm của Chu
Lai có thiên hướng nhấn vào khả năng chịu đựng và những khao khát rất con người
của người lính để mà chất vấn cái hiện tại dửng dưng, tàn nhẫn. Còn tác phẩm của
Bảo Ninh nổi rõ tinh thần tự vấn về chính niềm tin quen thuộc của con người Việt


8

Nam rằng chiến tranh là lò lửa thử vàng, là cơ hội cho những phẩm chất đẹp đẽ nhất
tỏa sáng. Ngòi bút của Chu Lai sắc nhọn, đáo để nhưng thực ra tâm thế người đọc
khá nhẹ nhõm. Còn Bảo Ninh làm dậy lên biết bao mối hoài nghi đau đớn cà dư vị
tác phẩm còn tê tái mãi trong lòng người đọc.
2.2.2. Không gian thời hậu chiến
Bên cạnh không gian chiến trường, không gian thời hậu chiến cũng được Bảo
Ninh và Chu Lai quan tâm đề cập tới trong hai cuốn tiểu thuyết. Nó cho thấy cái nhìn
chân thực hơn về cuộc sống trong và cả sau chiến tranh.
Cả Bảo Ninh và Chu Lai đều có ý thức đề cập đến không gian con đường
người lính rời trận địa trở về với cuộc sống đời thường. Đây là cảnh hồi hương của
những người chiến thắng đã từng vào sinh ra tử mà nhân vật Kiên đã chứng kiến:
“Trên tàu Thống Nhất chuyến ấy toàn là thương binh phế và lính về vườn… Không
kèn, không trống, không khúc khải hoàn thì đã đành rồi nhưng đến một chút đối xử
có trước có sau người ta cũng chẳng buồn dành cho bộ đội. Cảnh chợ chiều nhốn
nháo, nháo nhào không khác gì một thứ tùy nghi di tản. Đã thế lại còn kiểm tra lên,

kiểm tra xuống, lục lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người ta cho rằng
một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất thoát, bị xâu xé, tranh
đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh là bởi anh bộ đội chứ không phải bởi
bọn người nào khác…”. Gần năm mươi tuổi đầu trở về với mảnh đất đã từng gắn bó
suốt thời trai trẻ, gặp lại bạn bè kiêu dũng một thời, Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng
cay đắng nhận ra những nghịch lý trớ trêu: “Đội hình đánh giặc ngang tàng năm xưa
giờ đây, trừ vài thằng may mắn khôn ngoan chẳng rõ nguyên cớ nào lại đều bị cuộc
đời dồn chung vào một cục hẩm hiu, méo mó, chẳng may nhận ra nhau chỉ nhúc
nhích con người đờ đẫn màu chì. Cánh rừng năm nào đã không còn bóng dáng một
loài cây cũ, mảnh đất năm nào đã phai lợt sắc màu, một lớp người xa lạ ở đâu đến
đến hay và mới nhớn nhao lên đã nghiễm nhiên thay thế họ rồi”. Không gian thời
hậu chiến với những số phận trớ trêu đã xoáy sâu vào tâm hồn người đọc niềm xót xa
đến khó tả! Anh cũng bàng hoàng trước nghịch cảnh: Tên Địch – sĩ quan thám báo ác
ôn – chẳng những “không hề phải trải qua một ngày cải tạo” mà còn trở thành
trưởng phòng kế hoạch, người giúp việc tin cậy của giám đốc Sở Nông lâm và sống
trong cảnh sung sướng, giàu có. Còn vị đại tá già – cựu chiến binh cách mạng – thì
thành người gác cổng với những đồng lương còm lại luôn bị hắn hoạnh họe!
Chiến tranh khốc liệt còn hòa bình lại đầy rẫy những phức tạp và toan lo đời
thường. Không gian thời bình hiện lên không thanh bình, tươi đẹp như trong chiến
tranh những người lính vẫn nghĩ mà không gian cuộc sống thời hậu chiến hiện lên
đầy khó khăn và nghiệt ngã.
Trong Ăn mày dĩ vãng, Chu Lai còn vẽ ra một không gian thời hậu chiến với
thực tế đau lòng, đó là sự kỳ thị, chia rẽ Bắc Nam vốn nảy mầm ngay từ những ngày
chiến tranh ác liệt. Còn Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, được tiếp tục sống nhiều
năm trong bầu trời hòa bình giữa lòng thành phố quê hương nhưng cảm giác của anh
cũng chẳng hơn gì những người như Hai Hùng, như Tuấn. Anh cảm thấy như bị


9


“mắc kẹt” lại giữa cuộc đời này chứ không phải may mắn được sống sót. Thực trạng
đau xót ấy là phổ biến hay cá biệt, có thể mỗi người nghĩ mỗi khác. Nhưng trình bày
hiện thực bằng kinh nghiệm cá nhân, Bảo Ninh và Chu Lai đã đem vào văn chương
những điều mà trước đó rất ít được người ta nói tới.
2.2.3. Không gian đời tư
Không gian đời tư cho phép nhân vật được sống đích thực với cuộc sống của
riêng mình, được là chính mình, giúp tái hiện chiều sâu tâm lí trong con người họ,
giúp người đọc nhận ra họ cảm, họ nghĩ gì về cuộc sống xung quanh và đó cũng là
lúc con người mới là người nhất.
Mặc dù tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh có kết cầu lồng ghép “tiểu thuyết
trong tiểu thuyết”, “câu chuyện trong câu chuyện”, đan xen giữa quá khứ với hiện
tại, quá khứ với tương lai thì chúng ta vẫn nhận thấy ở nhân vật chính – người lính –
một quá trình tâm lý phức tạp với những suy nghĩ rất riêng tư. Đó là một đời tư với
nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn tình yêu, nỗi buồn sáng tạo. Không gian đời tư được
hiện lên là sự tranh chấp giữa ý thức và vô thức, giữa trái tim và bộ óc. Đời sống nội
tâm của nhân vật hiện lên với những sắc thái cảm xúc đan xen: háo hức, hạnh phúc
tuyệt đỉnh, rối bời, bấn loạn, khổ đau… Ở nhân vật kiên, không gian đời tư được thể
hiện rõ qua dòng độc thoại nội tâm với những suy nghĩ miên man không cất thành
lời, tiếng nói thầm từ đáy sâu tâm hồn, tiếng nói của tâm linh, của tiềm thức. Tới đây,
không gian đời tư được khám phá một cách triệt để. Như bao người khác, Kiên đã ra
đi, tiêu tốn cuộc đời mình cho chiến tranh, cho lí tưởng để rồi một phút định thần
nhìn lại Kiên đã “đứng lặng ngắm toàn cảnh đời mình đang mất đi, đang trôi xa,
đang vĩnh biệt chính mình”. Chiến tranh không chừa một ai. Tất cả đều bị mất mát,
hủy diệt – đó là thân phận tình yêu, thân phận con người. Đời tư của Kiên đầy chua
chat, xót xa bật lên thành những băn khoăn day dứt “Vinh quang của thời ấy dẫu
rằng tột đỉnh nhưng cũng chỉ một sớm một chiều. Đến bây giờ, đến lúc này đây, bạn
hãy xem quanh ta thực chất có cái gì khác hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô
bạo thời hậu chiến”. Nhưng đôi lúc không gian đời tư ấy vẫn có cảm giác ngọt ngào
dư âm của hạnh phúc, của niềm tin, đặc biệt là tình yêu đẹp như mơ giữa anh và
Phương. Tình yêu ấy đã cho Phương những giây phút tuyệt diệu, đã bảo hộ và cứu

giúp anh qua những bến bờ mê lú, những khoảnh khắc cô đơn nhất của cuộc chiến
tranh. Khi Phương ra đi, một mình trơ trọi giữa cuộc đời nhưng Kiên vẫn tôn thờ, vẫn
đắm say và mê mệt. Không gian đời tư hiện lên ở đây là sự hòa trộn nỗi nhớ Phương
và nỗi nhớ tình yêu trong nỗi nhớ chiến tranh và khát vọng sáng tạo thành một ám
ảnh khôn nguôi… Không gian ấy hiện lên không bằng lặng mà đầy những đợt sóng
ngầm âm thầm mà dữ dội.
Với cái nhìn chân thực và day dứt, không gian đời tư hiện lên cho người đọc
thấy được cái nhìn đa chiều về người lính. Trong chiến tranh, những người anh hùng
của chúng ta can trường, dũng cảm và lập được thật nhiều chiến công. Và chiến công
ấy phải đổi bằng xương máu của bao người lính đã ngã xuống anh dũng. Chiến thắng
không chỉ là hào quang, nó là sự đánh đổi, là cái giá phải trả rất đắt đối với người


