Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Tìm hiểu các biện pháp mà ngân hàng trung ương áp dụng để kiểm soát mức cung tiền từ năm 2010 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.04 KB, 43 trang )

BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
MỤC LỤC

HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

1


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ được xem là một cơng cụ chính sách quan trọng nhằm
tác động đến nền kinh tế để đạt được các mục tiêu như ổn định kinh tế vĩ mơ và
kiểm sốt giá cả. Tác động của chính sách tiền tệ luôn được thể hiện rõ nét và có
uy lực tới nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nói riêng so với nhiều
chính sách kinh tế vĩ mơ khác trong suốt q trình vận hành của nền kinh tế, đặc
biệt là trong ngắn hạn, thông qua các chỉ tiêu tiền tệ như: cung tiền M2, tín
dụng, lãi suất và tỷ giá hối đối, mà mục tiêu cuối cùng của cơng tác điều hành
chính sách tiền tệ là tác động đến thị trường tiền tệ, hoạt động kinh tế và mức
giá cả trong nền kinh tế.
Vì vậy, để có một chính sách tiền tệ phù hợp, địi hỏi các nhà hoạch định
chính sách phải có một sự hiểu biết rõ ràng về cơ chế truyền dẫn tiền tệ và tầm
quan trọng của các kênh truyền dẫn khác nhau như tín dụng, lãi suất và tỷ giá
hối đoái... và ảnh hưởng của các kênh truyền dẫn này đến các khu vực của nền
kinh tế, đặc biệt là mức cung tiền cũng như có các biện pháp kiểm sốt mức
cung tiền của quốc gia mình
Nhằm mục đích làm rõ hơn vấn đề này, em chọn ngiên cứu đề tài: “Tìm
hiểu các biện pháp mà Ngân hàng Trung ương áp dụng để kiểm soát mức
cung tiền từ năm 2010 – 2014”
Kết cấu đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Giới thiệu chung
Chương 2: Đánh giá các biện pháp kiểm soát mức cung tiền của Ngân


hàng Trung ương từ năm 2010 – 2014
Chương 3: Biện pháp nâng cao kiểm soát mức cung tiền của Ngân hàng
Trung ương.
Do kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, em mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của cơ giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn

HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

2


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Giới thiệu chung về Kinh tế vĩ mô:
1.1.1. Kinh tế học:
Kinh tế học là một chuyên ngành khoa học xã hội nghiên cứu việc lựa
chọn cách sử dụng hợp lý các nguồn lực khan hiếm (có hạn) để sản xuất ra
những hàng hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn cao nhất nhu cầu của mọi thành viên
trong xã hội.
1.1.2. Kinh tế vĩ mơ:
Nghiên cứu nền kinh tế ở góc độ tổng thể, thống nhất. Nó chú trọng đến
những nội dung chính sách sau đây: Giá trị tổng sản lượng; Tỷ lệ lạm phát; Tỷ lệ
thất nghiệp; Tăng trưởng kinh tế; Lãi suất; Tài khóa và tiền tệ; Cán cân thương
mại; Cán cân thanh tốn; Chính sách cho sự ổn định và thúc đẩy tăng trưởng.
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu:
Kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng
thể. Theo phương pháp này, kinh tế vĩ mô xem xét sự cân bằng đồng thời của tất
cả các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường
tài chính), xem xét đồng thời khả năng cung cấp sản lượng của toàn bộ nền kinh

tế, khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời mức giá
cả và sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Đây là nhân tố quyết định đến hiệu
quả của hệ thống kinh tế.
Thực chất, việc khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian
khác nhau hiện tại, ngắn hạn, dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta
phải sử dụng các mơ hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định đến các
biến số kinh tế vĩ mô này. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và
cơng cụ phân tích kinh tế thích hợp. Những kiến thức và cơng cụ phân tích này
đã được đúc kết từ nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học kinh tế
thuộc nhiều thế hệ khác nhau.

HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

3


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
Ngồi ra, kinh tế vĩ mơ cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân
tích phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mơ hình tốn và
đặc biệt là các mơ hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
phân tích kinh tế vĩ mô.
1.2. Mức cung tiền:
1.2.1. Khái niệm:
- Tiền cơ sở (H): Là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, bao gồm
tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong các ngân hàng.
H=U+R
Trong đó:

