Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tìm hiểu về công tác xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ tại công ty TNHH TM việt hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.37 KB, 20 trang )

A. Phần mở đầu :
1. Lý do chọn đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện
giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá. Qua tiêu thụ, sản phẩm chuyển từ
hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và kết thúc một vòng luân chuyển vốn. Có tiêu
thụ sản phẩm mới có vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng tăng nhanh tốc luân
chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Hiện nay các doanh nghiệp đang phải đối diện với môi trường kinh doanh biến động
không ngừng, diễn biến phức tạp và nhiều rủi ro. Áp lực cạnh tranh ngày càng tăng, thị
trường đầu ra của sản phẩm sản xuất bị thu hẹp. Công tác tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều
khó khăn trở ngại, sự duy trì và giữ vững tốc độ tiêu thụ, khả năng xâm nhập và mở rộng thị
trường của các sản phẩm sản xuất trở nên mong manh. Trong bối cảnh đó, hoạt động
nghiên cứu thị trường, phân tích khả năng tiềm lực của doanh nghiệp để đưa ra hững định
hướng tốt cho tiêu thu sản phẩm là vô cùng cần thiết. Đó là công việc và kết quả của quá
trình lập và thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp huy động và sử dụng hiệu
quả các nguồn lực chủ động ứng phó với những thay đổi trên thị trường.
Như vậy lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng với công tác tiêu
thụ sản phẩm bởi kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng chính là lý
do em lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về công tác xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
tiêu thụ tại công ty TNHH TM Việt Hoàng”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Hiểu được lý luận về lập kế hoạch tiêu thụ sẽ giúp cho doanh nghiệp ra những
quyết định đúng đắn cho định hướng tiêu thụ sản phẩm, cũng như quyết định đúng đắn
cho sản xuất kinh doanh đảm bảo cho ổn định và phát triển.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được thị
trường tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm, quy cách mẫu mã chủng loại từ đó có kế hoạch
sản xuất kinh doanh phù hợp.



B. Phần nội dung nghiên cứu:
Chương 1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm chung về tiêu thụ sản phẩm
- Theo nghĩa hẹp, quá trình tiêu thụ sản phẩm gắn liền với sự thanh toán giữa
người mua và người bán và sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa.
- Theo nghĩa rộng thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều
khâu từ việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng
và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng…..nhằm mục
đích đạt hiệu quả cao nhất.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị của hàng hóa, quá trình chuyển
hóa hình thái giá trị của hàng hóa từ hàng sang tiền. Sản phẩm được coi là tiêu thụ khi
khách hàng chấp nhận thanh toán tiền hàng. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng
của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện mục đích của sản xuất hàng hóa là
sản xuất sản phẩm để bán và thu lợi nhuận.
Thực tế cho thấy, thích ứng với mỗi cơ chế quản lý kinh tế khác nhau, công tác
tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, vấn đề tiêu thụ sản phẩm được thực hiện hết sức đơn giản. Nhà
nước cấp chỉ tiêu cung ứng vật tư cho các đơn vị sản xuất theo số lượng đã xác định
trước và quan hệ giữa các nghành và các bộ phận trong nền kinh tế chủ yếu là quan hệ
dọc, được kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát, giao nộp sản phẩm hiện vật. Các doanh
nghiệp chủ yếu thực hiện chức năng sản xuất, việc đảm bảo các yếu tố vật chất đầu
vào như: nguyên liệu, nhiên liệu….được cấp trên bao cấp theo các chỉ tiêu cấp phát.
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong thời kỳ này được thực hiện theo
kế hoạch giao nộp với giá cả và địa chỉ do nhà nước quy định sẵn. Do không có môi
trường cạnh tranh, chất lượng sản phẩm hàng hóa ngày càng giảm sút, mẫu mã kiểu
dáng ngày càng đơn điệu. Như vậy trong nền kinh tế tập trung khi mà ba vấn đề cơ bản
của sản xuất hàng hóa: sản xuất cái gì?, sản xuất bao nhiêu?, sản xuất cho ai? Đều do
nhà nước quy định thì tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hóa