10

lính. Nhưng đằng sau hào quang là những góc khuất không thể tránh khỏi của chiến
tranh. Người lính không phải là cái máy biết nhả đạn, vì thế họ cũng có cảm xúc
mạnh mẽ và phức tạp. Nhân vật sử thi không bất động trên trang sách như chúng ta
vẫn tưởng tượng mà là những con người bằng xương bằng thịt, ngoài xung phong,
chiến đấu thì họ còn là những con người biết yêu đương, căm ghét, tức giận, có cả
những phút yếu hèn, tầm thường thoáng qua. Gặp họ trên những trang sách của Bảo
Ninh, ta không những thêm yêu người lính mà còn day dứt băn khoăn bởi cuộc sống
đời tư của họ.
Không gian đời tư được Chu Lai khai thác đến tận cùng ở chiều sâu tâm lý với
cả hai phần sáng và tối, cao cả và thấp hèn. Nó đã giúp hình ảnh người lính hiện lên
chân thật hơn bao giờ hết. Trong Ăn mày dĩ vãng, người lính ngoài chiến trường dễ
dàng chấp nhận cái chết một cách nhẹ nhàng, thanh thản nhưng để tồn tại và khi đối
mặt với cái đói nhiều lúc họ đã không thể vượt qua. Hai Hùng “nhiều khi muốn lỏng
tay súng mà không thể nói ra”. Bom đạn, hi sinh, ngày nào người lính cũng phải đối
diện và chứng kiến với những cảnh chết chóc tang thương, với đau đớn quằn quại của

đồng đội, với cả những xác chết ngổn ngang khắp chiến trường. Khó có thể bình thản
quen và không hề suy nghĩ về điều đó. Bởi vậy dễ hiểu vì sao Hai Hùng lại có những
phút giây yếu mềm và hèn mọn như vậy. Ở đây không gian đời tư đã được hiện lên
thật hơn bao giờ hết: “Chiến tranh mờ mịt, bạn bè chết hết lớp này đến lớp khác,
ngày kết thúc còn đang nằm trong vô vọng, nhiều lúc anh muốn chạy trốn khỏi nỗi
nhọc nhằn, khủng khiếp mà sức con người có hạn, không thể mãi chịu đựng”. Vào
phút hiểm nghèo nhất, “một chiến sĩ gan dạ nhưng đã tự tiện ăn hết phần gạo dự trữ
qui định. Lúc đó gạo là máu, là sống còn, là danh dự, xà xẻo gạo là xúc phạm đến tất
cả anh em”. Hùng là kiểu mẫu người lính tiêu biểu trong chiến tranh nhưng vẫn
không thoát khỏi vòng kiểm tỏa khác của những thiếu thốn do chiến tranh mang lại.
Có bao người dám thú nhận một sự thật đời tư như Hai Hùng: “Vào giây phút hiểm
nghèo nhất, anh đã hiện nguyên hình là một tên ăn cắp. Ăn cắp một hộp sữ dành cho
thương binh.... Về đêm, chính anh đã lợi dụng bóng tối bò sang lán thương binh móc
bồng ăn cắp một hộp sữa...”. Và khi đồng đội nghi tra vấn lẫn nhau thì anh cắm mặt
xuống đất không nói một lời. Lòng đầy ân hận chua chát Hùng nói với người yêu một
cách chân thực như thú nhận với Đức mẹ tất cả tội lỗi của mình. Những phút giây
giằng xé ấy chính là nhân cách, thứ giúp anh, giúp những người lính khác như anh
nhìn lại mình, nhìn lại cuộc sống nhiều thử thách này để đấu tranh gạt bỏ cái thấp
hèn, cái sợ hãi, cái tầm thường ra khỏi con người mình, lấy lại ý chí và phẩm cách
anh hùng sẵn có trong mình.
Ngoài ra, Ăn mày dĩ vãng của Chu lai còn rất quan tâm đến không gian đời tư
người lính khi họ bước ra khỏi chiến tranh. Ở phương diện này, người lính vẫn chỉ là
những anh lính binh nhì ngơ ngác, kém cỏi khi không thể nắm lấy hạnh phúc, tình
yêu và đón nhận nó như những con người bình thường. Tay trắng, hụt hẫng, họ phải
vật vã để kiếm sống. Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng đã ngót nghét bước sang tuổi
năm mươi nhưng vẫn còn phải lận đận bỏ xứ xa quê để “đi tìm việc làm, đi tìm nơi


11


trú ngụ trot cùng của cuộc đời”. Không nhà cửa, không việc làm, không gia đình…
anh lang thang đến vùng đất xa xôi tìm về dĩ vãng. Cái nhức nhối xót xa nhất đối với
người lính khi rời khỏi chiến trường trở về là họ không tìm được việc làm, cảm thấy
bế tắc trong hành trình kiếm kế sinh nhai. Hùng xuất hiện giữa đời thường thật méo
mó, tiều tụy. Anh không còn là anh chàng chỉ huy trinh sát đặc nhiệm cao lớn năm
xưa. Hùng gần cuối đời vẫn không tìm thấy bến đỗ. Anh xa lạ với cuộc sống hiện đại,
ngạc nhiên với những thay đổi trong cơ chế thị trường mà đồng tiền là kim chỉ nam.
Cuộc đời hiện tại đối với anh là những bi kịch nối tiếp nhau nghiệt ngã. Nhưng cuối
cùng anh đã đứng vững, bước qua trạng thái vô cảm, ảo giác trở lại chính mình, một
Hai Hùng một thời ngang dọc. Anh muốn nói: “Cuộc chiến tranh vừa qua đi có thể
là trò đùa nhưng sự mất mát là có thật. Cuộc đời hôm nay có thể chỉ là tấn tuồng
nhưng nỗi buồn không bao giờ là một màn kịch cả”.
Không gian đời tư được tái hiện đã tạo thêm gam màu nhức nhối trong các tác
phẩm. Qua đây, cả Bảo Ninh và Chu Lai đều muốn mang đến cho người đọc cái nhìn
chân thật nhất về con người mà đặc biệt là người lính trong và sau chiến tranh. Qua
đây, nhà văn muốn nói: nỗi buồn, sự mất mát, thua thiệt là những gì mà nhiều người
lính phải đón nhận đằng sau những phút giây chiến đấu dũng cảm và sau khúc khải
hoàn của ngày chiến thắng.
2.2.4. Không gian tâm linh huyền ảo
Sự xuất hiện của không gian tâm linh trong tiểu thuyết chiến tranh ngày nay là
một hệ quả tất yếu của không gian chiến trường, vì sự cực kì khốc liệt của bom đạn
và hình ảnh những cá chết rất gần với lĩnh vực tâm linh. Trên thực tế khi đối diện với
cái chết ở chiến trường, ngoài lòng dũng cảm, bản lĩnh, trí tuệ… người lính còn chiến
đấu bằng cả những tiềm ẩn bản năng không thể giải thích.
Trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh có rất nhiều không gian được phủ
lớp sương huyền ảo. Trước hết đó là không gian tồn tại qua những lời đồn đại, tiếng
sấm truyền và tiên tri – không gian truông Gọi Hồn. Ở đó “Chim chóc khóc than như
người… Đom đóm to kinh dị… có loại măng nhuốm màu đỏ dễ sợ, đỏ au như những
tảng thịt. Theo lời đồn, vào ngày kì lễ lạt nào đó của giới các âm hồn, các toán quân
đã chết của tiểu đoàn lại tụ họp trân trăng để điểm danh. Tiếng suối chảy tràn, tiếng

gió núi hú lên chính là tiếng nói của những hồn hoang binh lính mà người cõi dương
có thể nghe thấy và có thể thấu hiểu. Vùng rừng núi này chứa đựng những huyền
thoại rùng rợn, những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy nhất về cuộc chiến tranh
vừa qua mà “những người yếu bong vía khó sống ở đây”. Truông Gọi Hồn xuất hiện
một loại cây với tên gọi hồng ma. Nó như một liều thuốc an thần đánh lừa cảm giác
và ru ngủ con người trong mộng đẹp: “trạng thái mụ mẫm do khói hồng ma đã từ lán
trung sát lây lan ra khắp trung đoàn”. Người ta cũng nhìn thấy hiều sinh vật lạ:
“Những quái vật long lá có cả cánh lẫn vú với cái đuôi kì nhông kéo lết và họ ngửi
thấy mùi tanh máu từ chúng, nghe thấy chúng ào rú và ca hát”. Những điều tai nghe
mắt thấy ấy đã trở thành điềm trời cảnh báo tai họa khủng khiếp, thảm khốc và đẫm
máu của chiến tranh.