H: tiền cơ sở
U: Tiền mặt lưu hành

R: Tiền dự trữ trong các ngân hàng

- Mức cung tiền (MS) là tổng số tiền có khả năng thanh tốn bao gồm tiền
mặt đang lưu hành (U) và các khoản tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng
thương mại (D):
MS = U + D
- Mức cung tiền danh nghĩa (MSn): được quyết định bởi qui mô lượng
tiền cơ sở H và khả năng “tạo ra tiền” của số nhân tiền tệ
- Số nhân tiền tệ (mm): Là tỷ số giữa mức cung tiền MS và lượng tiền cơ
sở H.
mm = MS/H → MS = mm.H
1.2.2. Xác định mức cung tiền:
1.2.2.1. Mức cung tiền (MS):
- Giả định tỷ lệ dự trữ thực tế ra = rb (tỷ lệ dự trữ bắt buộc) và khơng có
sự rị rỉ tiền thì: mm = 1/rb → MS = (1/rb).H

HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

4


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

Giả định ra = rb và khơng có sự rị rỉ tiền thì: MS = (1/rb).H
Giả định: ra > rb và có sự rị rỉ tiền thì: mm = (s+1)/(s+ra)
→ MS= [(s + 1)/(s+ra)].H
1.2.2.2 Phương trình trao đổi lượng tiền tệ:
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền
kinh tế. Khi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất nhiều hơn thì cung tiền cũng
phải thay đổi theo. Mối quan hệ được xác định bởi phương trình trao đổi về

lượng tiền tệ:
M.V = P.Q (= GNPn)
Trong đó:

M là mức cung tiền
V: Tốc độ lưu chuyển tiền tệ
P: Mức giá trung bình
Q: Sản lượng thực tế
Vậy: M = P.Q/V

Nếu V khơng đổi thì M phải thay đổi theo quy mô của GPNn. Sự thay đổi
mức cung tiền tác động trực tiếp đến lãi suất của thị trường tiền tệ và thơng qua
đó tác động đến tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu. Do đó việc kiểm sốt MS được
đặc biệt coi trọng trong chính sách quản lý vĩ mơ của chính phủ. Muốn kiểm
sốt MS, phải có khả năng tác động tới H và mm
1.3. NHTW và vai trị kiểm sốt tiền tệ của NHTW.
1.3.1. Chức năng của NHTW:
- Ngân hàng của các NHTM: NHTW giữ các khoản dự trữ cho các
NHTM, thực hiện tiến trình thanh tốn cho hệ thống các NHTM và hoạt động
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

5


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
như là một “người cho vay của phương sách cuối cùng” đối với NHTM trong
trường hợp khẩn cấp như là rơi vào tình trạng khơng cịn khả năng thanh tốn.
- Ngân hàng của Chính phủ: NHTW giữ các tài khoản cho Chính phủ,
nhận tiền gửi và cho vay đối với Kho bạc nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khóa
của Chính phủ bằng việc mua tín phiếu của Chính phủ.

- Kiểm sốt mức cung tiền để thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định và
phát triển nền kinh tế.
- Hỗ trợ giám sát và điều tiết hoạt động của thị trường tài chính.
1.3.2. Thực thi chính sách tiền tệ:
NHTW điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công cụ
khác nhau nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền (m M). Ngồi
ra, NHTW có thể trực tiếp kiểm sốt có lựa chọn một số khoản tín dụng và một
số biện pháp khác.
(1) Nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ của NHTW được sử dụng để mua bán
trái phiếu kho bạc của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu điều chỉnh lương tiền
trong lưu thơng. Các chứng từ có giá mà NHTW thường sử dụng để tiến hành
nghiệp vụ thị trường mở là các chứng khốn kho bạc, vì thị trường của những
chứng khốn này rất “lỏng” và có dung lượng kinh doanh lớn.
Muốn tăng lượng cung tiền, NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở.
Kết quả là đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự
trữ ở các NHTM. Điều đó dẫn đến tăng khả năng cho vay và nhận gửi nhờ số
nhân tiền tệ. Kết quả là cung tiền tăng gấp bội so với tiền mua trái phiếu của
NHTW. Để có kết quả ngược lại, NHTW sẽ bán trái phiếu kho bạc của Nhà
nước trên thị trường mở.
Với cách vận hành như trên, nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu điểm
hơn so với các công cụ khác của CSTT, đó là:
- NHTW có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu
của các ngân hàng trung gian.
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