sản xuất ra theo kế hoạch và giá cả được ấn định từ trước. Còn trong nền kinh tế thị
trường, tiêu thụ là mục đích cơ bản của sản xuất hàng hóa, hàng hóa sản xuất ra có tiêu
thụ được thì doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận, mới hoàn thành được vòng chu


chuyển của vốn kinh doanh và thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong thời kỳ
này, tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp cho người sản
xuất nắm bắt kịp thời những thong tin phản hồi để tổ chức sản xuất với số lượng, chất
lượng và thời gian hợp lý, đồng thời khách hàng tìm hiểu kỹ về hàng hóa tăng khả
năng thỏa mãn nhu cầu.
Chuyển sang cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt
với môi trường kinh doanh biến động không ngừng và có rất nhiều rủi ro cũng như
thách thức, áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng và khâu tiêu thụ sản phẩm được coi là
một trong những khó khăn hàng đầu hiện nay của các doanh nghiệp thuộc tất cả các
thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp tư nhân. Do vậy mà hiện nay, tiêu thụ sản
phẩm đã trở thành vấn đề sống còn của mọi doanh nghiệp.
1.2. Sự cần thiết của tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm được coi là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh, là một trong sáu chức năng hoạt động của doanh nghiệp là: sản xuất, tiêu thụ,
hậu cần kinh doanh, tài chính, kế toán, quản trị doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm là
thực hiện mục đích của sản xuất hàng hóa, là đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi
tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hóa, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong
quá trình tuần hoàn các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm của doanh
nghiệp được thực hiện, giữa hai khâu này có sự khác nhau, quyết định tới bản chất của
hoạt động thương mại đầu ra của doanh nghiệp. Mặc dù sản xuất là chức năng trực tiếp
tạo ra sản phẩm song tiêu thụ lại đóng vai trò là tiền đề không thể thiếu để hoạt động
sản xuất có hiệu quả. Chất lượng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ quyết định
hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh là một đơn vị hạch toán
độc lập, tự tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đối với doanh nghiệp thương

mại phải tiến hành rất nhiều hoạt động khác nhau như tạo nguồn, mua hàng, nghiên cứu thị
trường, quản lý dự trữ…..thì trong đó khâu tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng, mấu chốt
nhất. Chỉ có tiêu thụ sản phẩm tốt thì doanh nghiệp thương mại mới có thể thu hồi vốn kinh
doanh, thu lợi nhuận và tái mở rộng kinh doanh. Có thể nói rằng tiêu thụ sản phẩm phản ánh
đầy dủ những điểm mạnh và điểm yếu ủa doanh nghiệp. Sự cần thiết của hoạt động tiêu thụ
sản phẩm thể hiện rõ ở những vai trò của nó như:
Tiêu thụ sản phẩm là khâu phản ánh kết quả cuối cùng của sản xuất kinh doanh. Doanh
nghiệp có thể đặt ra nhiều mục tiêu cho quá trình hoạt động kinh doanh và phát triển của mình


và chính quá trình tiêu thụ sản phẩm sẽ phản ánh sự đúng đắn, mục tiêu của chiến lược kinh
doanh, phản ánh sự nỗ lực cố gắng của doanh nghiệp trên thị trường đồng thời thể hiện trình
độ tổ chức, năng lực điều hành, tỏ rõ thế và lực của doanh nghiệp trên thị trường.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất “tái sản xuất ra sản
phẩm để bán” – đó là phương châm cơ bản của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, ngay cả khi doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm tuyệt vời về chất lượng, mẫu mã,
kiểu dáng, song điều đó không có ý nghĩa nếu như những sản phẩm đó không được đưa ra thị
trường và được thị trường chấp nhận. Hơn bất kỳ một doanh nghiệp nào dù có quy mô lớn
đến đâu thì nguồn lực của nó cũng có giới hạn, họ sẽ chỉ sản xuất tới một giới hạn nào đó rồi
sẽ dừng hoạt động nếu không tái tạo lại nguồn lực sản xuất. Do đó để có thể tái sản xuất và tái
sản xuất mở rộng thì doanh nghiệp phải tiêu thụ sản phẩm do chính mình sản xuất ra. Chính
khâu tiêu thụ lúc này lại là khâu quyết định doanh nghiệp có tiếp tục hoạt động được nữa
không. Nếu hoạt động tiêu thụ diễn ra suôn sẻ, sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ,
doanh thu đủ để bù đắp chi phí và có lãi thì doanh nghiệp có đủ điều kiện để tiếp tục phát
triển và ngược lại doanh nghiệp sẽ phải rút lui khỏi thị trường.
Tiêu thụ sản phẩm được thực hiện theo kế hoạch kinh doanh đã vạch ra, hàng hóa của
doanh nghiệp được khách hàng chấp nhận, uy tín của doanh nghiệp được giữ vững và củng cố
trên thương trường. Bán hàng trong khâu tiêu thụ sản phẩm có quan hệ mật thiết với khách
hàng ảnh hưởng đến niềm tin, uy tín và sự tái tạo nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó tiêu thụ
sản phẩm cũng là vũ khí cạnh tranh mạnh mẽ của doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh

tranh.
Tiêu thụ sản phẩm là một mắt xích quan trọng trong thực hiện mục đích kinh doanh của
doanh nghiệp là lợi nhuận. Vì vậy nó quyết định và chi phối các hoạt động nghiệp vụ khác
của doanh nghiệp như: nghiên cứu thị trường, tạo nguồn, mua hàng, dịch vụ, công tác dự
trữ….
Tiêu thụ sản phẩm có vai trò gắn kết người sản xuất với người tiêu dùng, trực tiếp thực
hiện các chức năng lưu thông hàng hóa phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Đảm
bảo cân đối giữa cung và cầu, ổn định giá cả thị trường. Khi doanh nghiệp có lãi, tiếp tục ái
sản xuất thì doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng các nguồn lực xã hội làm yếu tố đầu vào như:
nguyên liệu, vốn, sức lao động và mua các yếu tố khác của doanh nghiệp bạn. Do đó tạo ra
hàng loạt các hoạt động dây chuyền kế tiếp thúc đẩy sự đi lên, phát triển cả nền kinh tế quốc
dân. Như vây, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp không những có vai trò to lớn đối với bản
thân doanh nghiệp đó mà nó còn có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với xã hội.

Chương 2. Thực trạng vấn đế nghiên cứu
1.2.Qúa trình ra đời và phát triển của công ty


1.1.2. Sơ lược về công ty
-Tên công ty viết bằng tiếng việt: CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VIỆT
HOÀNG
-Tên công ty viết bằng tiếng nước ngoài: VIET HOANG TRADING
COMPANY LIMITED
-Tên công ty viết tắt: VIET HOAN TRADING CO., LTD
-Địa chỉ trụ sở chính: Số 44 Phạm Tử Nghi, Tổ 9, Phường Nghĩa Xá, Quận Lê
Chân, TP Hải Phòng, Việt Nam.
-Số điện thoại: 0313.914.898
-Số fax: 0313.914.969
-Mã số thuế: 0200644026
-Email:

-Wedsite:
-Ngày cấp: 29/8/2005
-Ngày đăng ký thay đổi lần 2: 14/9/2011
-Nơi cấp: Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng
-Tài khoản:1100094521 tại Ngân hàng SHB chi nhánh Hồng Bàng – Hải Phòng
-Vốn điều lệ: 1.000.000.000 đồng
-Bằng chữ: Một tỷ đồng
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Công ty TNHH thương mại Việt Hoàng – tên giao dịch quốc tế: VIET HOANG
TRADING COMPANY LIMITED. Tên viết tắt: VIET HOANG TRADING CO., LTD
Công ty được thành lập vào tháng 8 năm 2005, có trụ sở chính tại: Số 44 Phạm
Tử Nghi, tổ 9, Phường Nghĩa Xá, Quận Lê Chân, TP Hải Phòng, Việt Nam.
Công ty được thành lập dựa trên căn cứ Luật doanh nghiệp năm 2005 được
Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày
29/11/2005 và các văn bản pháp lý có liên quan.
Công ty TNHH thương mại Việt Hoàng có tư cách pháp nhân, có quyền và
nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh
của mình trong số vốn do công ty quản lý, có con dấu riêng, có tài sản và các quỹ tập
trung, được mở tài khoản tại ngân hàng theo quy định của Nhà nước.
Là một công ty TNHH, trải qua 9 năm hoạt động và phát triển công ty TNHH
thương mại Việt Hoàng là cả một chặng đường dài không ngừng phấn đấu để khẳng
định và đứng vững trên thương trường. Doanh thu ngày càng lớn, đời sống công nhân
viên ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng. Có được
thành tích như ngày hôm nay do nhờ ban lãnh đạo và tập thể của Công ty đã phấn đấu
vượt qua khó khăn về tài chính và nguồn nhân lực, đưa công ty nhỏ trở thành đơn vị kinh
doanh hiệu quả.
Quy mô và sự phát triển của công ty:
+ Năm 2005 – 2009: Công ty xây dựng nhà xưởng trị giá 792 080 661 đồng
+ Năm 2011: Công ty mua thêm 2 ô tô là Toyota Altis trị giá 765 454 545 đồng và



Toyota Kia morning trị giá 339 090 909 đồng.
+ Năm 2012: Công ty mua thêm xe ô tô Toyota Yaris trị giá 769 110 455 đồng.
+ Năm 2013: Công ty đầu tư thêm 1 xe tải Ford Ranger trị giá 688 721 818 đồng, 1 máy

xúc Komatsu trị giá 363 636 364 đồng, 1 máy xúc lật Mitsubishi trị giá 272 727 273 đồng.
Qúa trình tổ chức sản xuất kinh doanh cuả công ty dần được ổn định. Dưới sự lãnh
đạo của giám đốc công ty cùng với sự có gắng nỗ lực của toàn thể công nhân viên, công ty đã
không ngừng phát triển, cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện phương pháp quản lý, từng bước đầu tư
đổi mới ttrang thiết bị. Vì vậy số lượng sản phẩm sản xuất ngày càng tang cũng như chất
lượng ngày càng được nâng lên, tạo được uy tín với khách hàng và sớm khẳng định được khả
năng của mình.

Từ đó đến nay công ty hoạt động theo luật doanh nghiệp của nhà nước ban
hành và không ngừng phát triển đồng thời thu được nhiều thành quả vượt chỉ tiêu đề
ra.
1.1.4. Chức năng và nhiệm vụ của công ty
Chức năng của công ty:
Công ty kinh doanh, sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét (đây là ngành sản
xuất chính của doanh nghiệp); sản xuất các sản phẩm chịu lửa, các sản phẩm từ plastic,
sản xuất sơn, véc ni và các chất sơn quét tương tự, mực in và matit; Buôn bán các loại
máy móc thiết bị điện – xây dựng; Xây dựng các công trình đường vận tải và các hoạt
động dịch vụ khác.
Nhiệm vụ của công ty:
Chính thức đi vào hoạt động vào ngày 1/9/2005, nhiệm vụ chính của công ty
là sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét cung ứng cho nhu cầu địa bàn TP Hải Phòng.
Trong những năm qua công ty đã cung cấp cho thị trường hàng triệu tấn sản phẩm chất
lượng cao. Sản phẩm của công ty luôn được thị trường đánh giá cao, tương xúng với
quy mô và uy tín của công ty về sản xuất vật liệ xây dựng từ đất sét.
1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty

1.2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu bộ máy tổ chức của công ty TNHH thương mại Việt
Hoàng
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM
ĐỐC


