Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.28 KB, 30 trang )

Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

 Lời nói đầu
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, kinh tế
Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, đời sống người dân ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên bên cạnh đó có những mặt trái như khai thác không hợp
lý tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm nguồn nước, các tệ nạn xã hội xảy ra
nhiều…làm hạn chế sự phát triển bền vững của đất nước.Vì thế một mặt cần
phải kìm giữ sử dụng tài nguyên, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường và phá hủy
môi sinh, giảm thiểu rác thải.
Mặt khác, số dân đói nghèo gia tăng, việc tiêu dùng và sản xuất để thỏa
mãn các yêu cầu căn bản, bảo vệ và nâng cao nhân phẩm. Để thực hiện được
điều này đòi hỏi chúng ta phải tìm ra nguyên nhân để tìm ra những giải pháp
khắc phục nhằm hạn chế nó. Phát triển bền vững nhằm thỏa mãn yêu cầu căn
bản của con người là lương thực, nước sạch, nhà ở, sức khỏe, giáo dục, an
sinh, phúc lợi, quyền phát biểu, quyền tham gia,… và nhiều nhu cầu tinh thần
và vật chất khác. Nhưng việc sử dụng và đáp ứng các nhu cầu này có hiệu quà
và có bảo đảm được ai cũng sử dụng được hay không? Và khi nói đến vấn đề
này ta nghĩ ngay đến sự bình đẳng và bất bình đẳng. Trong xã hội tồn tại rất
nhiều loại cơ bản nhưng dù là loại hình nào cũng xuất phát từ con người và
nghiệm trọng nhất là sự bất bình đẳng về giới, nó ảnh hưởng sâu sắc đến sự
phát triển bền vững của xã hội. Để có thể tiến đến những quy mô của bất bình
đẳng giới lớn hơn nhóm chúng tôi đã bước đầu đi tìm hiểu bất bình đẳng giới
trong phạm vi gia đình.
Qua bài báo cáo nhóm đã có nhiều nỗ lực nhưng chắc chắn không
tránh khỏi thiếu sót, mong cô nhận xét góp ý để bài làm của nhóm được hoàn
thiện hơn.


Chân thành cám ơn!

Trang 1


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình
GVHD: Trần Thị Minh Phương

DANH SÁCH NHÓM 5

Trang 2

Nhóm 5


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

I. CÁC KHÁI NIỆM
1. Khái niệm bất bình đẳng
Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích
đối với những cá nhân khác nhau trong nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội. Bất bình
đẳng không tồn tại một cách ngẫu nhiên mà là một hiện tượng xã hội phổ biến
mang tính tất yếu do yếu tố cơ cấu xã hội và lãnh thổ tạo ra. Nó có nguồn gốc khi
một số cá nhân (một số nhóm XH) có đặc quyền kiểm soát và khai thác một số cá
nhân (một nhóm XH) khác trong 1 số lĩnh vực chủ yếu của XH nhằm chiếm lấy
đặc quyền và đặc lợi của XH.


2. Khái niệm giới
Giới là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và
phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới
các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay
đổi được theo thời gian, theo hoàn cảnh kinh tế và xã hội.
Vai trò giới bao gồm:
- Vai trò sản xuất bao gồm các công việc nhằm tạo ra thu nhập bằng tiền hoặc hiện
vật để tiêu dùng hoặc trao đổi.

Trang 3


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

- Vai trò tái sản xuất: bao gồm trách nhiệm sinh đẻ, nuôi con và những công việc
nhà cần thiết để duy trì và tái sản xuất sức lao động.
- Vai trò cộng đồng: bao gồm các công việc thực hiện ở ngoài cộng đồng, nhằm
phục vụ cho cuộc sống chung của mọi người.
Vậy vai trò giới là các công việc mà phụ nữ và nam giới thực hiện với tư cách là
nam hay nữ. Nam và nữ đều tham gia thực hiện cả 3 vai trò trên. Tuy nhiên có sự
khác biệt:
- Tính chất và mức độ tham gia của nam và nữ không như nhau trong công việc.
Nếu như phụ nữ làm hầu hết làm hầu hết công việc sinh đẻ, chăm sóc, nuôi dưỡng,
nội trợ, tiếp phẩm thì nam giới không được trông đợi làm việc đó, họ cho rằng
mình trợ giúp phụ nữ mà thôi.

- Công việc của nam giới thường được xem trọng hơn công việc của phụ nữ. Thật
không công bằng nếu cho rằng, việc sinh đẻ của phụ nữ tạo ra một sản phẩm cao
quý, đó là con người là việc không quan trọng, nó là công việc mang tính bản năng
bấy lâu của động vật.
- Cơ hội và điều kiện thăng tiến của nam giới bao giờ cũng tốt hơn phụ nữ.
Vai trò giới hiện nay không bình đẳng do quá trình dạy và học trong xã hội bất
bình đẳng mà có, nó phụ thuộc vào điều kiện xã hội, nó phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, văn hóa, thể chế chính trị. Vai trò giới đã và đang có nhiều thay đổi,
nhưng khi thay đổi người ta còn chịu ảnh hưởng của các định kiến giới.
Định kiến giới là nhận định của mọi người trong xã hội về những gì mà phụ
nữ và nam giới có khả năng và các loại hoạt động mà họ có thể làm với tư cách họ
là nam hay nữ. Có nhiều biểu hiện khác nhau của định kiến giới song phổ biến hơn
cả là những quan niệm về đặc điểm, tính cách và khả năng của phụ nữ và nam
giới. Ví dụ nam giới thì mạnh mẽ, độc lập quyết đoán, phụ nữ thường rụt rè, tình
cảm, bị động….
Định kiến giới có tác động xấu về vị trí, thái độ và những hoạt động của nam và
nữ, đặc biệt là hạn chế những mong muốn, dự định phát triển cá nhân và cả việc
đón nhận những cơ hội và điều kiện phát triển, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Trang 4


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

3. Khái niệm bất bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới là sự phân biệt đối xử về giới. Nam giới và nữ giới không có
cơ hội như nhau trong mọi lĩnh vực như: phát triển kinh tế- xã hội, phát triển các

nguồn nhân lực, phân công lao động... Bất bình đẳng đã không chỉ xảy ra trong xã
hội mà còn xảy ra trong gia đình, giữa những người có quan hệ đặc biệt hoặc ruột
thịt với nhau. Các nhà nữ quyền đã cho rằng, bất bình đẳng giới là dạng bất bình
đẳng đầu tiên nhưng được phát hiện và đề cập tới muộn nhất trong xã hội loài
người. Bất bình đẳng giới là sâu sắc nhất vì nó tồn tại trong cả xã hội và gia đình.
Chính tình yêu đã che mờ các dạng bất bình đẳng trong gia đình, nó khiến cho
người ta không dễ nhận ra và cũng không dễ giải quyết như các dạng bất bình
đẳng khác là dùng đấu tranh vũ trang hoặc hòa đàm.