6


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

- Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở
bất kỳ mức độ nào. Nếu mong muốn của NHTW là thay đổi dự trữ của các ngân
hàng ở biên độ lớn, NHTW sẽ mua hoặc bán nhiều chứng khoán và ngược lại.
- Nghiệp vụ này dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra
trong lúc tiến hành. Giả sử NHTW thấy rằng cung tiền tệ tăng quá nhanh do
mua bán trên thị trường q nhiều, thì NHTW có thể sửa chữa ngay lập tức bằng
cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể hồn thành nhanh chóng, khơng gây nên
những chậm trễ về mặt hành chính.
Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của cơng cụ này, địi hỏi hầu hết tiền
trong lưu thông phải nằm ở tài khoản ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển
cao của cơ chế thanh tốn khơng dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị
trường tài chính phát triển. Vì vậy cơng cụ này được sử dụng thường xuyên
nhất, hiệu quả nhất đối với NHTW của các nước công nghiệp phát triển – nơi
có cơng nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hồn chỉnh. Cịn đối với
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng cơng cụ này chưa
mang lại hiệu quả cao.
(2) Quy định tỷ lệ DTBB:
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng trung gian phải đưa
vào dự trữ theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ DTBB
do NHTW quy định. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân
hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi ngân
hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc,
NHTW có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có
khả năng cung ứng cho nền kinh tế.
Một cách khái quát, khi NHTW tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB thì NHTW có
thể làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, và kết
quả là khối lượng tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho
nền kinh tế giảm hoặc tăng. Nhìn chung, DTBB là cơng cụ mang tính chất hành
HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2


7


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
chính của NHTW nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho
nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền.
Ưu điểm của việc sử dụng DTBB để kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể
tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực.
Mặt khác, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ DTBB thì tác động của nó đến
khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên, ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó
là khi NHTW muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện
được nếu sử dụng cơng cụ này. Bên cạnh đó, việc thay đổi tỷ lệ DTBB cũng
phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ để tăng khoản dự trữ lên
mức bắt buộc mới.
(3) Lãi suất chiết khấu:
Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi CSTT,
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTW cho
vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân
hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng.
NHTW kiểm sốt cơng cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả
khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu).
Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá cả khoản vay
tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm khả năng cho vay nền kinh
tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm.
Ngược lại, khi NHTW giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá khoản vay
rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho
vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng
tăng lên.
Ưu điểm của công cụ này:

- Do việc vay mượn thực hiện trên nền giấy tờ có giá nên thời hạn vay
mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả tương đối chắc chắn.
- Thông qua biện pháp chiết khấu và tái chiết khấu, cụ thể là thông qua lãi
suất chiết khấu, NHTW có thể thực hiện tốt vai trị người cho vay cuối cùng.
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

8


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
Tuy nhiên, cơng cụ này cũng có những hạn chế nhất định:
- NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng khơng thể bắt các
NHTM phải đi vay, tức là NHTW có quyền lựa chọn vay hay khơng. Do vậy
NHTW khó có thể kiểm soát được việc cung ứng tiền một cách có hiệu quả.
Hơn nữa lại rất khó trong việc đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết
khấu.
- Khi NHTW ấn định một lãi suất đặc biệt nào đó tạo ra sự biến động
khoảng cách giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường, dẫn tới thay đổi
ngoài dự kiến khối lượng tiền vay, khó kiểm sốt cung tiền tệ.
(4) Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung
ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định (năm hay quý), phù hợp với
mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó.
Khi ổn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kỳ, NHTW thường căn cứ vào
kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kỳ
đó. Hạn mức tín dụng này khơng phải là chỉ tiêu ấn định cho tồn bộ nền kinh tế
mà chỉ là chỉ tiêu ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể thực hiện
hạn mức tín dụng của mình lớn hơn hạn mức tín dụng mà NHTW ấn định cho
ngân hàng mình nếu NHTM này huy động được lượng vốn lớn hơn. Vì vốn do
các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn hơn rất nhiều lần hạn mức tín dụng

được NHTW cung ứng cũng không ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ vào hay
rút ra khỏi lưu thơng.
Cơng cụ này có ưu điểm đó là một biện pháp mạnh có hiệu quả đáng kể.
Thơng qua đó, NHTW khống chế được lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, trên cơ sở hạn mức tín dụng, NHTW tiến hành phân bổ hạn
mức tín dụng. Cùng với thời gian, hạn mức có thời điểm phù hợp, có thời điểm
lại khơng phù hợp. Điều này gây ra khó khăn cho các đơn vị khi nhu cầu của
khách hàng tăng cao, trong khi đó các nguồn đáng kể hạn mức tín dụng cũng
khơng đủ.
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

9


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
Kiểm sốt hạn mức là cách kiểm sốt gị bó, cứng nhắc khơng phù hợp
với cơ chế hiện nay, một cơ chế đòi hỏi sự quản lý phải hết sức mềm dẻo, uyển
chuyển, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của một số
ngân hàng, giảm khả năng điều tiết của NHTW. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng hạn
mức tín dụng khơng thể một sớm một chiều mà cần có thời gian, vì vậy tính kịp
thời khó đảm bảo.
Việc kiểm sốt bằng hạn mức tín dụng có thể là một trong nhiều nguyên
nhân đẩy lãi suất lên. Trong khi nhu cầu chiết khấu để vay NHTW của một số
ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết hạn mức tín dụng thì ở một số
ngân hàng khác hạn mức tín dụng lại tạm thời dư thừa. Ở đây, quan hệ trao đổi
sẽ diễn ra và chi phí sẽ góp phần đẩy lãi suất lên.

HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

10



BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT MỨC
CUNG TIỀN CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TỪ NĂM 2010 – 2014
2.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ năm 2010 – 2014:
2.21. Tăng trưởng GDP
Hình 1.1. Tăng trưởng GDP theo quý giai đoạn 2010-2014 (Đơn vị: %)

Nguồn: Tổng cục thống kê (GSO)
Hình 1.2. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1990-2014

Nguồn: Tổng cục thống kê (GSO)

Năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5.98%, cao hơn hẳn mức 5,42%
của năm 2013. Mức tăng trưởng trên cao hơn so với chỉ tiêu 5.8% mà Chính phủ
đề ra và vượt ngồi dự đốn của các chuyên gia, tổ chức trong và ngoài nước.
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

11


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
Tăng trưởng năm 2014 vẫn diễn ra theo kịch bản cũ “tiếp tục hồi phục,
tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước” (H.1.1). Điểm nhấn là tăng trưởng bất
ngờ ở quý 3 (6.07%) và quý 4 (6.96%) làm cho mức tăng trưởng cả năm cao hơn
hẳn so với 3 năm trở lại đây.
Tuy nhiên, mức hồi phục này vẫn còn thấp, chưa vượt qua mức 6% và
chưa thực sự bền vững. Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng năm 2014 thấp hơn
khá xa mức tăng trưởng bình quân của giai đoạn 1990-2010 (H.1.2). Trong

mức tăng chung, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng cao nhất 7.14%, cao
hơn nhiều so với năm trước.
Bảng 1.1. Đóng góp vào tăng trưởng theo ngành (%)

Tổng số
Nơng, lâm nghiệp và thủy
sản
Cơng nghiệp và xây dựng
Dịch vụ

Năm
2010
6.78

Năm
2011
5.89

Năm
2012
5.25

Năm
2013
5.42

0.47

0.66


0.4

0.48

0.61

3.2
3.11

2.32
2.91

2.15
2.7

2.09
2.85

2.75
2.62

Năm 2014
5.98

Hình 1.3. Tăng trưởng GDP theo ngành (%)

Tại Việt Nam, trong khoảng gần 10 năm trở lại đây (2003 -2012), tốc độ
tăng cung tiền tại Việt Nam từ năm 2003 đến nay liên tục duy trì trên dưới 25%
mỗi năm và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%. Trong khi nhập khẩu tăng đột
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2


12


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
biến trong mấy năm trở lại đây để đáp ứng với lượng cầu nội địa tăng thì đối với
một số hàng hóa như khách sạn, văn phịng, điện, lao động có kỹ năng (những
hàng hóa chủ yếu được sản xuất trong nước) khơng thể tăng tương ứng. Kết quả
là giá của những hàng hóa này phải tăng theo tốc độ tăng cung tiền. Tuy nhiên,
tốc độ tăng cung tiền lại không tương xứng với tốc độ tăng trưởng, tốc độ tăng
trưởng của Việt Nam lại chỉ có tăng từ 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền
kinh tế chiếm tới 35% GDP.
Các phân tích đã chỉ ra rằng, việc tăng cung tiền trong những năm qua
nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Tuy nhiên, khi mất
cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng GDP lớn thì sức ép lạm
phát bắt đầu xuất hiện. Ví dụ, trong hai năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam
tăng trưởng 17% trong khi đó M2 (gồm tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi trong
ngân hàng) tăng tới 73%. Trái lại, trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung
Quốc tăng 22% trong khi M2 chỉ tăng có 36%. Tăng trưởng của Việt Nam thấp
hơn của Trung Quốc nhưng tốc độ tăng cung tiền lại cao gần gấp đơi.
Ởn định kinh tế vĩ mơ là một trong những vấn đề quan trọng trong định
hướng chính sách của Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Trong 3 năm gần đây,
Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát
cao, sự tăng trưởng cung tiền của Ngân hàng Trung ương nhằm khắc phục một
phần thâm hụt ngân sách và đảm bảo các nhiệm vụ về chính sách tiền tệ đã ảnh
hưởng đến kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn 2000 – 2012.
Trước bối cảnh này, Chính phủ đã có sự điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng
kinh tế phù hợp với thực tế, trong đó ưu tiên kiềm chế lạm phát thơng qua cơng cụ
điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hạn chế cung tiền ra thị trường. Đồng thời,
điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo hướng ổn định, bền vững… Kết quả

là, Việt Nam đã đạt được mục tiêu kép trong năm 2013, kinh tế vĩ mô ổn định,
tăng trưởng GDP đạt mức khả quan (5,42%); lạm phát được kiềm chế ở mức
6,04%; thị trường tiền tệ lưu thông ổn định, bền vững về nhiều mặt (chính sách,
lãi suất giảm cả huy động và cho vay).
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