Phòng
Kế
Toán

Phòng
Hành
Chính

Phòng
Kỹ
Thuật

Phòng
Kinh
Doanh

Phân
xưởng
sản
xuất 1

Phòng

Sản
Xuất

Phòng
Quản
Lý SX

Phòng
Bảo
Vệ

Phân
xưởng
sản
xuất 2

1.2.2. Chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận trong bộ máy quản lý
- Giám đốc công ty:
+ Chỉ đạo công tác lập kế hoạch chiến lược, ra các quyết định chỉ đạo triển khai
việc thực hiện trong phạm vi toàn công ty.
+ Tổ chức bộ máy quản lý bố trí hợp lý các phòng ban chức năng và lực lượng
lao động đảm bảo sự bền vững, nhịp nhàng, ăn khớp trong mọi hoạt động nhằm hoàn
thành mục tiêu đề ra.
+ Tổ chức công tác kiểm tra, điều chỉnh mọi hoạt động theo đúng quỹ đạo, phù
hợp với môi trường bên ngoài đảm bảo hiệu quả.
+ Chịu trách nhiệm trước Công ty, pháp luật Nhà nước về tài sản tiền vốn và
các chế độ chính sách đối với người lao động, các khoản đóng góp theo quy định của
pháp luật.
- Phó giám đốc:
+ Giúp Giám đốc phụ trách phần kinh doanh dịch vụ (cho thuê tài sản), tham

mưu đề xuất phương án cải tạo, đầu tư nâng cấp nhằm thu hút đối tác tạo nguồn thu từ
hoạt động kinh doanh dịch vụ cho Công ty.
+ Phó giám đốc chịu trách nhiện trước giám đốc về công việc được giao.
- Phòng Kế toán:
+ Thu thập, xử lý các thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công
việc, theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
+ Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp, thanh


toán công nợ, kiểm tra việc quản lý tài sản và nguồn hình thành tài sản, phát hiện và
ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán.
+ Phân tích thông tin, số liệu kế toán, tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ
các yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị.
+ Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của pháp luật.
- Phòng Hành chính:
+ Tổng hợp có chức năng tham mưu cho Giám đốc về việc sắp xếp, bố trí lao
động phù hợp giữa trình độ năng lực và công việc.
+ Giải thích các chính sách và nội quy của Công ty, theo dõi và giải quyết các
chế độ chính sách, quyền lợi đối với cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. Quản
lý, lưu trữ hồ sơ cán bộ công nhân viên, quản lý tổ lái xe, văn thư, bảo vệ, kinh doanh.
- Phòng kỹ thuật:
Là áp dụng những phương pháp quá trình và kĩ thuật trong lĩnh vực chuyên
môn. Những kĩ năng này rất cần thiết đối với nhà nghiên cứu thị trường, chuyên viên
kế toán
+ Chịu trách nhiệm sửa chữa và quản lý máy móc thiết bị.
+ Hỗ trợ và truyền đạt các thông tin cho khách hàng về vấn đề chất lượng.
+ Nắm vững các yêu cầu kĩ thuật khi làm việc với đối tác và khách hàng.
+ Thực hiện chỉ đạo và giám sát công tác kĩ thuật của các sản phẩm theo thiết kế
công nghệ, tham mưu, quản lý, chỉ đạo công tác phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật
trong sản xuất. Tham mưu và chủ trì thực hiện công tác quản lý máy móc thiết bị, chủ

trì xây dựng và định mức vật tư kĩ thuật.
+ Thực hiện công tác kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu đầu vào cũng như sản
phẩm đầu ra và các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết trong quá trình sản xuất, vận hành.
+ Làm thí nghiệm test các mẫu nguyên vật liệu tại lò nung.
- Phòng kinh doanh:
+ Nghiên cứu thị tường đầu vào, đầu ra, tìm hiểu nhu cầu thị trường, xây dựng
chiến lược, sách lược kinh doanh của Công ty nhằm mở rộng phạm vi kinh doanh, mặt
hàng kinh doanh, đáp ứng nhu cầu và xu thế phát triển của thị trường trong từng giai
đoạn.
+ Phân tích, đánh giá khả năng của Công ty, khả năng của thị trường và môi
trường kinh doanh. Đưa các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình kinh doanh của Công