4. Bất bình đẳng giới trong gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành
viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan
hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm
đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để thực hiện tính tất
yếu của xã hội về tái sản xuất con người.
Bất bình đẳng giới trong gia đình là các thành viên trong gia đình không có
quyền và nghĩa vụ như nhau trong sở hữu tài sản chung, không có sự công bằng
trong việc sử dụng các nguồn thu nhập cũng như phân công lao động không có sự
công bằng, các thành viên trong gia đình không có được các cơ hội và điều kiện
tham gia các hoạt động như nhau. Hiện tượng bất bình đẳng trong gia đình thường
được biểu hiện qua các hành động bạo lực gia đình là chồng đánh vợ hoặc vợ đánh
chồng, có thể là bạo lực về tinh thần của các thành viên trong gia đình, sự thiên vị
trong cách đối xử….
Bạo lực gia đình là theo khoản 2 Điều 1 của luật phòng chống bạo lực gia đình
quy định: Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại
hoặc có khả năng tổn hại về thể chất, tinh thần và kinh tế đối với các thành viên
khác trong gia đình.
Trang 5



Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

II. HIỆN TRẠNG BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
1. Bất bình đẳng giới trong việc đối xử giữa các thành viên trong gia
đình
Đời sống của mỗi cá nhân luôn được bắt đầu trước hết từ phạm vi gia đình và
suốt cuộc đời họ, gia đình là môi trường đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu gia
đình được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi là hạt nhân của tế bào
này. Đồng thời, gia đình là nơi thể hiện thực chất sự bình đẳng và nâng cao địa vị
của người phụ nữ. Tuy nhiên trong xã hội hiện lúc bây giờ thì vẫn còn tình trạng
bất bình đẳng về các mặt, từ bất bình đẳng về thu nhập, bất bình đẳng về việc làm,
bất bình đẳng về kinh tế, bất bình đẳng trong phân công lao động, bất bình đẳng
giới trong gia đình…và đặc biệt là bất bình đẳng giới gây nên một sự ảnh hưởng
vô cùng lớn cho xã hội.
Hiện nay tình trạng bất bình đẳng giới xảy ra ở mọi nơi, mọi lĩnh vực, đâu đâu
ta cũng có thể bất gặp được những sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Tuy xã hội
hiện nay đang hướng đến xây dựng một “xã hội bình đẳng, văn minh, hạnh phúc”
nhưng vẫn không thể nào cải thiện được tình trạng bất bình đẳng này khi mà cái
gốc rễ truyền thống “trọng nam, khinh nữ” vẫn còn ăn sâu vào người dân. Một
điển hình rõ nét nhất là “sự bất bình đẳng giới trong gia đình”.
Quan niệm về bất bình đẳng giới đã có từ rất lâu trong xã hội, chủ yếu là sự
phân biệt giữa nam giới với phụ nữ, có quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” người con gái bị coi rẻ giá trị của mình. Đây là quan niệm xa xưa nhưng ngày
nay vẫn bị ảnh hưởng. Chính điều này đã đẩy chị em vào vị trí yếu thế, phụ thuộc
vào nam giới trong tất cả các hoạt động: kinh tế, văn hoá, giáo dục, chính trị và cả
trong gia đình. Vì vậy, nạn nhân chủ yếu của bạo lực gia đình là phụ nữ, trẻ em

(chiếm hơn 75%). Năm 2008 điều tra về tình hình bạo lực gia đình có 1.478 vụ
(thể hiện trên 9 dạng bạo lực) đã có 1.219 vụ chiếm 82% số vụ do người chồng
gây ra đối với vợ con. Trong đó có những vụ gây bất bình dư luận xã hội như: vụ
chồng nhốt vợ vào cũi nuôi chó ở xã Song Khê (Yên Dũng); đuổi vợ ra khỏi nhà

Trang 6


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

vào đêm giáp Tết Nguyên đán ở xã Hương Vĩ (Yên Thế); nhốt vợ dùng điếu cày
đập vào đầu dẫn đến tử vong ở Mi Điền, xã Hoàng Ninh (Việt Yên); bắt vợ phải
quan hệ tình dục theo sở thích điên dại ở xã Quý Sơn (Lục Ngạn)… và nhiều vụ
việc khác liên quan đến bất bình đẳng như không cho vợ tham gia các hoạt động
xã hội, chính trị tại địa phương.
Từ xưa đến nay phụ nữ luôn được xem là thụ động, là yếu đuối là phụ thuộc , là
liễu yếu đào tơ, nam giới là độc lập, mạnh mẽ, có năng lực và là người ra quyết
định; chồng có quyền dạy vợ, vợ phải nghe theo chồng; do quan niệm nam là trụ
cột trong gia đình nên có quyền quyết định những việc lớn quan trọng trong gia
đình, nữ có trách nhiệm nuôi dạy con cái, nội trợ trong nhà; nam giỏi việc xã hội,
nữ phải giỏi việc nhà.
Định kiến như trên, đã gây nhiều tác động tiêu cực đến cơ hội, khả năng phát
triển của phụ nữ trong công việc xã hội và nhất là trong đời sống gia đình. ở
những gia đình có sự phân biệt, coi trọng nam giới hơn nữ giới thì gia đình đó
dành nhiều sự quan tâm, chăm sóc về mọi mặt cho bé trai, nhiều hơn bé gái. Do đó
khi trưởng thành, các em trai thường có điều kiện tham gia vào đời sống kinh tế,

chính trị, xã hội tốt hơn các em gái, nhất là giáo dục, nữ giới ít được học cao hơn
nam giới,mặc dù năng lực của nữ giới không thua kém. Những suy nghĩ, cách
hành xử, sự dạy dỗ có liên quan đến phân biệt, định kiến giới của ông bà, cha mẹ,
anh chị, chính là những yếu tố ảnh hưởng lớn tới việc hình thành quan niệm về
giới của mỗi thành viên trong gia đình. Một thực trạng cho thấy nhiều gia đình
quan niệm rằng con gái là con người ta dù học cao đến mấy rồi cũng lấy chồng, bố
mẹ không được trả công nên không co con gái đi học mà cho học hết cấp 3 là phải
nghỉ học, thậm chí chỉ cho học đến cấp hai là phải bỏ học. Trong khi đó khuyến
khích con trai học cao hơn. Vì thế khả năng xã hội hóa của nữ giới bị hạn chế rất
lớn so với nam giới.
Đây là bài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình:
“Thống kê của Viện Xã hội học, Viện KH-XHVN 25/02/2006: Việt Nam có đến
66% các vụ ly hôn liên quan đến bạo hành gia đình. 5% phụ nữ được hỏi thừa
Trang 7


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

nhận bị chồng đánh đập thường xuyên. 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành
phố có xảy ra bạo lực. Tỷ lệ phụ nữ bị ngược đãi trong những gia đình khá giả ở
mức cao76%” . Bất bình đẳng giới chưa có hồi kết khi mà trách nhiệm của phụ nữ
đối với gia đình và con cái vẫn rất nặng nề; tình trạng thiếu máu diễn ra phổ biến ở
bà mẹ mang thai; nạn bạo hành, phân biệt đối xử tồn tại trong mọi tầng lớp dân cư;
cơ hội học tập, vay vốn làm ăn, thăng tiến, kể cả mức lương của chị em vẫn thua
xa so với nam giới. Trong cuộc sống gia đình ta bắt gặp những hình ảnh thể hiện
rõ nét về bất bình đẳng như: "Nếu ai đó có dịp chứng kiến một người chồng ở