13


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
Năm 2010, chỉ số tiêu dùng CPI tháng 12 tăng 1,98% đẩy lạm phát cả
nước ở mức 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu
được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%).
Trong khi đó, nếu tính bình qn từng tháng (cách tính mới của Tổng cục
thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.

Bảng 1 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2010 và 2009.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Ta có thể thấy lạm phát tăng cao những tháng đầu năm và cuối năm, mức
tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn
1,5%.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%, tiếp đó
là hàng ăn 16,18%, nhà ở - vật liệu xây dựng 15,74%, các ngành giao thông,
hàng hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn
thơng là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6%. Chỉ số giá vàng tăng
36,72%, chỉ số USD tăng 7,63%. Về CPI vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI
khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%, cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Bước sang năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có
xu hướng giảm.


HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

14


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

Bảng 2 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2011 và 2010
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước, thấp
hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và 2010.
Đây cũng là tháng thứ năm liên tiếp trong năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp
hơn 1%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, các nhóm có chỉ số giá tăng cao
hơn mức tăng chung là: may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm nhà hàng
ăn uống tăng 0,69%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,86%. Các nhóm hàng
hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung là: nhà ở và vật liệu
xây dựng tăng 0,51%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%, văn hóa, giải trí và du
lịch tăng 0,35%, thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,24%, giao thơng tăng 0,16%, giáo
dục tăng 0.05%. Riêng nhóm bưu chính viễn thơng có chỉ số giảm 0,09%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với cùng kỳ năm trước tăng 18,13%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình qn năm 2010

HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

15


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ


Bảng 3 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2012.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Bảng 4 – So sánh tốc độ tăng CPI các tháng năm 2012.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng
0,27% so với tháng trước, lạm phát 2012 được kiềm chế ở mức 6,81%. Trong năm
2012 có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng chỉ tăng dưới 0,5%.
Cụ thể, theo phân tích của Tổng cục thống kê , CPI tăng không quá cao
vào 2 tháng đầu năm (tăng 1% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng
tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,2%, chủ yếu do tác động của nhóm
thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm
dần trong những tháng cuối năm.

HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

16


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ
Nhìn lại năm 2012, Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Đỗ Thức cho
biết, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 (tăng 6,81% so với cùng kỳ năm 2011) xấp xỉ
mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của
năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011, nhưng lại là năm giá có nhiều
biến động bất thường. Cụ thể chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá cao vào 2
tháng đầu năm (0,1% vào tháng 1 và 1,37% vào tháng 2), nhưng tăng cao nhất
vào tháng 9 với mức tăng 2,2%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ
y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong các
tháng cuối năm, điều này thể hiện tính kịp thời và hiệu quả của việc triển khai

Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng
cường cơng tác quản lý, điều hành và bình ổn giá.
Theo Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng cả nước năm 2013 chỉ tăng
6,04%, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Theo đó, chỉ số giá
tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với
cùng kỳ năm trước.

Bảng 5 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2013.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Trong các nhóm hàng hóa dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có
chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%,
may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
0,49%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ cịn lại có chỉ số giá giảm gồm: giao
thơng giảm 0,23%, bưu chính viễn thơng giảm 0,01%. Mức tăng trưởng của năm
HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

17


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm
2012 và có tín hiệu phục hồi.
Bước sang năm 2014, con số lạm phát của năm đã thấp ngồi dự đốn của
Tổng cục thống kê khi qua 12 tháng chỉ tăng 1,86%. Đây là mức lạm phát thấp
hơn cả những năm 1996 – 1999.