12

Không gian tâm linh, huyền thoại được tái hiện qua những chi tiết vừa hư, vừa
thực và đặc biệt thông qua niềm tin của nhân vật Kiên. Kiên đã bắt đầu tin vào những
bóng ma, tin vào những ngọn gió âm hồn và những lời lẽ thần kì vang lên từ đáy rừng
âm u. Trong đầu anh, “ảo giác và cảnh thực đan xen lẫn vào nhau như hai vòng song
giao thoa trên nền xanh thẫm tối của thảm rừng”.
Không gian tâm linh, huyền thoại không chỉ là không gian đời thực được tô
đậm chất kì bí mà còn nhập vào không gian những bức tranh của cha Kiên. Trong
tranh, “đàn ông, đàn bà, trẻ con nối nhau thành một vòng những hình nhân héo vàng
sống vu vơ giữa miền kí ức không có thật của cuộc đời, mỗi ngày lạc bước ra khỏi
cõi dương không ngoái nhìn lại, và chính cha Kiên là người sau cùng nhập vào đoàn
người ấy”. Từ sắc màu vàng úa là chủ đạo cho đến những hình ảnh trong bức tranh
đều mang một vẻ kì dị, thần bí được vẽ lên từ một người nghệ sĩ “lạc thời và lạc
loài”. Cuối cùng chúng được hỏa thiêu trong nghi lễ “cuồng tín và man rợ”.
Để tái hiện lớp không gian tâm linh huyền ảo, Bảo Ninh đã sử dụng một số
lượng lớn ngôn từ kì ảo, gây ấn tượng mạnh với người đọc. Khi thâm nhập vào không

gian nghệ thuật của Nỗi buồn chiến tranh, cảm giác bị vây bủa, giăng mắc, bị ám
ảnh ban đầu như được gia tăng nồng độ bởi thế giới ngôn từ kì ảo. Bảo Ninh đã liên
tiếp sử dụng những phó từ, trạng từ chỉ tính chất bất thường, hoặc thoắt ẩn, thoắt hiện
của sự việc như “bỗng”, “bỗng dưng”, “tự nhiên”, “đột nhiên”, “chợt”, “bất
chợt”… Thêm vào đó là mạng lưới các từ chỉ cảm giác bất an, nỗi lo âu, sợ hãi, bản
năng của con người: “rùng mình”, “rợn tóc gáy”, “ớn buốt sống lưng”… Theo
thống kê sơ bộ, trong 320 trang của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, có tới 116 lần
Bảo Ninh sử dụng những từ ngữ, hình ảnh tạo không gian rùng rợn, li kì: “Tiếng thở
than buồn thảm của thế giới rừng sâu”, “vời vợi xa xôi và tuyệt vời hư ảo”, “đám
hành khách từ trong mộ bước ra”, “ma cà rồng”, “ảo giác”, “kì quái”, “ma quái”,
“hoang đường”… Những địa danh cũng mang màu sắc kì ảo, ghê rợn: “Truông Gọi
Hồn”, “hồ Cá Sấu”, “đồi Thánh Giá”, “đèo Thăng Thiên”… Thậm chí chỉ trong
một trang (trang 8) xuất hiện hàng loạt các từ ngữ gây ấn tượng và cảm giác mạnh
với một không gian huyền ảo, kì bí: “Thần chết sờ soạng”, “vô khối hồn ma quỷ (…)
lang thang”, “mịt mù lam chướng”, “những kì lễ lạt (…) của các giới âm hồn”,
“cuộc điểm danh của các toán quân đã chết”, “chim chóc khóc than như người”,
“các loại măng đỏ như những tảng thịt ròng ròng máu”, “đom đóm to kinh dị (…)
lớn tày cái mũ cối”, “cây cối hòa giọng với gió rên lên những bản nhạc ma”…
Không gian huyền ảo, đầy ám gợi được sáng tạo đã góp phần khắc họa chân thực hơn
diện mạo tàn khốc của chiến tranh, khiến bất kì ai đã từng tiếp xúc với tác phẩm cũng
sẽ bị “ám ảnh”.
Nếu Nỗi buồn chiến tranh hiện lên với một lớp không gian huyền ảo, kì lạ thì
trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, Chu Lai đã tạo nên một không gian tâm linh huyền
thoại qua việc xây dựng nhân vật Viên với khả năng đoán trước được tương lai, dự
cảm về những điều sắp xảy ra. Nhân vật này còn có khả năng tiên đoán cả những sự
kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Điều này được thể hiện qua lời nhận xét của Hai


13


Hùng: “cậu ta có một thứ linh cảm hay trực giác trận chiến gì đó rất kì quái”. Qua
không gian tâm linh với những lời tiên đoán của Viên, người đọc hiểu rõ hơn về câu
chuyện, về diễn biến số phận cuộc đời của các nhân vật, đặc biệt là hai nhân vật chính
là Hai Hùng và Ba Sương, đồng thời tạo cho tác phẩm sức cuốn hút kì lạ.
Đời sống tâm linh của con người luôn chứa đựng bao điều bí ẩn. Tâm linh đối
lập với ý thức kiểu lí tính thuần túy. Nó bao gồm cái phi lí, cái tiềm thức, vô thức,
bản năng thiên phú… Qua khảo sát trên, có thể thấy Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai đã mở cánh cửa vào thế giới tâm linh, huyền
thoại với những mức độ và biểu hiện khác nhau. Nếu Nỗi buồn chiến tranh lấy
không gian huyền thoại làm nền cơ bản cho những trang viết như bị “thôi miên” của
nhà văn thì Ăn mày dĩ vãng lại đi vào xây dựng không gian tâm linh đặc biệt với khả
năng tiên đoán đặc biệt của nhân vật. Tất cả điều đó cho thấy văn học hôm nay rất
quan tâm đến đời sống tinh thần, những phần trực giác, linh giác, những khả năng bí
ẩn… trong tâm hồn con người, mang đến cái nhìn mới về chiến tranh, về không gian
trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh.
2.3. Những biểu tượng trùng phức và ám ảnh – điểm nhấn của không gian
nghệ thuật trong Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng
Những biểu tượng trùng phức trong Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng
khá phong phú, là điểm nhấn của không gian nghệ thuật trong tác phẩm và tạo nên
sức ám ảnh lớn ở người đọc. Việc lặp lại những biểu tượng này khiến người đọc như
hòa đồng, tri âm cùng câu chuyện trong tác phẩm.
2.3.1. Không gian của những cánh rừng, nấm mộ và bóng đêm
Trong Nỗi buồn chiến tranh, rừng đã trở thành biểu tượng cho không gian
chiến tranh gắn liền với chết chóc, bi kịch, với cuộc đời tăm tối và những huyền thoại
ghê rợn. Nó không mang ý nghĩa “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” mà gợi cảm
giác bị bủa vây, ngột ngạt, hãi hùng về sự mong manh của kiếp người trước cảnh
chiến tranh tàn khốc.
Trong những “cánh rừng chiến tranh” ấy mọc lên không biết bao nhiêu nấm
mồ viễn xứ. Không gian nghệ thuật hiện lên với những nấm mồ đã trở thành biểu
tượng cho sự hy sinh chồng chất mà nhân dân ta phải trải qua trong cuộc chiến tranh