miền Tây Nam Bộ nhậu say rồi trói vợ vào cột nhà đánh, mới thấu hiểu vì sao mơ
ước lấy chồng ngoại, chồng Việt kiều lại có ở nhiều cô gái xứ này đến thế. Nếu
nhìn cảnh những người phụ nữ ở Hà Tây dậy từ 4 giờ sáng đạp xe đạp cách 30 km
về Hà Nội bán hàng rong, đến 6 giờ tối về nhà là "đâm sầm" vào bếp rơm nấu cám
heo, trong lúc ông chồng đi đánh tổ tôm thì mới thấy việc các cô gái sẵn sàng chịu
khổ, chịu nhục ở xứ người để lấy ít tiền cho mẹ mình đỡ bị cha đánh cũng không
có gì là lạ. Bạo lực phụ nữ - về cả thể xác và tinh thần - vẫn diễn ra một cách dai
dẳng và công khai ở xã hội Việt Nam, nhất là nông thôn (điều này đã được truyền
thông nhiều lần nhắc đến). Gánh nặng âu lo đặt quá lên vai phái nữ, khi mà họ quá
ít sức lực (theo nghĩa đen và nghĩa bóng). Thói quen cho mình quá nhiều đặc
quyền trong lúc không tự gán cho mình những trách nhiệm tương đương của đàn
ông... "và" Các nhà hoạt động xã hội cho rằng, cả tin là nguyên nhân khiến chị em
phụ nữ rơi vào tay bọn buôn bán người. Nhưng nếu không quá bất hạnh, không
phải sống trong địa ngục gia đình thì người phụ nữ không dễ bị dụ dỗ như vậy.
Chính sự trọng nam khinh nữ, tư tưởng phân biệt giới khiến chị em bị đối xử tệ
bạc, bị rẻ rúng, bị tổn thương nặng nề, do đó chị em luôn mong muốn thoát khỏi
tình trạng này. Và thật dễ hiểu khi họ mù quáng tin theo người sẵn sàng chia sẻ,
hứa hẹn giúp đỡ họ. Có lẽ không ai bỏ nhà ra đi khi họ được sống trong một gia
đình hạnh phúc. Mặc dù hiện tượng bất bình đẳng giới đã được nói đến rất nhiều,
nhưng đâu đó tình trạng này vẫn tái diễn và gây nên hậu quả quan trọng, tiếp tay
cho nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em."
Trang 8


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương


Việc đối xử của cha mẹ đối với con cái cũng thể hiện được sự bất bình đẳng:
"Nhiều bậc cha mẹ đã bộc lộ sự khát khao có con trai của họ đến mức nạo phá
những bào thai bé gái hoặc có những người vợ đã lén lút cưới vợ lẽ cho chồng.
Hậu quả đưa đến khá nghiêm trọng: có người chồng khi có vợ lẽ thì yêu chiều và
hắt hủi người vợ cả. Dường như tâm lý muốn có con trai để nối dõi tông đường
vẫn là tâm lý ăn sâu bám rễ ở mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là những người
dân vùng nông thôn, những dân tộc vùng sâu vùng xa nhận thức còn thấp kém.
Cũng xuất phát từ nguyện vọng muốn có con trai mà trong một cuộc điều tra xã
hội học ở Hà Nội có 2/3 số người được hỏi đã nêu nguyện vọng muốn sinh con thứ
ba. Số bé trai mới sinh là 289.126 em và bé gái là 216.585 em, tỷ số giới tính là
110,8 nam/100 .Điển hình là Thái Bình: tỷ số 120 nam/100 nữ; Kon Tum: 124
nam/100 nữ; Trà Vinh: 124 nam/100 nữ; Kiên Giang: 125 nam/100 nữ, An Giang:
128 nam/100 nữ; Sóc Trăng: 124 nam/100 nữ... " Ngay từ kết quả Tổng điều tra
Dân số năm 1999 cũng đã có dấu hiệu mất cân đối giới tính trên phạm vi cả nước,
đặc biệt ở 16 tỉnh, thành phố có tỷ suất vượt quá ngưỡng tự nhiên (106 nam/100
nữ).”
Theo báo cáo gần đây nhất của Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em Việt Nam,
từ đầu năm đến nay, ở nước ta đã có hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã khiến số nam giới nhiều hơn nữ giới và điều
này cho thấy rằng cách nhìn nhận về người phụ nữ của chúng ta vẫn chưa được cải
thiện hoàn toàn. Bình đẳng nam nữ đang thực sự là một cuộc cách mạng khó khăn
và lâu dài vì sự hạ thấp, khinh miệt đối với phụ nữ đã tồn tại từ hàng nghìn năm
nay. Ban Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ (TP HCM) khẳng định, hiện tượng sản phụ
sinh bé trai nhiều hơn sinh bé gái là có thật. Số liệu ghi chép tại bệnh viện này cho
thấy trong 9 tháng đầu năm 2005, có 33.223 trẻ ra đời. Trong đó, có 17.410 (chiếm
52,4%) trẻ trai và 15.813 trẻ gái (chiếm 47,6%). Tại Bệnh viện Phụ sản Hùng
Vương (TP HCM), từ đầu năm đến nay có 19.921 trẻ sơ sinh ra đời. Mặc dù không
có số liệu thống kê cụ thể nhưng theo nhận định của lãnh đạo bệnh viện này thì
hiện tượng bé trai ít hơn bé gái là có thật. Và khi Việt Nam đứng thứ 89/143 trong
Trang 9



Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

cuộc điều tra về chỉ số phát triển giới, khi Việt Nam còn 70% dân số làm nông
nghiệp, với mặt bằng dân trí thấp, có thể kết luận về tình trạng bất bình đẳng là
phổ biến.
Công tác bình đẳng giới của Việt Nam so với thế giới thì đứng ở mức trung
bình, hơn rất nhiều các nước hồi giáo và châu Phi, nhưng lại chậm so với các nước
phát triển. “Theo đánh giá hàng năm của Liên Hợp Quốc, Việt nam nhiều năm liền
là nước có chỉ số Bình đẳng giới ở mức trung bình. (Năm 2004, xếp hạng bình
đẳng giới của Việt nam là 87 trên tổng số 144 quốc gia được xếp và hiện nay đang
đứng thứ 42/128 quốc gia). Đây là mức chưa đủ để hỗ trợ phát triển kinh tế hướng
tới mục tiêu “dân giàu nước mạnh” và tạo ra “xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh”. Uỷ ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ cho biết, lĩnh vực phụ nữ chịu
bất bình đẳng nhiều nhất là Phân công lao động trong gia đình. Phụ nữ Việt Nam
ngày nay vẫn chịu trách nhiệm chính trong các công việc gia đình. Theo thông báo
chính thức của Ủy ban Quốc gia vì sự Tiến bộ của Phụ nữ, thời gian lao động của
nữ giới thường cao hơn nam giới 3-4 tiếng mỗi ngày. Khoảng thời gian vượt trội
này chính là công việc nội trợ không tên và không được trả công. Ở vùng nông
thôn và miền núi, nơi dân trí thấp, phụ nữ dân tộc thiểu số còn phải làm việc quần
quật từ 5h sáng đến 11-12h đêm. Phân chia bất hợp lý công việc nội trợ làm người
vợ mệt mỏi, thay đổi tính cách theo chiều hướng xấu, giảm tình yêu đối với chồng,
không có đủ thời gian để chăm sóc bản thân, theo đuổi những sở thích và phát
triển nghề nghiệp chuyên môn. Về phía các ông chồng, họ trở nên ích kỷ, ỷ lại,
chán vợ, có quá nhiều thời gian rảnh rỗi để đi tìm những thú vui riêng, những cuộc

tình ngoài luồng làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình. Nguy hiểm hơn là điều này duy
trì tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, cản trở mục tiêu bình đẳng giới của quốc gia.