Bảng 6 – Chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 và so sánh từ năm 2004 đến 2014.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)


So với tháng 11/2014, chỉ số giá tiêu dùng của tháng 12 tiếp tục giảm
0,23%, nối tiếp xu thế tăng trưởng âm của tháng 11, đây là tháng thứ 3 liên tiếp
của năm 2014 có chỉ số giá giảm.
Theo bảng cơng bố của Tổng cục thống kê, chỉ có 2 nhóm giảm giá mạnh
là nhà ở, vật liệu xây dựng giảm 0,88% và nhóm giao thơng giảm sâu 3,01%. Xu
hướng âm giá này hoàn toàn thuận chiều theo xu hướng giảm giá xăng dầu liên
tục. Các nhóm hàng cịn lại đều tăng rất khiêm tốn dưới 0,5% như nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống chỉ tăng 0,04%, nhóm đồ uống thuốc lá tăng 0,24%, nhóm
giày dép mũ nón may mặc tăng 0,5%. Nhóm bưu chính viễn thơng là nhóm tăng
mạnh nhất nhưng cũng chỉ ở tỷ lệ 0,92%.
Nhìn lại chặng đường 15 năm qua, mức lạm phát dưới 2% của Việt Nam
trong năm 2014 thấp hơn cả năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,7%, năm 2002 là
4%, năm 2003 là 3%. So với con số lạm phát kỷ lục năm 2008, những năm trở lại
đây, lạm phát đã từng bước được kiềm chế. Để đạt được điều này, các nhà lãnh
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

18


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
đạo đã phải nỗ lực sử dụng hiệu quả các biện pháp kinh tế vĩ mơ, mà trong đó
khơng thể khơng kể đến những giải pháp để kiểm soát mức cung tiền của NHTW.
2.2. Các biện pháp NHTW đã áp dụng để kiểm soát mức cung tiền
giai đoạn 2010 - 2014.
NHTW được biết đến như là một cơ quan vận hành đảm bảo sự ổn định
tiền tệ và điều tiết thị trường tiền tệ. Sự ổn định ở đây được xét trên khía cạnh ổn
định của giá cả trong nước, tỷ giá và của hệ thống thanh tốn. Thơng thường
NHTW sẽ thực hiện vai trị của mình thơng qua các cơng cụ CSTT, người cho
vay cuối cùng và hoạt động thanh tra, giám sát, điều tiết hoạt động ngân hàng. Tại
Việt Nam, NHNN đảm nhận vai trò như là một NHTW, và vai trị đó ngày càng

được khẳng định trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính tồn cầu, đặc biệt
là sau năm 2008. Cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, NHNN Việt Nam
đã thực hiện điều chỉnh mức cung tiền phù hợp qua từng thời kỳ thông qua các
cơng cụ của CSTT góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế quốc gia.
2.2.1. NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2010.
Trong năm 2010, góp phần vào các kết quả khả quan của kinh tế nhà
nước, NHNN đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với
Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tế, góp
phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Cụ thể là:
- Điều hành linh hoạt các công cụ CSTT (nghiệp vụ thị trường mở, tái
cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ, DTBB) để tăng lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu
thông, đáp ứng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế với tốc độ tăng 23%;
tỷ trọng tiền mặt lưu thông trong tổng phương tiện thanh toán giảm so với các
năm trước.
- Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp và nông thôn, ban hành cơ chế khuyến khích các TCTD mở rộng cho vay
vốn với lãi suất thấp hơn khu vực khác, thông qua giảm DTBB, cho vay tái cấp
vốn, mở rộng mạng lưới TCTD.
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

19


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
- Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở
mức 8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám
sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, điều hành lãi suất huy động và lãi
suất cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất
huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm). Hai tháng cuối

năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp
điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy độngVND
14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm
cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình qn 12,44%/năm, cho
vay 14,96%/năm, cho vay nơng nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm, lãi
suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5-12%/năm).
- Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp
đảm bảo an toàn hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, ban hành quy
định mới phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ
thống TCTD nước ta về tỷ lệ an toàn.
2.2.2. NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2011.
Tuy nhiên, năm 2011, trước dự báo của các tổ chức quốc tế và tình hình
kinh tế thế giới tăng trưởng khơng mấy khả quan, thậm chí cịn có thể chậm hơn
năm 2010, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính
tiền tệ tồn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho q trình phục hồi nền kinh tế
thế giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan
giải như lạm phát, nhập siêu cao, tình trạng đơ – la hóa trong nền kinh tế, một bộ
phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khốn, ngoại hối…)
diễn biến còn phức tạp. Để tháo gỡ dần khó khăn, đồng thời góp phần thực hiện
thành cơng Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày 08/11/2010 của Quốc hội về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, ngay từ đầu năm, Chính phủ chỉ đạo
sát sao các Bộ, ngành chức năng trong nền kinh tế, đặc biệt là ngành ngân hàng
tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Chủ
trương của Chính phủ được thể hiện rõ nét thơng qua Nghị quyết số 02/NQ-CP
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