vệ quốc vĩ đại. Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng và Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh
đã không ít lần đắp mồ cho đồng đội. Họ là Viên, là Bảo, là Hai Hợi (Ăn mày dĩ
vãng), là Thịnh “con”, Can…(Nỗi buồn chiến tranh).
Sự tàn bạo và khủng khiếp của chiến tranh càng trở nên rùng rợn hơn khi Bảo
Ninh và Chu Lai thường để cho nhân vật xuất hiện vào ban đêm. Cảnh đêm, dù là ở
những cánh rừng thời chiến hay nơi thành phố thời bình trong Nỗi buồn chiến tranh
và Ăn mày dĩ vãng đã góp phần tô đậm ấn tượng về những chấn thương tinh thần
nặng nề mà người lính phải chịu đựng sau khi ra khỏi cuộc chiến. Nó cũng tô đậm cái
phi lý, quái gở, rùng rợn của chiến tranh, cái u ám bất yên của thời hậu chiến.
*** Khác với Chu Lai, Bảo Ninh còn sử dụng dày đặc các biểu tượng mưa, lửa
để tạo dựng không gian nghệ thuật về nỗi buồn chiến tranh


14

Hình ảnh mưa (mưa ở rừng, ở Hà Nội…) xuất hiện trong tác phẩm nhiều đến
mức trở thành một giai điệu ám ảnh, biểu tượng cho nỗi buồn và cảm giác bị bủa vây,
bị uy hiếp của người lính. Với Bảo Ninh, những cơn mưa như là suối nước mắt của
trời đất và con người trước đau thương chồng chất nơi mặt đất bị bom đạn kẻ thù cày
xới.
Không gian của Nỗi buồn chiến tranh càng trở nên dữ dội hơn qua biểu tượng
lửa – những biển lửa ngùn ngụt, hung tàn, cuồng loạn. Hình ảnh biển lửa đã trở thành
biểu tượng cho sức hủy diệt bạo tàn của kẻ thù. Nó khơi dậy ở người đọc cảm giác
kinh hoàng và niềm thương cảm sâu sắc trước thân phận con người trong bão táp
chiến tranh.
Không chỉ miêu tả những biển lửa do bom đạn, Bảo Ninh còn nhắc tới hình
ảnh bếp lửa. Song bếp lửa không hề gợi không khí ấm cúng gia đình mà càng làm
tăng thêm sự tăm tối và cảm giác đau buồn trong những cánh rừng mênh mông đầy
bom đạn. Hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt những bức tranh của cha Kiên và suýt nữa
thiêu đốt cả cuốn tiểu thuyết còn dang dở của Kiên là những không gian nghệ thuật

với biểu tượng cho nỗi buồn sáng tạo và bi kịch lạc thời của người nghệ sĩ. Còn ngọn
đèn bị bỏ quên trong phòng Phương dường như là một lời trách cứ, một câu hỏi day
dứt về ý nghĩa cuộc đời.
2.3.2. Không gian ngôi nhà – biểu tượng cho niềm khát khao một cuộc sống yên
bình, hợp lẽ tự nhiên
Trong Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng, không gian ngôi nhà xuất
hiện không nhiều nhưng lại trở thành nơi lưu giữ niềm khát khao cháy bỏng của
người lính về một cuộc sống khác cuộc sống chiến trận, cuộc sống tự nhiên mà nhân
loại đang sống.
Ở Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh rất chi tiết khi miêu tả không gian hai ngôi
nhà. Đó là căn nhà của ba cô gái bị bỏ quên giữa rừng và của đôi “vợ chồng trẻ
người Bắc di cư và một đứa con trai nhỏ chừng sáu bảy tuổi” ở vùng thảo nguyên
miền Nam Tây Nguyên.
Trong Ăn mày dĩ vãng, với những người lính, trong suốt quãng đời dài chinh
chiến thì đột ấp là hành động nguy hiểm nhất nhưng cũng đáng mong chờ nhất vì họ
được cảm nhận hơi ấm của những mái nhà.
Không gian nghệ thuật trong Nỗi buồn chiến tranh hiện lên có cả một hệ
thống biểu tượng phong phú (ngoài những không gian nghệ thuật mang tính biểu
tượng vừa điểm còn có thể nói tới không gian Hồ Tây, sân trường, không gian với
tiếng đàn, những bức tranh, người đàn bà câm…). Chu Lai sáng tạo ít không gian
nghệ thuật mang tính biểu tượng hơn và không gian biểu tượng cũng không đa nghĩa
bằng cách mà Bảo Ninh sử dụng.


15

CHƯƠNG 3
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
VÀ ĂN MÀY DĨ VÃNG CỦA CHU LAI

3.1. Khái lược chung về thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Song hành với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học: Thời gian nghệ thuật là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ
thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả,
trần thuật trong văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong
thời gian. Và cái trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời
gian nghệ thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ
thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Cũng giống như không
gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là hình thức tồn tại bên trong của hình tượng
nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Thời gian nghệ thuật không phải là thời
gian khách quan, vận động theo trật tự một chiều, trước sau không thể đảo ngược mà
là thời gian được soi chiếu bởi tư tưởng, tình cảm của nhà văn, được nhào nặn và
sáng tạo trở thành hình tượng nghệ thuật, phù hợp với quan niệm nghệ thuật của nhà
văn về con người và thế giới. Vì thế, thời gian nghệ thuật có thể nhanh hay chậm, dài
hay ngắn, liên tục hay đứt quãng theo một logic riêng không hoàn toàn trùng khớp
với thời gian khách quan.
Trong tác phẩm văn chương, thời gian chỉ trở thành thời gian nghệ thuật khi nó
trực tiếp tác động vào nhân vật, vào môi trường mà ở đó diễn ra số phận của nhân vật
và những biến động của tâm tư, tình cảm của con người. Khi đó thời gian nghệ thuật
cùng với các yếu tố khác như kết cấu, cốt truyện… thể hiện quan niệm của nhà văn
về con người và cuộc đời.
Thời gian trong tác phẩm phụ thuộc vào điểm nhìn của tác giả, vì vậy nó được
sử dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt hơn. Và khác với thời gian khách quan được đo
bằng đồng hồ và lịch, “thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược quay về quá khứ, có
thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài, trong
chốc lát thành vô tận”. Nếu như tác phẩm văn học có khả năng mở rộng tối đa
không gian thì chiều dài của thời gian cũng được mở rộng tới hết chiều kích của nó.
Trong tác phẩm, thời gian hoàn toàn có thể kéo dài từ năm này sang năm khác mà
không gặp phải bất cứ sự cản trở nào. Thời gian nghệ thuật có đặc điểm cấu trúc
riêng. Người ta hay chú ý tới hai yếu tố chính của lớp thời gian, đó là thời gian trần

thuật và thời gian được trần thuật.
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù quan trọng của thi pháp học bởi văn học
là nghệ thuật của thời gian. Thời gian là đối tượng, chủ thể, là công cụ miêu tả, là sự
tự ý thức và cảm giác về sự vận động và thay đổi của thế giới trong các hình thức đa
dạng của tác phẩm. Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học nói chung, trong