2. Bất bình đẳng trong việc phân chia lao động trong gia đình
Bên cạnh đó để có thể tìm hiểu rõ thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình
hiện nay thì đã có nhiều nhà nghiên cứu đi vào nghiên cứu những vấn đề về gia
đình và giới có liên quan đến bất bình đẳng giới trong gia đình. Bằng phương pháp
điều tra thống kê xã hội học, thông qua hệ thống câu hỏi phỏng vấn trên 15 xã, 06
Trang 10


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

huyện , 15 cơ quan, 500 hộ nông nghiệp, 350 hộ gia đình công nhân viên chức lao
động và 150 hộ tiểu thương tại tỉnh Bình, đề tài đã đưa ra 16 nhận xét phán ánh thực
trạng chung (cho cả ba đối tượng gia đình) về bình đẳng giới. Trong đó, tập trung nhận xét sau:
người đứng tên giấy sử dụng đất canh tác, nhà ở chủ yếu là nam giới. Cả phụ nữ và nam giới
đều đóng góp công sức vào các hoạt động tạo thu nhập của hộ gia đình nhưng nữ đóng góp
nhiều hơn nam. Phụ nữ đóng góp công sức vào hoạt động tạo thu nhập nhiều nhưng đóng góp
bằng tiền mặt ít hơn. Biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Phụ nữ tham gia các hoạt động cộng
đồng, các lớp tập huấn không nhiều. Họ cũng là người quản lý tiền mặt của gia đình nhưng
quyền quyết định những khoản chi tiêu lại thuộc về nam giới. Quyền quyết định những vấn đề
quan trọng trong gia đình vẫn là nam giới, trong các hộ gia đình, phụ nữ có thời gian nghỉ ít hơn
nam.“Nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới trong tổ chức cuộc sống gia đình ở Bình Định Thực trạng và giải pháp” của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thụy, Hội Liên hiệp Phụ nữ Bình Định
thực hiện trong năm 2002- 2003.


III. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG GIA ĐÌNH HIỆN NAY
Bất bình đẳng giới trong gia đình xuất phát từ những nguyên nhân sau:

1. Định kiến xã hội
Vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến gia trưởng cùng sự biến đổi chậm
chạp của ý thức xã hội, các thiên kiến về giới bám rễ lâu đời trong một số tầng lớp
nhân dân, do việc xem trọng gia đình của người phụ nữ và hầu như nam giới chưa
thay đổi quan niệm trụ cột của mình với gia đình. Chính họ đã tự đặt cho mình
trọng trách lớn, phụ nữ còn tự ti luôn nghĩ mình là người hỗ trợ cho vai trò trụ cột
của chồng. Đối với những gia đình nông thôn, sự chuyển dịch nhân công lao động
từ nông thôn ra thành thị (thường diễn ra với nam) đã làm cho những người phụ
nữ ở lại địa phương thêm gánh nặng: đảm nhận cả lao động sản xuất lẫn việc nội
trợ . Những định kiến giới được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã ăn sâu
Trang 11


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

vào tiềm thức của mỗi con người ở các vùng, miền, dân tộc với các mức độ khác
nhau. Mặc dù phụ nữ Việt Nam tham gia tích cực vào lực lượng lao động nhưng
vẫn còn tồn tại những bất bình đẳng đáng kể về tiếp cận các cơ hội kinh tế, thu
nhập, những bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục và đào tạo, việc tiếp cận các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, quá trình ra quyết định...Điều đó cũng có nghĩa là các
thành quả của phát triển chưa được phân chia bình đẳng giữa nam và nữ. Trong
gia đình, tư tưởng đề cao vai trò của người đàn ông, hạ thấp vai trò, vị thế của

người phụ nữ là phổ biến. Quan niệm chung của nhiều người là người chồng lãnh
đạo là lẽ đương nhiên. Nhiều người cho rằng, những việc nội trợ là việc nhẹ, vì
vậy người chồng là người chủ chốt kiếm ra tiền thì họ phải là người chủ gia đình.
Với nhận thức như vậy, có thể thấy rằng sự phân công lao động bất bình đẳng
trong chia sẻ việc nhà, tham gia các hoạt động xã hội, chăm sóc con cái và các
thành viên khác trong gia đình, cũng như sự bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận
giáo dục và phân chi tài sản giữa con trai và con gái.... Vì thế, người phụ nữ phải
đảm đương, quán xuyến quá nhiều việc. Họ vừa phải tròn vai công việc xã hội
trong khi vẫn phải hoàn thành tốt thiên chức của người vợ, người mẹ trong gia
đình. Nam giới được tạo nhiều điều kiện, cơ hội phát triển hơn và tự cho rằng
mình có cả quyền “dạy vợ, con” theo mọi cách. Điều này đã làm cho phụ nữ trở
thành nhóm có nguy cơ bị bạo lực gia đình hay nói cách khác bất bình đẳng giới
trong gia đình.

2. Trình độ học vấn
Nó cũng góp phần quan trọng trong việc tạo quyền quyết định cho nam hay nữ.
Trong xã hội thời nay những người phụ nữ không có nhiều trình độ văn hoa thì
thường sẽ bị những người đàn ông đàn áp và xem rẽ. Họ sẽ không có nhiều tiếng
nói trong gia đình, những ý kiến của họ không được mọi người trong gia đình tôn
trọng và lắng nghe. Và những người phụ nữ có trình độ học vấn cao, họ có vị trí
trong xã hội cùng với việc làm tăng thu nhập thì đồng thời cũng khẳng định được
Trang 12


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương


vị trí của họ trong gia đình. Nếu trong gia đình cả hai vợ chồng có học vấn cao thì
sự bàn bạc, thỏa thuận chiếm tỷ lệ lớn, ngược lại người vợ có trình độ thấp thì
quyền quyết định mọi mặt chủ yếu vẫn là chồng.

3. Các tệ nạn xã hội
Người chồng hay người vợ bị lâm vào các tệ nạn xã hội như Ma túy, cờ bạc,
rượu chè,….Người đàn ông thường xuyên say rượu dẫn đến nhận thức kém đi,
luôn gây gắt với vợ con. Đặc biệt là có hành vi la mắng và đánh vợ khi đang trong
cơn say, người vợ phải cam chịu các trận đòn của chồng. Bên cạnh đó cũng có
những người vợ không thể chịu đựng được nên đã vùng lên, nhưng rồi qua cơn say
đâu cũng lại vào đấy, người chồng vẫn không thay đổi hành vi của mình. Họ chỉ
có thể đối xử tốt với vợ con khi họ đang tĩnh táo không có men nhưng khi họ trong
cơn say thì việc làm chủ hành động và lời nói không phù hợp. Một trường hợp nữa
là nạn cờ bạc khiên người đàn ông phải kiếm tiền để chơi và khi hết tiền họ sẽ lấy
ở đâu?, chắc chắn họ sẽ tìm đến vợ, sự không công bằng ở đây là người vợ làm
còn người chồng thì đi đánh bạc. Ngược lại, nếu người vợ tham gia vào các tệ nạn
đó thì họ sẽ bị người chồng trách mắng và có khi dẫn đến bạo lực. Nhưng đều đó
không phải là cho phép người đàn ông và người phụ nữ có sự tham gia vào các
hoạt động tệ nạn xã hội ngang nhau mà là cần có sự hiểu biết về bình đẳng giới
trong gia đình, tránh xa các tệ nạn xã hội để có thể bảo đảm sự phát triển bền vững
cho gia đình.