20


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

ngày 09/01/2011 về điều hành CSTT và đặc biệt là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày
24/02/2011 của Chính phủ.
Trên cơ sở đó, ngay từ đầu năm 2011, NHNN đã xác định mục tiêu định
hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và
thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm sốt lạm phát và ổn định kinh tế vĩ
mơ, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm sốt tốc độ tăng
trưởng tín dụng dưới 20%, điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn
cho sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các cơng cụ CSTT và biện pháp
điều hành được thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của
Chính phủ và điều kiện thực tế của thị trường tài chính – tiền tệ.
Qn triệt tinh thần đó, ngay từ những tháng đầu năm 2011, NHNN đã
quyết liệt trong việc thay đổi chính sách điều hành, đặc biệt trong lĩnh vực quản
lý ngoại hối, công cụ lãi suất. Đồng thời cũng rất chủ động, linh hoạt trong công
tác quản lý, nhằm đảm bảo tính kịp thời, thích ứng của các chính sách ban hành
phù hợp với thực tế và chỉ đạo của Chính phủ trong từng giai đoạn. Chính vì
vậy, sau gần nửa năm thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, thơng
qua cơng tác điều hành CSTT, NHNN Việt Nam cũng đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận, đảm bảo sự ổn định, tính thơng suốt của thị trường tiền tệ,
kiểm soát được lãi suất, mức tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh
tốn theo mục tiêu đã đề ra.
Một trong số đó là nâng cao hiệu quả của công cụ lãi suất (đặc biệt là lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở - OMO), kết
hợp hài hòa với các cơng cụ gián tiếp nhằm đảm bảo tính thanh khoản trong hệ
thống, kiểm soát được sức ép gia tăng lãi suất.
Nếu năm 2008, để kiểm soát lạm phát, hạ nhiệt thị trường tín dụng, lãi
suất cơ bản được sử dụng như một cơng cụ chính yếu với tần suất và mức độ
điều chỉnh lớn, thì trong nhứng tháng đầu năm 2011, để phù hợp với tinh thần
của Luật NHNN ban hành năm 2010 chủ yếu sử dụng lãi suất cơ bản làm công
cụ chống cho vay nặng lãi nên NHNN đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2


21


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
vốn và lãi suất tái chiết khấu. Cho đến thời điểm nửa đầu năm 2011, NHNN đã 4
lần điều chỉnh tăng đối với lãi suất tái cấp vốn và 3 lần điều chỉnh tăng đối với
lãi suất tái chiết khấu kể từ đầu năm 2011, nâng tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn lên
14% và lãi suất tái chiết khấu lên mức 13%.

Bảng 7 – Lãi suất điều hành của NHNN 6 tháng đầu năm 2011.

Xu hướng điều hành này là một bước tiến tích cực của NHNN trong cơng
tác điều hành lãi suất, từng bước cơ cấu lại các mức lãi suất cho phù hợp với
thông lệ quốc tế, giúp NHNN thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng
của mình, cũng như ngăn chặn được sự ỷ lại và lạm dụng nguồn vốn giá rẻ của
một số NHTM từ NHNN. Đồng thời, các mức lãi suất này cũng đã phát được tín
hiệu điều hành CSTT của NHNN, thực hiện tương đối tốt vai trò là lãi suất định
hướng trên thị trường (lãi suất trên thị trường OMO dao động bình quân trong
khoảng 13-14%; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động từ 12-13,18%).
Nhờ đó mà hoạt động điều tiết thị trường của NHNN qua thị trường mở trong
những tháng đầu năm tương đối trôi chảy; giữ vững được thanh khoản cả hệ
thống, kết hợp hài hòa giữa thị trường và quản lý. Thành công đầu tiên phải kể
đến là NHNN đã hút về gần hết lượng tiền cung ứng phục vụ Tết Nguyên Đán
(toàn bộ lượng tiền cung ứng phục vụ cho dịp Tết khoảng 130 nghìn tỷ đồng đã
được NHNN rút về hơn 100 nghìn tỷ đồng) khi mà lượng tiền gửi dịp Tết 2011
HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

22



BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
tăng mạnh so với Tết năm 2010, NHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu
thông và chuyển tiền đến những khu vực có nhu cầu lớn.

Bảng 8 – Diễn biến lãi suất VND một số kỳ hạn trên thị trường liên ngân
hàng năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011.