16

văn xuôi và tiểu thuyết nói riêng là một yếu tố quan trọng, và là phương tiện hữu hiệu
nhất để tổ chức nội dung của tác phẩm
3.2. Các dạng thức thời gian trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai
3.2.1. Thời gian lịch sử - sự kiện
Nhắc đến thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh ta
nghĩ ngay đến thời gian lịch sử - sự kiện, thời gian ghi lại những mốc quan trọng
trong cuộc đời người lính nói riêng và cả cuộc chiến nói chung. Tiểu thuyết trước
năm 1975 xây dựng trên một nền không gian rộng lớn quen thuộc, gắn với một kiểu
thời gian nghệ thuật mang nét riêng của thời đại. Đó là kiểu thời gian tuyến tính, thời
gian lịch sử - sự kiện. Sau năm 1975, đặc biệt từ khi Đổi mới, cấu trúc, đặc điểm của
thời gian nghệ thuật cũng có sự thay đổi. Xu thế chung là rút ngắn thời gian sự kiện
và kéo dài thời gian hoài niệm, thời gian tâm trạng.
Nỗi buồn chiến tranh viết về lịch sử xã hội và con người Việt Nam khoảng từ
năm 1965 đến những năm 90 của thế kỷ XX, trên dưới 25 năm. Trong tác phẩm này,
thời gian lịch sử - sự kiện mang tính chất hiện thực rõ rệt ở những chỉ dẫn năm tháng
cụ thể: “mùa khô năm 1964”, “mùa mưa năm 1974”, “đêm 29 rạng ngày 30”, “trận
Play – cần năm 1972”, “từ hồi 1973 tới giờ”, “cuối tháng chạp năm 1972”, “thuở
1964 – 1965 đầu thời đánh Mỹ”, “chiều 30 tháng 4”, “mùa khô năm 1972 sau thời
hiệp định”… Dấu vết của thời đại còn được thấy rõ qua chỉ dẫn về mùa màng, địa
danh bên cạnh những chỉ dẫn về giai đoạn mà người đọc có thể đễ dàng suy ra thời

gian cụ thể: “mùa khô đầu tiên sau chiến tranh”, “mùa mưa trước ngày hành quân
xuống cánh Nam”, “tiến đánh Buôn Ma Thuột”, “trong mùa xuân năm ấy”, “một
đêm nọ từ quán rượu ra”…. Đặc biệt, có thể thấy rõ thời gian niên biểu của người kể
chuyện qua những cụm từ như: “Dù sao thì cũng mới chỉ có hai tám năm sống trên
đời”, “ngay cái tuổi bốn mươi ngày nào xa lạ và khó tin biết mấy cũng chỉ còn lại
nốt mùa đông này”, “mùa đông ấy anh vừa đủ 17 tuổi”… Trước và sau những cụm
từ này đều có chỉ dẫn cụ thể về năm tháng. Chính điều đó đã làm cho cuốn tiểu thuyết
mang dáng dấp của tiểu thuyết tự thuật. Những chỉ dẫn về thời gian hiện thực đã làm
tăng tính chân thật và độ tin cậy của nội dung sự kiện trong tác phẩm.
Ăn mày dĩ vãng là câu chuyện kể về người lính tên Hai Hùng 16 năm sau ngày
giải phóng trở lại địa bàn hoạt động cũ để tìm lại những kỉ niệm xưa cũ về đồng đội,
về tình yêu và cũng là để giải tỏa những day dứt trong lòng nhân vật. Đó là những
năm tháng chiến tranh khoảng từ những năm 1968 đến hiện tại - tức mười sáu năm
sau ngày giải phóng. Trong lời kể của nhân vật về những câu chuyện trong chiến
tranh, dù không nhiều nhưng một số mốc thời gian lịch sử cũng đã được nhắc tới, làm
tăng thêm độ tin cậy cho lời kể. Câu chuyện về cái chết đau xót của Bảo - “cậu con
trai mười chín tuổi, e ấp, trắng trẻo và xinh xắn như con gái” được kể lại là “vào
một buổi chiều chiến tranh của mùa khô năm 1968” – năm mà cuộc chiến đang ở độ
cam go, quyết liệt và mất mát vô cùng lớn….. Đó là đội hình quân của Hùng “sau
Tết” (Tết Mậu Thân 1968) “Mười sáu thằng còn lại năm thằng. Năm thằng được bổ


17

sung lên hai mươi nhăm cho hợp tình thế mới. Sau tết, nhìn lại nhìn lui, chỉ còn lại
không đầy một chục? Nhanh thế? Nhiều thế?”. Thời gian lịch sử - sự kiện ở đây được
nhắc tới cho thấy sự thảm khốc, ác liệt và mất mát vô cùng lớn lao mà cuộc chiến
tranh mang lại. Lần theo câu chuyện của Hai Hùng về dĩ vãng, ta còn bắt gặp những
mốc thời gian lịch sử - sự kiện như “cái buổi sáng mùa khô năm ấy,“những ngày sau
Hiệp định bảy ba, là những ngày tột cùng cô đơn và cũng tột cùng khốc liệt với đám

lính bám trụ vùng giáp ranh chúng tôi…”, “Đầu năm 1980, người ta gom về nghĩa
trang liệt sĩ hết trọi…”. Có thể thấy những mốc thời gian lịch sử - sự kiện được hiện
lên làm cho câu chuyện được kể trở nên chân thật, gần gũi và có độ tin cậy cao hơn.
Nó giúp người đọc theo dõi rõ nét hơn diễn biến câu chuyện quá khứ được kể từ nhân
vật chính của cuốn tiểu thuyết.
Ở Ăn mày dĩ vãng mặc dù có đan xen giữa câu chuyện trong quá khứ và câu
chuyện trong hiện tại thì các mốc thời gian nhìn chung vẫn được kể theo trật tự song
hành nhất định, không có sự xáo trộn, rối bời nhiều. Trong khi đó, Nỗi buồn chiến
tranh, mặc dù những chỉ dẫn về thời gian không khó tìm ra nhưng có thể thấy cuốn
tiểu thuyết đã bước đầu biểu thị ý thức đảo lộn trật tự biên niên, phá vỡ cấu trúc thời
gian trong tiểu thuyết để phù hợp với trật tự của những dòng hồi ức miên man, bất
định.
3.2.2. Thời gian đồng hiện
Nỗi buồn chiến tranh không được tổ chức theo trình tự thời gian tuyến tính,
Bảo Ninh đã dùng cách “đảo ngược thời gian, thời gian đồng hiện, hòa trộn thực hư,
hiện tại, quá khứ, tương lai”.
Tác phẩm mang dáng dấp một tiểu thuyết dòng ý thức, toàn bộ câu chuyện
được kể lại theo dòng hồi ức. Ở đó, các ý nghĩ, cảm giác, liên tưởng bất chợt của
nhân vật Kiên “thường xuyên chen nhau, thay nhau và đan bện vào nhau một cách lạ
lùng, không gian, thời gian tự ý khuấy đảo, không kể gì đến tính hợp lý”. Các đoạn
hồi ức thường bắt đầu từ một nguyên cớ hiện tại, nhưng ngay sau đó dòng hồi ức lại
kéo Kiên về quá khứ với những mốc thời gian và khoảng không gian hoàn toàn ngẫu
nhiên, bất định.
Thời gian đồng hiện ở đây đã làm cho mạch văn dịch chuyển một cách gấp
gáp, thậm chí ngắn một cách tùy tiện đã giúp tác giả trình bày hàng loạt những câu
chuyện còn dang dở, những chi tiết bị bỏ lửng... Nó góp phần gợi ra hình ảnh một
hiện thực bị nghiền nát, vỡ vụn, oái ăm và bất trắc.
Ăn mày dĩ vãng sử dụng thời gian đồng hiện với hai cốt truyện đan cài vào
nhau. Truyện thứ nhất là sau chiến tranh mười sáu năm, ở tuổi bốn mươi chín, Hai
Hùng trở lại miền Nam tìm sinh kế. Tình cờ anh gặp một người đàn bà sang trọng,

giám đốc sở Nông lâm, rất giống Ba Sương, người yêu cũ của anh thời chống Mỹ.
Truyện thứ hai là câu chuyện về những năm tháng chiến đấu gian nan và kiêu hùng
của Hai Hùng và đồng đội nơi địa bàn ven đô Sài Gòn cũ khoảng hai mươi năm về
trước. Trong cuộc chiến đấu ấy Hai Hùng và Ba Sương đã gặp, yêu nhau rồi mất
nhau như thế nào.