4. Kinh tế gia đình
Kinh tế gia đình cũng là một nguyên nhân gây nên bất bình đẳng giới trong gia
đình. Các cặp vợ chồng trong cuộc sống gia đình thường quan niệm rằng ai là
người mang lại nguồn thu nhập chính cho gia đình thì sẽ là người nắm giữ tất cả
quyền hành trong gia đình từ việc lớn đến việc nhỏ. Như thế người vợ sẽ luôn là
người thiệt thòi, vì đa số là các ông chồng được xem là trụ cột về nguồn tài chính

Trang 13



Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

của gia đình, người vợ cũng mang lại thu nhập nhưng vẫn được xem là nguồn thu
nhập nhỏ và chỉ là phụ thêm người chồng mà thôi. Đồng thời trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp của phụ nữ nông thôn còn thấp so với nam giới nên ít có
điều kiện và cơ hội tìm kiếm việc làm có thu nhập cao để có thể độc lập, tự chủ về
kinh tế, từ đó mới có quyền quyết định trong gia đình Cho nên, người vợ không
có quyền gì trong gia đình mà mọi việc nhỏ việc to phải nghe theo lời người
chồng. Ngay trong việc tránh thai nhận thức của người chồng cũng kém. Người vợ
không thể đặt vòng do không hợp, uống thuốc tránh thai thì bị dị ứng nhưng người
chồng vẫn không chịu đi thắt ống dẫn tinh vì sợ mất bản chất đàn ông nên việc
tránh thai vẫn là nhiệm vụ của vợ. Trong khi đó việc tránh thai phải là nhiệm vụ
của cả vợ và chồng.

5. Những suy nghĩ, cách hành xử, sự dạy dỗ
Ông bà, cha mẹ, những người lớn trong gia đìnhcó những thái độ, hành vi, ứng
xử, dạy dỗ đối với con cháu trong gia đình mang tính chất phân biệt đối xử. Ở
những gia đình có sự phân biệt, coi trong nam giới hơn nữ giới thì gia đình đó
dành nhiều sự quan tâm, chăm sóc về mọi mặt cho các trẻ em trai, nhiều hơn cho
trẻ em gái. Do đó khi trưởng thành, các em trai thường có điều kiện tham gia vào
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội tốt hơn các em gái, mặc dù năng lực của các em
gái không thua kém các em trai. Thời xưa, các cô con gái sinh ra không được đi
học còn các cậu con trai thì được đầu tư cho học hành tới nơi tới chốn, nhưng các
cô con gái có đi học chăng nữa thì cũng chỉ là học nữa vời, vì cái quan niệm của

cha mẹ là con gái chỉ ở nhà làm việc nhà và khi lớn lên con gái sẽ đi lấy chồng
không phụ việc gì được cho gia đình. Ngày nay, các trẻ gái và trẻ trai đều được
đến trường học nhưng về điều kiện học hành và cơ hội của các trẻ trai vẫn chiếm
vị trí cao hơn các trẻ gái.

6. Tính cam chịu và nhẫn nhục của người phụ nữ, người vợ trong gia
đình
Trang 14


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

Người vợ vì thương chồng thương con nên người phụ nữ thường phải cam
chịu để sống qua ngày, sự cố gắng để giữ gìn hạnh phúc gia đình khiến cho
khoảng cách về mức độ bình đẳng giới trong gia đình ngày càng rỗng. Vì gánh
nặng con cái họ không muốn con cái không có bố nên dù thế nào họ vẫn không thể
dứt tình mẫu tử được. Cái thói quen cam chịu của người phụ nữ đã xuất phát từ
thời xưa và đến nay cái thói quen đó vẫn còn trong suy nghĩ của họ. Họ không có
tiếng nói trong gia đình, phải đảm đương vai trò làm vợ, làm mẹ và làm con. Đặc
biệt là một người con dâu người phụ nữ phải giữ trước và xem sau, họ phải khép
nép trong cái khuôn khổ nàng dâu. Đây là Một trong những nguyên nhân làm duy
trì tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam . Sự cam chịu, thậm chí là giấu giếm
những hành vi ngược đãi, cưỡng ép của người chồng, điều đó gây cản trở rất nhiều
trong công tác tuyên truyền giáo dục, vận động, xử lý tình huống của các cán bộ
phụ nữ. Ngày nay, tình trạng chị em phụ nữ bị ngược đãi vẫn xảy ra, người đàn
ông có cơ hội để tiếp tục hành vi bảo thủ, độc đoán, gia trưởng của mình bởi

vì chính những người mẹ lại tiếp tục truyền những tư tưởng cam chịu ấy cho con
gái và cứ như thế tư tưởng cam chịu đã ăn sâu vào tiềm thức của người phụ nữ
7. Trình độ dân trí chưa được cao
Chế độ bình đẳng giới chưa được mọi người hiểu rõ, các quan niệm, lối sống
suy nghĩ mở của người dân chưa được rộng. Xã hội còn đưa người phụ nữ vào cái
khuôn khổ truyền thống là phải gắn bó với việc nhà việc cửa, không mở ra một cơ
hội nào cho người phụ nữ được tiếp cận với xã hội, hòa nhập và sinh hoạt xã hội,
người chồng thì không muốn vợ mình gia nhập xã hội, không muốn vợ mình có
quá nhiều mối quan hệ và xã giao với người ngoài. Nguyên nhân này làm cản trở
sự phân chia bình đẳng công việc trong gia đình ở Việt Nam với quan niệm xã hội:
“Công việc nội trợ là thiên chức của Phụ nữ’. Không những thế, xã hội còn đánh
giá thấp ý nghĩa của các công việc gia đình làm cho nam giới thiếu động lực trong
việc chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ . Đây là một sự phân chia lao động
mang nặng định kiến giới, là điển hình của bất bình đẳng giới tại Việt Nam. Vì sự

Trang 15


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

"phân chia" này mà thời gian làm việc của phụ nữ nhiều gấp đôi nam giới. Bởi
ngoài 8 tiếng làm việc ngoài xã hội như nam giới, nữ giới còn phải gánh trách
nhiệm công việc gia đình, chăm sóc con cái. Nhiều người chồng cho rằng với phụ
nữ, việc nội trợ, chăm con là nhiệm vụ bất khả kháng. Đàn ông là trụ cột gia đình
nên không thể chấp nhận cảnh ở nhà "ăn bám váy vợ". Dù công việc của họ không
ổn định, thu nhập có thể bằng một nửa của vợ nhưng ho vẫn bắt vợ nghỉ việc về

chăm sóc gia đình.Vấn đề giải phóng phụ nữ trong gia đình chưa được đặt một
cách tương xứng với yêu cầu đổi mới kinh tế, xã hội, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.

8. Các chính sách của Đảng, Nhà nước và hệ thống luật pháp
Các chính sách của Đảng, Nhà nước và hệ thống luật pháp đã đảm bảo quyền
bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ
chính sách đến thực hiện vẫn còn một khoảng cách khá lớn vì thiếu chế tài giám
sát chặt chẽ. Nghĩa là nhà nước vẫn có các chính sách đảm bảo bình đẳng trong
gia đình nhưng việc thực hiện các chính sách vẫn chưa mang đến hiệu quả và chặt
chẽ, vì việc thực hiện và thi hành chưa được triệt để như chồng đánh vợ, khi đã
được tố cáo thì người chồng chỉ được lên để giáo huấn bằng lời hoặc chỉ phạt tiền
mang tính cảnh cáo…Với những hình phạt như thế thì thể hiện được tính qua loa
trong việc thực hiện chính sách bảo vệ người phụ nữ, đảm bảo bình đẳng trong gia
đình chưa cao. Như vậy về mặt luật pháp và chủ trương chính sách của Nhà nước,
phụ nữ đều có quyền bình đẳng với nam giới ngay cả trong công việc gia đình.
Tuy nhiên, trên thực tế, người vợ trong gia đình vẫn chưa được hưởng trọn vẹn
quyền lợi này. Họ vẫn phải tiếp tục chịu đựng và tự an ủi mình đang hy sinh cho
chồng, cho con và đang thực hiện “thiên chức” của người mẹ, người vợ trong gia
đình. Ở đây, cần nói đến vai trò của Nhà nước, chúng ta có nhiều văn bản luật định
về quyền bình đẳng nam nữ, nhưng lại thiếu các biện pháp giáo dục và chế tài của
Nhà nước đối với các trường hợp không thi hành luật và cũng chưa được chính
quyền các cấp quan tâm và can thiệp kịp thời.