Ngoài ra, NHNN cũng quyết tâm thực hiện hiệu quả công cụ hạn mức tín
dụng, hạn chế cung tiền thơng qua kênh tín dụng, kết hợp hài hịa với cơng cụ lãi
suất nhằm thực hiện mục tiêu giảm tổng cầu theo tinh thần của Nghị quyết 11
trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 01/3/2011 về thực hiện giải pháp tiền tệ và
hoạt động ngân hàng, cụ thể:
- Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng hạn mức 20%
- Điều chỉnh cơ cấu tín dụng, tập trung vốn phát triển sản xuất kinh
doanh, nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa
và nhỏ, giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất trong tổng
dư nợ xuống mức 22% đến 30/6/2011 và 16% đến 31/12/2011.
Nhờ đó, đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh tốn và tín dụng lần
lượt tăng khoảng 10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều
chỉnh phù hợp với diến biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Việc tăng
cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi
suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và
cho vay trong những tháng cuối năm 2011. Trong đó, lãi suất cho vay nơng
HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

23


BÀI TẬP LỚN MƠN KINH TẾ VĨ MƠ

nghiệp, nơng thơn và xuất khẩu giảm 0,5 – 1%/năm và dao động ở mức 14,5% 17%, thậm chí chỉ cịn 13,5%.
Tình hình kinh tế những tháng cuối năm 2011 có dấu hiệu cải thiện, GDP
năm 2011 tăng 5,89%, lạm phát so với cùng kỳ năm trước có dấu hiệu chững lại
và giảm dần từ mức 22% trong tháng 10/2011 xuống 20% trong tháng 11 và
18,13% trong tháng 12.
2.2.3. NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2012.
Đến cuối tháng 5/2012, huy động vốn của các tổ chức tín dụng và tổng
phương tiện thanh tốn đã tăng khá mạnh so với cuối năm 2011.
Thơng cáo báo chí về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2012 công
bố ngày 27/5 đưa ra một số dữ liệu đáng chú ý liên quan đến việc điều hành chính
sách tiền tệ.
Cụ thể, thơng cáo cho biết: so với 31/12/2011, tổng phương tiện thanh toán
(M2) ước tăng 4,47% và tổng dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng
tăng 5,42%, cho thấy thanh khoản của hệ thống ngân hàng ngày càng tốt lên; tỷ
giá ổn định; cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện; dự trữ ngoại tệ tăng.
Như vậy, cả cung tiền và huy động vốn đều đã tăng khá mạnh sau những
tháng khởi động chậm chạp đầu năm. Đây cũng là những mức khá cao so với diễn
biến trong cùng kỳ so sánh ở năm 2011 (đến cuối tháng 5/2011 huy động chỉ tăng
1,4% và cung tiền chỉ tăng 1,57% so với cuối năm 2010).
Diễn biến trên gắn chặt với những điều chỉnh trong điều hành chính sách
tiền tệ, cũng như ở hoạt động đưa VND ra mua vào ngoại tệ của Ngân hàng Nhà
nước trong thời gian qua.

HV: Đoàn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

24


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ


Về huy động vốn, tốc độ tăng trưởng đã mạnh lên kể từ đầu tháng 3/2012,
sau khi Ngân hàng Nhà nước phát tín hiệu sẽ giảm dần trần lãi suất huy động với
tốc độ khá nhanh về cuối năm. Thực tế từ tháng 3 đến nay đã 3 lần điều chỉnh,
trần lãi suất huy động VND từ 14%/năm đã rút về còn 11%/năm chỉ trong chưa
đầy ba tháng.
Tín hiệu và thực tế trên đã góp phần thúc đẩy dịng tiền gửi vào hệ thống,
tranh thủ lãi suất cao trước khi điều chỉnh, cũng như tạo cơ cấu thuận lợi hơn cho
các ngân hàng ở các kỳ hạn dài hơn.
Còn ở cung tiền, hoạt động mua vào ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước liên
tục gia tăng kể từ cuối năm 2011 đến nay. Nhà điều hành cũng liên tục phát hành
tín phiếu ngắn hạn với khối lượng lớn để trung hòa tác động. Từ tháng 5, quy mô
và tần suất phát hành đã bắt đầu thu hẹp.
Với những diễn biến trên, thanh khoản hệ thống ngân hàng một lần nữa
được khẳng định là đã cải thiện rõ rệt so với cuối năm 2011 và đầu 2012. Thậm
chí có hiện tượng dư thừa vốn khả dụng và lãi suất trên liên ngân hàng cũng đã
liên tục giảm mạnh.
Những yếu tố thuận lợi đó, cùng với xu hướng giảm lãi suất đã và đang thể
hiện, có thể góp phần thúc đẩy tín dụng tăng trưởng trở lại, sau khi có trạng thái
âm kéo dài.
HV: Đồn Nguyễn Ngọc Anh – Lớp QLKT 2014 – I – Lớp 2

25


×