18

Các chương 1, 3, 5, 7 là câu chuyện của Hai Hùng trong thời gian hiện tại (tính
từ lúc di cư vào Nam đến khi Ba Sương bị chết); các chương 2, 4, 6, 8 là hồi ức của
Hai Hùng về quá khứ chiến tranh; các chương còn lại là sự đan xen giữa quá khứ và
hiện tại.
Nếu như thời gian được nhớ lại của Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng đều rành
mạch, xác thực thì Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh thậm chí không biết mình đi tìm
gì vì anh không còn cảm giác về hiện tại. Ngay cả thế giới xung quanh Kiên cũng
không biết là thật hay ảo. Vì thế thời gian đồng hiện hỗn độn, không theo một chu
trình nào. Và cũng bởi vậy nên ngòi bút của Chu Lai không gây sốc với đọc giả như
Bảo Ninh.
3.3. Cách thức biểu hiện thời gian nghệ thuật tiêu biểu trong Nỗi buồn chiến
tranh và Ăn mày dĩ vãng
3.3.1. Nỗi buồn chiến tranh: Thời gian quá khứ qua dòng kí ức và hoài niệm
Viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ đã trở thành lịch sử, tác giả của Nỗi buồn
chiến tranh không miêu tả chiến tranh như lúc nó đang xảy ra mà như nó hiện ra
trong kí ức, trong suy tưởng. Việc lựa chọn cách trình bày thời gian quá khứ dưới
hình thức kỉ niệm, qua sự nhớ lại, qua dòng kí ức và hoài niệm của người hôm nay
cho phép nhà văn tiếp cận lịch sử tự do hơn, gửi gắm được nhiều hơn ấn tượng, tâm
trạng của mình cũng như những cảm nhận còn lại qua năm tháng
3.3.1.1. Dòng kí ức về những người thân trong gia đình
Ngược dòng quá khứ, hồi ức trở về day dứt, trăn trở trong Kiên. Đó là kí ức về

những người thân trong gia đình, là cha, là mẹ, là dượng, là sự thiếu thốn tình cảm
mãi chẳng được lấp đầy trong lòng cậu bé Kiên trước thời 17 tuổi ấy.
Có thể thấy, hành trình tìm về với kỉ niệm người thân cho thấy bi kịch tuổi trẻ
của Kiên. Bi kịch gia đình, sự không hòa hợp giữa cha và mẹ, sự thiếu thốn tình cảm
ngay từ nhỏ đã khắc thêm dấu ấn cuộc đời anh. Và dường như nó cũng dự báo trước
một số phận đầy sóng gió, bị dập vùi, quăng quật bởi chiến tranh.
3.3.1.2. Dòng kí ức về đồng đội
Hơn chục năm trôi qua kể từ ngày kháng chiến chống Mỹ kết thúc nhưng trong
tâm hồn Kiên dường như cuộc chiến vẫn như đang diễn ra trước mắt. Năm tháng
chiến tranh và những trận đánh, những hi sinh mất mát đã phủ lên trái tim Kiên và
những người như anh trăm nghìn vết sẹo, những vết thương của trái tim vẫn không
thôi rỉ máu. Kiên nhớ về đồng đội không chỉ có những hi sinh mất mát, những vùng
đất “chết” dữ dội, thương đau mà hơn thế còn là vẻ đẹp của con người trong chiến
tranh – vẻ đẹp của tình yêu, của tình người, của tình đồng chí, đồng đội.
3.3.1.3. Dòng kí ức về tình yêu và tuổi trẻ
Trong dòng hồi ức của mình, bên cạnh kỉ niệm về người thân, về những đồng
đội từng “vào sinh ra tử” cùng anh, điều khiến Kiên thấy hoài niệm nhiều nhất là
hình ảnh những người phụ nữ. Có người chỉ thoáng đi qua đời Kiên, có người in đậm
mãi trở thành tình yêu và nỗi nhớ trong anh. Đó là Hạnh, là Lan với kỉ niệm về Đồi
Mơ, mối tình đầu vô danh trên ven đồi trỗi dậy trên đường xa, là Hiền – người chiến


19

binh tàn tật đã sống vội vã với Kiên một đêm cuối cùng, dư âm muộn màng của
những giây phút giã từ cuộc chiến…
Và trở về trong hoài niệm của Kiên nhiều nhất, đầy cháy bỏng, tiếc nuối và đau
đớn là hình ảnh của Phương. Phương gắn liền với kỉ niệm tuổi 17 và kỉ niệm đầy dữ
dội của chiến tranh. Thời gian nghệ thuật giành nhiều trang xúc động để viết về tình
yêu của Kiên và Phương – một thân phận tình yêu thời hậu chiến.

Bên cạnh những người phụ nữ gắn với năm tháng chiến tranh, hi sinh, mất mát
của đời Kiên thì người đàn bà câm lại chính là hầm trú ẩn của anh trong những năm
tháng chới với, hụt hẫng, hoang mang và cô độc nhất.
Theo thời gian nghệ thuật, dòng thác kí ức trong Kiên tuôn chảy mãnh liệt.
Quá khứ ám ảnh, vật lộn tâm hồn Kiên nhưng lại giữ thăng bằng cho cuộc sống hậu
chiến của anh, là điểm tựa để anh không hụt hẫng, không đánh mất chính mình giữa
dòng đời hối hả ngày hôm nay. Theo đó, niềm tin, nuối tiếc, những tấn bi kịch ẩn sau
thời gian nghệ thuật đã tạo thành sự cuốn hút diệu kì cho cuốn tiểu thuyết này.
3.3.2. Ăn mày dĩ vãng: Thực tại ăn mày quá khứ hào hùng trong hành trình đi
tìm dĩ vãng
Với việc đan cài thời gian hiện tại và quá khứ đan xen, Chu Lai đã soi hiện
thực vào quá khứ hào hùng để khắc họa rõ nét hơn, chân thật sống động hơn con
người, cuộc sống trong và sau chiến tranh.
3.3.2.1. Hành trình đi tìm dĩ vãng về đồng đội
Các chương của Ăn mày dĩ vãng cứ đan xen lần lượt hiện tại – quá khứ và cho
người đọc thấy rõ cuộc đi tìm dĩ vãng về đồng đội, về một thời khói lửa mà hào hùng
của người lính trở về sau chiến tranh.
Trong Ăn mày dĩ vãng, người lính tìm về quá khứ vì một lẽ: Chiến tranh dù có
khắc nghiệt nhưng lại là nơi lưu giữ những gì tốt đẹp nhất, đáng tự hào nhất của mỗi
người lính. Ở đó họ mãi mãi được sống trong tình cảm mà cuộc sống thời bình đã mai
một hoặc biến tướng. Họ sẽ trở lại với tình yêu, tình đồng đội – những tình cảm đã
giúp họ vượt qua muôn vàn mất mát của chiến tranh.
Trong suốt thời gian của cuộc hành trình Ăn mày dĩ vãng ta còn thấy tình đồng
đội giữa những người lính thật đẹp biết bao. Trong hành trình đi tìm dĩ vãng này, tình
đồng chí, đồng đội ở những người như Quân, như Tuấn làm người đọc thực sự xúc
động. Nó giúp ta neo giữ niềm tin vào cuộc đời vốn nhiều đa đoan, bất trắc.
Chỗ khác dễ nhận thấy giữa Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng là Bảo
Ninh thì chú trọng thể hiện tình đồng đội trong chiến tranh, còn Chu Lai, trong hành
trình đi tìm dĩ vãng, ông lại đặc biệt tôn vinh tình cảm trong sáng, nguyên vẹn, bất
chấp thời gian và dòng đời dâu bể ở những người lính đã trở lại đời thường.