Trang 16


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5


GVHD: Trần Thị Minh Phương

IV. HẬU QUẢ CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG
Bất bình đẳng giới trong gia đình sẽ để lại rất nhiều hậu quả nghiêm trọng làm
ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững.

1. Về mặt sức khỏe
Bất bình đẳng đã làm ảnh hưởng đến sức khỏe của chị em phụ nữ. Họ phải làm
việc quần quật cả ngày, ngay cả khi đi làm về cùng chồng nhưng phụ nữ không
được nghỉ ngơi mà phải nấu ăn phục vụ chồng con. Quan niệm phải có con trai
nên khi chưa sinh được con trai họ phải sinh tiếp, nếu sinh con gái thì họ không
được chăm sóc đầy đủ về mặt dinh dưỡng cũng như tinh thần. Nếu bạo lực xẩy ra
thì người vợ bị hành hạ, đánh đập. Có nhiều trường hợp làm giảm chức năng xã
hội, sức khỏe giảm sút, nhan sắc bị tàn phai.

2. Về mặt kinh tế
Ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, tỉ lệ nam nữ trong các ngành nghề quan
trọng luôn có sự phân biệt rõ rệt và lao động nữ ngày càng gặp nhiều khó khăn.
Thu nhập của nữ giới đa số vẫn thấp hơn nam giới. Có một bài báo nói rằng người
vợ có thu nhập cao hơn chồng và ổn định, trong khi người chồng thu nhập thấp
công việc không ổn định. Người vợ bảo chồng ở nhà chăm sóc con thay vợ nhưng
chồng vẫn không chịu nghỉ mà bắt vợ phải nghỉ ở nhà để chồng đi làm. Vì chồng
cho rằng đàn ông không thể làm những việc như thế, việc nội trợ, chăm sóc con
cái là nhiệm vụ bất khả kháng của vợ. Thế là người vợ vẫn phải nghỉ việc để chăm
sóc con. Thu nhập của người chồng không ổn định khiến kinh tế gia đình gặp rất
nhiều khó khăn, người vợ phải đi làm thêm với đồng lương rẻ mạt để phụ thêm chi
tiêu trong gia đình. Đó là một hậu quả do người chồng gây ra làm cho vợ mất cơ
hội tiếp cận việc làm, ảnh hưởng đến sức khỏe do phải chăm sóc gia đình và đi
Trang 17



Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

làm thêm. Người vợ không có tiếng nói trong gia đình, không có quyền quyết định
công việc của mình.
Phụ nữ trong gia đình còn gặp nhiều cản trở khác như phụng dưỡng bố mẹ, nội
trợ…Từ đó, họ có ít thời gian cho công việc, họ trở nên bị lệ thuộc kinh tế vào
người chồng. Họ ít có thời gian chăm sóc nhan sắc của mình, điều này cũng lý giải
tại sao phụ nữ nhanh già hơn nam giới, hầu hết thời gian họ chăm lo cho chồng
con, bố mẹ chồng.

3. Về mặt giáo dục
Có nhiều trường hợp do mất nền tảng từ khi ở nhà bố mẹ đẻ nên nữ giới ít được
học lên cao hơn so với nam giới, điều này làm hạn chế nhận thức cũng như sự
tham gia của nữ giới đối với xã hội. Do có trình độ thấp nên họ ít có tiếng nói
trong gia đình hơn. Hoặc có những người phụ nữ có trình độ cao hơn chồng nhưng
vẫn ít được quyết định vì người chồng cho rằng chỉ có mình mới có quyền quyết
định.

4. Về mặt thể chất và tinh thần
Những vụ bạo hành trong gia đình làm cho phụ nữ và con cái bị ốm yếu về tinh
thần và thể xác, ốm yếu, bệnh tật. Tâm lý của họ luôn tự ti và phải âm thầm chịu
đựng. Bên cạnh người chồng sử dụng các hành vi gây ảnh hưởng đến người phụ
nữ thì cũng có những trường hợp người chồng bị người vợ


5. Về việc phân công lao động trong gia đình
Người vợ ngoài công việc ở ngoài còn phải nội trợ, chăm sóc gia đình ít có thời
gian nghỉ ngơi. Có nhiều ông chồng đi làm về chỉ biết xem phim hay ngồi chờ vợ
nấu xong lại ăn không phụ giúp vợ. Có một cuộc điều tra về phân công lao động
trong gia đình giữa vợ và chồng trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam trên tạp chí phụ
nữ cho thấy: Phần lớn công việc nội trợ, chăm sóc con cái, sản xuất nông nghiệp
do vợ làm. Người vợ đóng vai trò chính chăm sóc con cái, lựa chọn giống cây
trồng, bón phân…Người chồng chỉ tham gia chủ yếu vào việc phun thuốc trừ sâu,
cày bừa. Việc tham gia hoạt động xã hội thì chủ yếu người chồng tham gia, ví dụ
như đi họp phụ huynh cho con, đi dỗ, đám, đi họp xóm. Việc đi tập huấn mô hình
Trang 18


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

VAC cũng do chồng tham gia trong khi những việc này chủ yếu do phụ nữ làm
dẫn đến không có hiệu quả. Do đó hạn chế khả năng tham gia các hoạt động xã hội
của phụ nữ, vì thế họ chỉ bết quanh quẩn việc sản xuất và chăm lo gia đình.
Có một số gia đình khi có khách nếu có chồng ở nhà thì chỉ chống tiếp, vợ phục vụ
nấu ăn nhưng khi ăn vợ không được ăn cùng mà phải ăn sau để phục vụ xem cần
những thứ gì cho bữa tiệc.
Một điển hình nữa là việc ký sổ sách trong nhà chủ yếu do chồng ký nên khi có
vần đề liên quan đến pháp luật người vợ phải chịu nhiều thiệt thòi nhất
Xét một cách vĩ mô thì nữ giới chưa được tham gia và đóng góp vai trò cho xã hội
tương xứng với khả năng. Đa số nam giới vẫn nắm giữ vị trí cao hơn phụ nữ trong
các cơ quan, đoàn thể.

Đa số phụ nữ phải phụ thuộc vào đàn ông, tất cả các mối quan hệ làm ăn hay
đóng góp cho xã hội vẫn là đàn ông. Người phụ nữ chưa thể hiện được vai trò của
mình.
Xảy ra các cuộc ly hôn ngoài ý muốn mà hậu quả của nó đó là những đứa trẻ,
nạn nhân của của nó. Tình trạng thiếu máu diễn ra phổ biến ở bà mẹ mang thai,
nạn bạo hành, phân biệt đối xử tồn tại trong mọi tầng lớp dân cư, cơ hội học tập,
vay vốn làm ăn, thăng tiến, kể cả mức lương của chị em vẫn thua xa so với nam
giới.
Tạo nên gánh nặng cho hệ thống bảo trợ xã hội, bảo vệ những nạn nhân bị bạo
hành và ly hôn trong gia đình, đứa trẻ sẽ phát triển không bình thường về tâm lý.
Quan hệ gia đình rất căng thẳng nếu mọi người không khéo léo cùng nhau vượt
qua hoàn cảnh khó khăn khi hàng hóa thiết yếu tăng giá. Đa số những người lo
việc cơm áo hằng ngày, quản lý chi tiêu trong gia đình là người phụ nữ. Người
phụ nữ đang bị đặt trước một bài toán nan giải. Từ đây dễ dẫn đến sự ức chế trong
tâm lý và chuyện xung đột xảy ra hoàn toàn dễ lý giải. Họ sẵn sàng bùng nổ để
giải tỏa và khi gặp người chồng không thông cảm thì dễ dẫn đến tình trạng bạo
hành.