ty.
+ Lập kế hoạch, phương án hoạt động trình Giám đốc.
+ Quản lý, điều hành mọi hoạt động của cửa hàng kinh doanh xăng dầu trên địa
bàn thành phố và các khu vực lân cận.
- Phòng sản xuất:
+ Phân công lao động vào từng nhiệm vụ cụ thể, từng công việc cụ thể để đảm
bảo tiến độ sản xuất cũng như phù hợp với hoạt động kinh doanh của công ty.
+ Cụ thể hóa chiến lược sản xuất của công ty.
+ Cụ thể hóa mục tiêu sản xuất của công ty.
-Phòng quản lý sản xuất:
+ Lập kế hoạch điều độ sản xuất trình Giám đốc, để có quyết định sản xuất hợp
lý.
+ Thường xuyên theo dõi, kiểm tra cũng như giám sát quá trình sản xuất từ đó
có điều chỉnh thích hợp để đảm bảo tiến độ sản xuất.
+ Đảm bảo ổn định sản xuất cũng như quá trình cung ứng hàng hóa một cách
tối ưu nhất.
+ Xây dựng mục tiêu sản xuất trong từng thời kỳ cụ thể phù hợp với chiến lược

kinh doanh của công ty.
-Phòng bảo vệ:
+ Đảm bảo an ninh cho doanh nghiệp bao gồm cả văn phòng công ty và khu
vực phân xưởng.
+ Bảo vệ các thiết bị sản xuất, máy móc thiết bị, nhà xưởng…, nguyên nhiên
vật liệu cho doanh nghiệp
1.3. Kết quả phân tích tình hình, thực trạng của vấn đề nghiên cứu
( Lấy số liệu kết quả hoạt động kinh doanh của công ty )
Như vậy thông qua kết quả hoạt động của Công ty ta thấy kết quả sản xuất kinh doanh
của công ty trong những năm gần đây biến động tăng – giảm không ổn định, có sự biến thiên
tương đối nhỏ, với sản phẩm nòng cốt là sản xuất vật liệu xây dựng từ đất sét. Do là một công
ty trẻ nên những năm đầu công ty đang trong giai đoạn đầu tư các loại máy móc thiết bị để
hoàn thiện quá trình sản xuất. Đồng thời công ty cũng có nhiều chính sách thâm nhập vào thị
trường một cách bền vững có xu hướng giảm. Nhưng bên cạnh đó tỷ suất lợi nhuận (tỷ suất
sinh lời) tương đối ổn định.
Vốn của công ty tăng lên là do nhu cầu mở rộng thị trường, trang bị các trang thiết bị


hiện đại, công ty cần có lượng vốn đủ để các hoạt động của công ty diễn ra hiệu quả.

Do yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao cũng như cải thiện cơ
cấu tổ chức, ổn định cán bộ nhân viên, giảm thiểu sự cồng kềnh trong tổ chức vì vậy
mà trong công ty có sự thanh lọc đội ngũ nhân viên, trong những năm gần đây số
lượng lao động có xu hướng giảm. Nhưng đời sống nhân viên ngày càng được cải
thiện và nâng cao, thể hiện ở mức thu nhập bình quân ngày tăng dần qua các năm .
Như vậy xét trên mặt doanh thu thì nhìn chung đánh giá chủ quan thì công ty hoạt
động tương đối hiệu quả, doanh thu tăng trong những năm gần đây, năm sau cao hơn năm
trước.
Do biến động của nền kinh tế thị trường mà tình hình phát triển của công ty cũn biến
động trong những năm gần đây. Để cạnh tranh được với các công ty khác trong lĩnh vực vật

liệu xây dựng đòi hỏi công ty phải có sự cải tiến về mặt kỹ thuật. Năm 2013 có lợi nhuận
giảm đáng kể, một phần nguyên nhân cũng là do công ty đầu tư mạnh vào trang thiết bị hiện
đại để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.

Thu nhập bình quân của người lao động cũng tăng lên đáng kể trong những
năm qua góp phần nâng cao đời sống của người lao động, tiến tới ổn định cuộc sống
cho công nhân, có như thế mới tạo cho họ hứng khởi làm việc từ đó tạo điều kiện cho
doanh nghiệp nâng cao được năng suất lao động.
Nộp ngân sách nhà nước của công ty năm 2013 giảm so với năm 2012 . Doanh thu, lợi
nhuận tăng, doanh nghiệp đóng góp cho nhà nước nhiều hơn, lương bình quân cho người lao
động nâng cao, giúp người lao động nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các chỉ tiêu khác thì nhìn chung đều tăng lên báo hiệu một xu hướng phát triển thuận
lợi cho doanh nghiệp cho những năm tiếp theo. Doanh nghiệp nên có kế hoạch để tiếp tục
phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời cũng nên có kế hoạch nghiên cứu tình hình
thực tế để kịp thời phát hiện ra những nguyên nhân tiêu cực hạn chế sự phát triển của công ty
từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời, đảm bảo cho công ty luôn phát triển ổn định và ngày
càng vững mạnh hơn.