3.2.3.2. Hành trình đi tìm dĩ vãng về tình yêu
Theo thời gian nghệ thuật, người đọc thấy được những người lính không mất
mạng trong trận mạc nhưng lại mất hết những gì có thể mất trong đời thường, mất
tuổi trẻ, mất tình yêu, mất sự hòa hợp... Hai Hùng từng là người lính dũng cảm, kẻ
thù từng phải run sợ khi nhắc tới anh, nhưng chiến tranh kết thúc, đứng bên bờ vực


20

của tuổi năm mươi mà anh vẫn phải lận đận bỏ xứ xa quê để đi tìm kiếm việc làm,
tìm kiếm tình yêu sau cơn chấn thương tinh thần mà vợ anh gây nên.
Nhân vật muốn đi tìm sự thanh thản của tâm hồn trong cái cái chết của người
con gái năm xưa – người mà anh yêu thương bằng cả trái tim chân thành, người mà
theo như anh nghĩ đã chết vì anh. Tìm ra sự thật mà lòng đau đớn, nhưng dẫu sao
Hùng cũng không phải dằn vặt về quá khứ nữa, lấy lại niềm tin vào cuộc sống, niềm
tin vào chính bản thân mình, yên tâm ở lại mảnh đất năm xưa anh từng chiến đấu.
Qua đây, ta thấy được ký ức về chiến tranh là cái gì đó thiêng liêng và cũng nhiều
day dứt, không thể lãng quên, nó vẫn hằng ngày tồn tại và làm cho người lính phải
không nguôi nhớ về nó.
*** Mối quan hệ giữa không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai
*** Mối quan hệ giữa không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai
Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là hai khái niệm luôn song hành
với nhau tạo ra tính cấu trúc và tính quá trình của tác phẩm, là yếu tố mở ra thế giới
nghệ thuật của nhà văn. Đây cũng là hai yếu tố quan trọng thể hiện khả năng chiến
lĩnh hiện thực của nhà văn đồng thời luôn luôn là những chìa khóa vàng để giải mã
tác phẩm văn học. Nhìn một cách bao quát thời gian và không gian nghệ thuật luôn
có mối quan hệ tương đồng với nhau. Chúng ta khó có thể tìm thấy một không gian
nghệ thuật nào xuất hiện mà không gắn với một thời gian cụ thể nào và ngược lại.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, thời gian nghệ thuật đã trở thành bảo bối trong
tay nhà tiểu thuyết nhằm xâu chuỗi các sự kiện, số phận các nhân vật. Thời gian trong
tác phẩm liên tục có sự đổi chiều: Khi thì ở thời hiện tại, người đọc chứng kiến tiến
độ bản thảo của Kiên: ý tưởng ban đầu, những biến thiên và kết thúc. Có khi thời gian
lại quay về quá khứ với những câu chuyện hãi hùng của chiến tranh, câu chuyện của
mối tình trong sáng nhưng đầy bất trắc của Kiên với Phương. Thời gian trần thuật
luôn có sự xáo trộn: quá khứ - hiện tại – tương lai tạo thành một mũi tên xuyên thấu
tâm hồn Kiên. Trên trục thời gian không ngừng biến thiên ấy, xuất hiện những miền
không gian khác nhau: Không gian chiến trận, không gian thời hậu chiến, không gian
đời tư, không gian tâm linh huyền ảo kì lạ và bí ẩn, vừa như thực vừa như hư cấu tạo
sức cuốn hút mạnh mẽ… Có thể thấy sự khai thác và tổ chức hệ thống không – thời
gian nghệ thuật ở đây luôn diễn ra trong sự phối hợp nhịp nhàng, tự nhiên nhằm tạo
ra môi trường và những mối quan hệ thích hợp đối với từng loại nhân vật. Từ đây con
đường đời đầy đau khổ của nhân vật được hiện ra: (1) Cuộc sống thời thơ ấu với gia
đình và bạn bè; (2) Mối tình trong sáng với Phương thuở còn là học sinh trường
Bưởi; (3) Mối tình bất trắc với Phương trước thềm chiến tranh; (4) Cuộc sống chiến
tranh; (5) Mối tình với Phương sau chiến tranh; (5) Những ngày đi tìm hài cốt đồng
đội; (6) Cuộc sống cô đơn lạc lõng của một cựu chiến binh; (7) Cuộc sống của một
nhà văn phường.


21

Thời gian và không gian nghệ thuật luôn có mối quan hệ song hành, gắn bó
với nhau. Chẳng hạn như trong thời gian chiến trận, không gian được nhớ lại thường
là quãng thời gian êm đềm trước chiến tranh. Trong thời bình, khi không hòa nhập
được với cuộc sống mới, không gian nghệ thuật lại thường là không gian quá khứ
chiến tranh – nơi mà tình đồng đội, đồng chí trở thành bất tử. Trong Ăn mày dĩ vãng
của Chu lai, nhân vật Hai Hùng trong chiến trận là một chiến sĩ kiên trung, dũng cảm
nhưng cũng có lúc lại sợ cái chết đến nỗi muốn trở thành thương binh để được ra

ngoài Bắc. Không gian mà Hai Hùng hướng tới ở đây là không gian thanh bình của
cuộc sống không có khói súng, không có chết chóc… Nhưng khi quay trở về với đời
sống hòa bình thì Hai Hùng lại “ăn mày dĩ vãng” khi nhân vật luôn sống với những
kỉ niệm về quá khứ. Ở đó hiện lên cảnh chiến trận hào hùng với tình đồng đội, tình
đồng chí, với mối tình cô gái tên Ba Sương.
Qua đây, ta thấy được mối quan hệ tương đồng, gắn bó khăng khít giữa không
gian và thời gian nghệ thuật. Điều đó cũng nói lên rằng, khi tìm hiểu không gian và
thời gian nghệ thuật trong một tác phẩm văn học, chúng ta phải luôn đặt chúng trong
mối quan hệ biện chứng với nhau. Từ đó ta mới có thể hiểu đúng và sâu hơn điều mà
tác phẩm và tác giả muốn gửi gắm tới bạn đọc.


22

KẾT LUẬN
Tới nay, Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng đã khẳng định được vị trí
trong lòng độc giả yêu văn chương. Viết về một đề tài quen thuộc, Bảo Ninh và Chu
Lai vừa kế thừa những thành tựu văn học trước đó vừa bổ sung và làm phong phú
thêm truyền thống văn học chiến tranh của Việt Nam. Xuất phát từ số phận con
người, hai nhà văn đã đem đến cái nhìn đa chiều về lịch sử. Bằng kinh nghiệm cá
nhân, Bảo Ninh và Chu Lai hiểu sâu sắc hơn về bộ mặt gớm guốc của chiến tranh, về
những hy sinh chồng chất mà nhân dân ta phải trải qua để có được nền độc lập. Có
thể coi hai tác phẩm là hai bản xô – nát buồn, nhưng là nỗi buồn có khả năng thanh
lọc tâm hồn con người.
Tìm hiểu không gian và thời gian nghệ thuật trong hai tác phẩm lớn đều nói về
chiến tranh là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai,
tác giả nhận thấy sự đặc sắc trong nghệ thuật kiến tạo không gian và thời gian nghệ
thuật, thể hiện đóng góp to lớn của hai nhà văn nhìn từ góc độ thi pháp.
1. Không gian nghệ thuật trong hai tác phẩm của Bảo Ninh và Chu Lai được
phân loại một cách tương đối có: Không gian chiến trường, không gian thời hậu