6. Đối với con cái trong gia đình
Trang 19


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

Ở thời điểm này, quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn hiện hữu ở Việt Nam,
đặc biệt là ở các vùng nông thôn quan niệm này đang được hiện rõ. Người chồng

hay gia đình chồng quan niệm phải có con trai nối dõi tông đường hoặc quan niệm
“tam nam bất phú, tứ nữ bất bần” nên nếu có ba người con trai hoặc ba người con
gái rồi vẫn đẻ thêm, vì vậy làm gia tăng tình hình dân số và ảnh hưởng đến mọi
mặt của xã hội. Khi phải đẻ nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ, con cái không
được học hành đến nơi đến chốn, không được đảm bảo dinh dưỡng…là môt trong
những nguyên nhân gây nên nghèo đói, thất nghiệp…Tình trạng trọng nam khinh
nữ, phải có con trai này còn làm cho tỷ lệ nạp phá thai ngày càng cao.
Trong gia đình con cái được ưu tiên học hành nhưng số lượng nam vẫn lớn hơn
nữ. Chính vì sự bất bình đẳng này đã làm hạn chế về mặt giáo dục của nữ giới mà
trên thực tế không đáng bị thiệt thòi như vậy. Có bài báo nói về phân chia tài sản
cho con trai và con gái như sau: có một gia đình bán được đất với giá 4 tỷ đồng
nhưng kế thừa lại cho con trai hết, người con gái thấy vậy cũng về xin bố mẹ một
ít, nhưng người bố nói con gái lấy chồng rồi không được phân chia tài sản nữa vì
không thể đem tiền về cho nhà khác được, nếu cho thì cũng cho một ít coi như tiền
hương hoa thôi. Đó là bất bình đẳng trong việc phân chia tài sản ở một số gia đình
hiện nay.
Những hậu quả trên đã làm ảnh hưởng tới sụ phát triển bền vững của đất nước
khi mà người phụ nữ vẫn còn chịu nhiều thiệt thòi, ít có tiếng nói và quyền được
tham gia, các quan niệm đã có tiến bộ nhưng đó chỉ là theo báo cáo còn thực tế thì
vẫn xẩy tồn tại quan niệm lạc hậu về vai trò giới. Để phát triển bền vững thì tất
yếu phải có sự bình đẳng giới đặc biệt là đề cao vai trò của nữ giới. Vì vậy chúng
ta cần có những giải pháp khắc phục tình trạng này, phải có các chính sách ưu đãi
dành cho phụ nữ, tạo điều kiện cho họ hòa nhập vào xã hội và khẳng định, phát
huy khả năng của mình một cách tốt nhất.

Trang 20


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình


Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

V. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI
Để đảm bảo được vấn đề bình đẳng giới trong gia đình thì cần có các biện
pháp như sau:

1. Thay đổi nhận thức
Trước hết chúng ta cần có nhận thức tiến bộ hơn trong việc “phân biệt đối xử”,
Bất bình đẳng từ trước đến nay chủ yếu nhằm vào đối tượng là phụ nữ. Trong gia
đình họ đóng vai trò là người mẹ - người vợ, ngoài xã hội họ là những công dân
bình thường như bao người khác, là nhân viên của một công ty, là cán bộ quản lý.
Tuy nhiên bên cạnh vai trò đó họ luôn phải chịu những thiệt thòi, những bất công
và phân biệt chỉ vì lý do họ là “phụ nữ” chứ không phải là đàn ông. Vì vậy, cần có
một suy nghĩ, một nhận thức mới hơn, tiếng bộ hơn thì mới bảo đảm được sự cân
bằng về giới trong xã hội nói chung và trong gia đình nói riêng. Đồng thời, người
phụ nữ cũng phải biết thay đổi mình, nâng cao nhận thức của bản thân, thoát khỏi
những cái rèn buộc vốn đã tồn tại lâu đời trong suy nghĩ của mình. Người phụ nữ
phải biết hòa nhập cùng với thời đại, không nên giữ mãi tính cam chịu suốt đời.

2. Thực hiện công tác tuyên truyền
Tăng cường công tác tuyên truyền chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước
liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ, trẻ em, các vấn đề về giới tính, bình
đẳng giới… nhằm thay đổi nhận thức, hành vi của mọi đối tượng trong xã hội về
bạo lực gia đình, đặc biệt là đối tượng gây ra bạo lực. Đồng thời, bản thân mỗi phụ
nữ cũng cần tiếp tục nâng cao trình độ học vấn, cho phụ nữ tham gia các hoạt động
xã hội, các lớp tập huấn, hiểu biết pháp luật để khẳng định rõ vai trò, vị thế của
mình trong gia đình và xã hội. Tăng cường phối hợp giữa các sở ngành hữu quan
như Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch, Giáo dục-Đào tạo, Y tế, Lao động-Thương


Trang 21


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

binh và Xã hội… để phòng ngừa bạo lực gia đình bằng các mô hình, chương trình
lồng ghép, sân chơi để các gia đình được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
Tổ chức truyền thông về giới, bình đẳng và hòa nhập giới, chăm sóc sức khỏe
sinh sản và chống bạo lực gia đình. Có thể tổ chức các hình thức truyền thông
rộng rãi dưới nhiều hình thức cho cán bộ lãnh đạo, các tổ chức đoàn thể, các báo
cáo viên từ đó truyền thông xuống các hộ gia đình và phụ nữ. Các lớp tập huấn
cần tổ chức gọn nhẹ nhưng nội dung sâu sắc, cần tập trung vào các chủ đề như:
Vấn đề bình đẳng giới và tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam và trên thế giới.
Nguyên nhân, hậu quả của bạo lực gia đình. Các hoạt động của liên hợp quốc,
chính phủ, phong trào phụ nữ quốc tế và các lực lượng tiến bộ trong việc ngăn
chặn bạo lực gia đình. Công ước Chống mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em… Tuyên truyền, giáo dục về pháp luật Việt
Nam liên quan đến bạo lực gia đình. Bên cạnh đó cần lồng ghép hoạt động tuyên
truyền chống bạo lực gia đình vào các chương trình dân số, sức khoẻ sinh sản, các
chương trình sinh hoạt ở địa phương như họp tổ dân phố, họp thôn, xóm, đoàn thể.
Cần đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông cho cả hai giới nam và nữ,
cho cả cộng đồng các nội dung về vị thế, vai trò của phụ nữ, về giới, bình đẳng giới trong
gia đình, ngoài xã hội. Các hình thức truyền thông phải đa dạng, ngắn gọn, dễ hiểu qua
phát thanh, truyền hình, báo chí, qua hội họp, tập huấn và hệ thống panô, áp phích, tờ rơi.
Về phía các cơ quan văn hoá và truyền thông đại chúng: Tăng cường những tài liệu kêu

gọi sự bình đẳng trong gia đình, ca ngợi sự yêu thương, sống có trách nhiệm với nhau, hi
sinh vì nhau của cả hai giới. Tất cả các công việc trong gia đình, kể cả chăm sóc và nuôi
con, là trách nhiệm chung của cả hai giới.