chiến, không gian đời tư, không gian tâm linh, huyền ảo. Ở Nỗi buồn chiến tranh và
Ăn mày dĩ vãng, có thể thấy Bảo Ninh và Chu Lai đã xây dựng nên một không gian
chiến trường không phải bằng cái nhìn “sử thi” truyền thống mà bằng cái nhìn chân
thực đến trần trụi thô nhám như nó vốn có. Vì thế, không gian chiến trận ở đây thẫm
đẫm bi thương, mất mát. Tuy nhiên, có thể thấy, cùng viết về không gian chiến
trường nhưng tác phẩm của Chu Lai có thiên hướng nhấn vào khả năng chịu đựng và
những khao khát rất con người của người lính để chất vấn cái hiện tại dửng dưng, tàn
nhẫn. Còn tác phẩm của Bảo Ninh nổi rõ tinh thần tự vấn về chính niềm tin quen
thuộc của con người Việt Nam rằng chiến tranh là lò lửa thử vàng, là cơ hội cho
những phẩm chất đẹp đẽ nhất tỏa sáng. Không gian thời hậu chiến cho thấy cái nhìn
chân thật hơn về cuộc sống trong và sau chiến tranh. Chiến tranh khốc liệt còn hòa
bình lại đầy rẫy những phức tạp và toan lo đời thường. Với không gian đời tư, con
người trong tác phẩm của Bảo Ninh và Chu Lai đều được hiện lên với chiều sâu tâm
lý, với cuộc sống đích thực của riêng mình và thật hơn bao giờ hết. Ở Nỗi buồn
chiến tranh, không gian đời tư của nhân vật được hiện lên qua một quá trình tâm lý
phức tạp với nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn tình yêu, nỗi buồn sáng tạo. Trong Ăn
mày dĩ vãng, không gian đời tư hiện lên là những phút giây yếu lòng, chân thật của
người lính trong sự khai thác đến tận cùng chiều sâu tâm lý với cả hai phần sáng và
tối, cao cả và thấp hèn. Sự xuất hiện của không gian tâm linh, huyền ảo trong tiểu
thuyết ngày nay là một hệ quả tất yếu của không gian chiến trường, vì sự cực kì khốc
liệt của bom đạn và hình ảnh những cá chết rất gần với lĩnh vực tâm linh. Trong Nỗi
buồn chiến tranh không gian được phủ lớp sương huyền ảo với số lượng lớn lớp
ngôn từ kì ảo, có khả năng gây ấn tượng mạnh, làm tăng thêm sức ám ảnh và huyền
bí cho không gian nghệ thuật. Khác với Nỗi buồn chiến tranh, Ăn mày dĩ vãng lại


23

tồn tại không gian tâm linh, huyền ảo qua khả năng đặc biệt của nhân vật có “giác
quan thứ sáu” với khả năng đoán trước được tương lai, dự cảm về những điều sắp

xảy ra. Không gian tâm linh, huyền ảo không giữ vai trò chính của hai tác phẩm
nhưng lại đem lại sức hấp dẫn, khơi dậy trí tò mò và phát huy khả năng tưởng tượng
của bạn đọc.
Cả Bảo Ninh và Chu Lai đều chú ý xây dựng những mô hình không gian nghệ
thuật với những hình ảnh trùng phức, tạo điểm nhấn và sức ám ảnh lớn ở người đọc.
Cánh rừng, nấm mộ và bóng đêm là những không gian phổ biến, trở đi trở lại rất
nhiều lần trong Nỗi buồn chiến tranh và Ăn mày dĩ vãng. Khác với Chu Lai, Bảo
Ninh còn sử dụng các biểu tượng mưa, lửa để nói về nỗi buồn chiến tranh. Ở cả hai
tác phẩm, không gian ngôi nhà tuy xuất hiện không nhiều nhưng lại trở thành biểu
tượng cho niềm khát khao một cuộc sống yên bình, hợp lẽ tự nhiên. Có thể nhận thấy
Bảo Ninh có sở trường hơn Bảo Ninh ở phương diện này khi nhà văn đã xây dựng lên
một hệ thống biểu tượng phong phú, tạo điểm nhấn và sức ám ảnh cho không gian
nghệ thuật. Không gian nghệ thuật mà Chu Lai sáng tạo nên ít biểu tượng hơn và biểu
tượng cũng không đa nghĩa bằng cách mà Bảo Ninh sử dụng.
2. Cũng giống như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật cũng là một
phạm trù quan trọng trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn
mày dĩ vãng của Chu Lai. Các dạng thức thời gian trong hai tác phẩm có: Thời gian
lịch sử - sự kiện và thời gian đồng hiện. Thời gian lịch sử - sự kiện đã làm tăng tính
chân thật và độ tin cậy cho các sự kiện trong hai tác phẩm. Đặc biệt ở tác phẩm của
Bảo Ninh ta thấy những mốc thời gian không xuất hiện theo một trật tự tuyến tính mà
theo dòng hồi ức miên man, bất định của nhân vật, bước đầu phá vỡ cấu trúc thời
gian trong tiểu thuyết để phù hợp với trật tự hồi ức. Thời gian đồng hiện đều được
Bảo Ninh và Chu Lai sử dụng trong hai cuốn tiểu thuyết. Bảo Ninh đã dùng cách
“đảo ngược thời gian, hòa trộn hư thực, hiện tại – quá khứ - tương lai” còn Chu Lai
sử dụng thời gian đồng hiện với hai cốt truyện hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau.
Trong khi thời gian được nhớ lại của Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng rành mạch rõ
ràng thì thời gian đồng hiện trong Nỗi buồn chiến tranh có phần rối bời và không
theo một trât tự nào cả. Cách thức biểu hiện thời gian tiêu biểu ở Nỗi buồn chiến
tranh là đi tìm thời gian quá khứ với dòng kí ức và hoài niệm. Đó là dòng kí ức về
những người thân, về đồng đội, về tình yêu và tuổi trẻ. Còn trong Ăn mày dĩ vãng là

cuộc hành trình của thực tại ăn mày quá khứ hào hùng. Đó là cuộc hành trình đi tìm
dĩ vãng về đồng đội, về tình yêu. Qua đây cho thấy kí ức về chiến tranh là cái gì đó
thiêng liêng và thật đáng trân trọng, không thể bị lãng quên.
3. Không gian và thời gian nghệ thuật luôn có mối quan hệ tương đồng. Không
gian nghệ thuật không thể tồn tại riêng lẻ nếu không gắn với một thời gian nghệ thuật
nào cụ thể và ngược lại. Điều này được thể hiện rất rõ nét trong hai cuốn tiểu thuyết
của Bảo Ninh và Chu Lai.
4. Tìm hiểu những độc đáo về Không gian và thời gian nghệ thuật trong hai tác
phẩm lớn đều nói về chiến tranh là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Ăn mày


24

dĩ vãng của Chu Lai, chúng tôi có thêm cơ sở khoa học một lần nữa khẳng định lại vị
trí hàng đầu của hai tác phẩm trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam về đề tài
chiến tranh ở Việt Nam sau năm 1975. Chúng tôi còn nhận thấy có những điểm tương
đồng nhất định và những điểm khác biệt thể hiện sự độc đáo riêng biệt của mỗi nhà
văn. Ở Ăn mày dĩ vãng, không gian và thời gian nghệ thuật xuất hiện ít các biểu
tượng đa nghĩa hơn tác phẩm của Bảo Ninh, thời gian có sự lồng ghép giữa quá khứ hiện tại nhưng nhìn chung vẫn được nhớ lại rành mạch rõ nét trong một cốt truyện
vẫn theo lối truyền thống (gồm thắt nút, cao trào, cởi nút…). Còn trong Nỗi buồn
chiến tranh, Bảo Ninh dường như đã đạt đến trình độ tiểu thuyết hiện đại của thế
giới khi xây dựng những mô hình không gian nghệ thuật sống động, dày đặc các hình
ảnh biểu tượng đa nghĩa, khi biểu hiện tài tình sự rối bời, hỗn độn của thời gian nghệ
thuật theo “dòng ý thức” vô cùng phức tạp, đầy bất ngờ, chập chờn giữa hai bờ hư
thực, giữa quá khứ và hiên tại của kiểu nhân vật ghép mảnh.
“Tiểu thuyết là một thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn
chưa định hình” (M. Bakhtin). Trong những cách tân nghệ thuật gần đây, phạm trù
không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật được coi là một trong những yếu tố
quan trọng, góp phần hoàn thiện hơn thể loại tiểu thuyết cũng như mang đến cho thể
loại này tính hiện đại. Chính vì thế, việc nghiên cứu tìm hiểu không gian nghệ thuật

và thời gian nghệ thuật trong hai cuốn tiểu thuyết nói riêng và trong văn học nói
chung là hết sức cần thiết giúp chúng ta có những chiếc chìa khóa vàng đi vào giải
mã những tác phẩm văn học đầy thú vị, hấp dẫn. Qua đây, tác giả luận văn cũng
muốn góp thêm tiếng nói khẳng định công lao to lớn của Bảo Ninh và Chu Lai trong
hành trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, đồng thời đưa nền văn học dân tộc
hòa mình vào dòng văn học hiện đại của thế giới.



×