3. Xây dựng các tổ chức, ban nghành, đoàn thể
Xây dựng mạng lưới, có sự thống nhất chỉ đạo hành động từ chính quyền
xuống các tổ chức và nhân dân địa phương. Thành lập bộ phận phòng chống bạo lực
gia đình và các tệ nạn xã hội khác có trách nhiệm và quyền hạn theo quy định của địa

Trang 22


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương
phương và mạng lưới thành viên và cộng tác viên đến tận thôn xóm. Bộ phận này có thể
chia thành hai nhóm hòa giải : “Nhóm phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Nhóm
nam giới văn minh không dùng bạo lực”. Nhóm phụ nữ sẽ giúp đỡ nạn nhân là phụ nữ về
cả vật chất và tinh thần, còn nhóm nam giới sẽ giáo dục những người đàn ông hay đánh
vợ con và những người thân khác. Các thành viên của nhóm có khả năng làm tư vấn cho
các nạn nhân cũng như ngừơi gây ra bạo lực.

Xây dựng các Trung tâm cứu giúp phụ nữ bị bạo lực tại địa phương. Các Trung
tâm này nằm trong trạm xá, bệnh viện của địa phương. Giao trách nhiệm cho các
cán bộ y tế có trách nhiệm chữa trị vết thương cho nạn nhân. Các bệnh xá xã, bệnh
viện huyện không được có thái độ kỳ thị hoặc khó khăn đối với nạn nhân của bạo
lực gia đình. Các chuyên gia tư vấn sẽ là thành viên của các tổ hoà giải ở địa
phương. Động viên sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân địa phương với nạn nhân như

các thành viên trong gia đình, họ hàng, bạn bè của gia đình nạn nhân, người hàng
xóm.

4. Tổ chức các chương trình
Phối hợp với chương trình xây dựng gia đình văn hoá mới và phòng chống tệ
nạn xã hội ở địa phương. Xây dựng các câu lạc bộ gia đình hạnh phúc không có
bạo lực gia đình. Đưa vấn đề bạo lực gia đình và xử lý các hành vi bạo lực gia
đình vào quy định tại địa phương (theo kiểu hương ước) và giám sát việc thực hiện
các quy định này. Phát huy vai trò tích cực, chủ động của gia đình, dòng họ trong
việc giáo dục và ngăn ngừa bạo lực gia đình. Đề nghị các thành viên gia đình cam
kết, ký vào văn bản về lối sống văn hoá. Một điều đáng chú ý là những kẻ thường
đánh vợ khi con cái còn nhỏ, khi con cái lớn thì họ ít đánh hoặc ngừng đánh. Một
phần vì con cái ngăn cản, phần khác họ không muốn biểu lộ những hành vi tàn bạo
trước con cái. Trong chương trình giáo dục những người này, có thể chúng ta nên
sử dụng áp lực từ con cái. Tạo điều kiện cho nam giới sinh hoạt vào các tổ chức,
hội nông dân hoặc các đoàn thể khác tại địa phương. Tham gia các lớp tập huấn về
bình đẳng giới, vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình cũng như ngoài xã
Trang 23


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5

GVHD: Trần Thị Minh Phương

hội. Lập quỹ phòng chống bạo lực gia đình, Để các chương trình phòng chống bạo
lực gia đình có thể triển khai và đạt hiệu quả trong thực tiễn, cần xây dựng quỹ
phòng chống bạo lực gia đình, trong đó một mặt xin hỗ trợ từ ngân sách nhà nước,
mặt khác cần huy động mạnh mẽ các nguồn kinh phí đóng góp từ các cá nhân,

những người hảo tâm, các tổ chức xã hội và quốc tế. Số tiền gây Quỹ sẽ dành để
chi trả cho việc chăm sóc, hỗ trợ và cứu giúp các nạn nhân trong chương trình
hành động của địa phương.

5.Tăng cường hiệu lực của pháp luật ở địa phương, giáo dục pháp luật
cho nhân dân địa phương
Trợ giúp pháp lý tuyên truyền pháp luật, tư vấn cho phụ nữ. Từng bước xây
dựng cơ chế thực thi pháp luật trong đó có Luật hôn nhân gia đình tại địa
phương.Trang bị các kỹ năng và tổ chức các chương trình phòng ngừa, ngăn chặn
và giải quyết nạn bạo lực gia đình. Trang bị các kỹ năng làm việc cụ thể khi bạo
lực xảy ra, bao gồm công tác cứu giúp nạn nhân và con cái họ, giáo dục, trừng
phạt kẻ phạm tội, nhanh chóng ổn định an ninh trật tự ở địa phương.

6. Phân công lao động
Người chồng cần phải đổi mới sự phân công lao động theo giới trong gia đình.
Người chồng phải tự giác chia sẻ công việc nhà với vợ để giảm bớt thời gian và
công sức của người vợ. Phân công lao động giữa vợ và chồng phải là quan hệ kinh
tế, xã hội bình đẳng. Người chồng và người vợ cùng nahu kiếm tiền, cùng nhau
làm việc nhà và chăm sóc giáo dục con cái. Tất cả các nhiệm vụ và vai trò đều
phải có sự gánh vác của cả hai vợ chồng. Con cái trong gia đình cũng được phân
công lao động theo đúng độ tuổi của mình.
7. Giáo dục

Trang 24


Tìm hiểu bất bình đẳng giới trong phạm vi gia đình

Nhóm 5


GVHD: Trần Thị Minh Phương

Cần nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ, cho các thành viên gia đình bởi vì
trình độ học vấn luôn đóng vai trò quyết định và tỷ lệ thuận với những tiến bộ,
những giá trị mới của mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống gia đình. Trình độ học
vấn cao sẽ làm thay đổi nhận thức, quan niệm, thái độ và hành vi của các thành
viên gia đình. Nhà nước cần có chiến lược phát triển giáo dục với nhiều hình thức
khác nhau nhằm từng bước nâng cao trình độ học vấn, trình độ nhận thức xã hội
của các thành viên gia đình. Đầu tư thích đáng cho việc thực hiện phổ cập giáo
dục phổ thông cơ sở cho các vùng nông thôn; miễn giảm học phí và các khoản
đóng góp xây dựng trường học cho các gia đình nông dân nghèo v.v…

8. Các cơ quan, chính quyền và chính sách của nhà nước
Chính quyền cơ sở ở nông thôn cần xây dựng chiến lược tạo việc làm, phát
triển mở mang ngành nghề, khôi phục làng nghề truyền thống để thu hút lực lượng
lao động tại chỗ là phụ nữ và nam giới, tạo điều kiện cho các gia đình phát triển
kinh tế, nâng cao thu nhập. Thực hiện tốt chính sách xoá đói, giảm nghèo lồng
ghép giới như: ưu tiên cho các gia đình nông dân nghèo, các gia đình không đầy
đủ (thiếu vợ hoặc chồng) vay vốn để phát triển sản xuất, tham gia dịch vụ xã hội.
Mặt khác, cần phát triển các dịch vụ xã hội, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ cho công
việc nội trợ của các gia đình nông thôn.
Nhà nước cần rà soát lại các chính sách và hệ thống luật pháp như chính sách
đất đai, chính sách xoá đói giảm nghèo, luật Lao động, luật Dân sự, luật Phổ cập
giáo dục, luật Hôn nhân và Gia đình để xoá bỏ những nội dung, điều luật, cản trở
bình đẳng nam nữ nhằm trao quyền cho phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn. Ngoài
hệ thống văn bản, pháp lý gắn với yếu tố giới cần có chế tài thực hiện kèm theo
nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả hai giới nhất là phụ nữ và được hiện thực hoá
trong cuộc sống. Đồng thời cần có chính sách quán triệt “bất bình đẳng giới” của
nhà nước và chính quyền ở từng khu vực và địa phương.


Trang 25


×