Công ty hiện nay chuyên sản xuất và phân phối các sản phẩm vật liệu xây dựng
từ đất sét. Công ty bắt đầu đi vào hoạt động từ đầu năm 2005 và đã dần lấy được lòng
tin của khách hàng nhờ sản phẩm có chất lượng và chính sách có lợi cho khách hàng.
Công ty nhanh chóng mở rộng thị trường ra các thị trường tiềm năng như: Phú Thọ,
Hà Nội, các khu vực phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai… đến nay thương hiệu vật liệu xây dựng từ đất sét đã có 1 vị thế nhất định trên thị
trường.


Khả năng thanh toán tổng quát.
Nhìn vào bảng phân tích ta có thể thấy rằng hệ số thanh toán tổng quát của công
ty qua các năm tăng rõ rệt. Chứng tỏ rằng công ty đang ngày càng giảm tổng vốn vay

của mình. Nhìn chung hệ số khả năng thanh toán của công ty có xu hướng tăng mạnh,
đây là một tín hiệu tốt đối với công ty, vì điều này sẽ làm tăng khả năng huy động vốn
của công ty cũng như tăng uy tín của công ty. Đây chỉ là hệ số thanh toán tổng quát, cụ
thể ta đi sâu phân tích vào từng hệ số cụ thể sau đây.
Khả năng thanh toán hiện hành
Qua bảng phân tích ta thấy rằng hệ số thanh toán hiện hành của công ty đang có xu
hướng tăng dần qua các năm.

Việc tăng hệ số thanh toán hiện hành qua các năm như thế này sẽ ảnh hưởng lớn
đến việc vay vốn của công ty. Tuy nhiên dùng tài sản lưu động để đánh giá khả năng
thanh toán của công ty thì vẫn chưa chính xác lắm vì nó bao hàm cả những tài sản có
tính thanh khoản không cao như hàng tồn kho. Vì vậy để rõ hơn chúng ta đi qua phân
tích khả năng thanh toán nhanh.
Khi xét qua hệ số thanh toán nhanh thì chúng ta thấy rằng khả năng thanh toán
của công ty rất hiệu quả vì khối lượng các sản phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng thấp trong
tài sản ngắn hạn. Bên cạnh đó việc giảm nợ ngắn hạn hàng năm đã làm cho chỉ số này
trở nên cao lên. Công ty cần phát triển và tận dụng lợi thế này.
Khả năng thanh toán tức thời.
Cũng như hệ số thanh toán nhanh, sau khi loại bỏ tiếp những tài sản ngắn hạn khác để
xem xét khả năng thanh toán tức thời thì qua bảng phân tích ta thấy hệ số này là thấp
so với nợ ngắn hạn tăng nhẹ trong các năm qua. Việc lượng tiền dự trữ đủ đáp ứng khả
năng chi trả sẽ dẫn đến nhiều mặt lợi cho công ty trong việc các nhà cung cấp, cũng
như các tổ chức tín dụng bất ngờ thu hồi các khoản nợ nhưng việc này có khả năng rất
thấp. Nên việc sử dụng vốn đi chiếm dụng để gia tăng hiệu quả của lợi nhuận là một
biện pháp tốt, cũng như sử dụng tiền trong việc thúc đẩy nhanh quá trình xoay vòng
vốn cho công ty. Nhưng công ty cũng không nên chủ quan mà phải có hướng đề phòng
rủi ro không đáng có trong những năm tới.
1.4.3 Những nguyên nhân yếu kém, khuyết điểm:
3.2. Yếu kém
Mặc dù trong quá trình tồn tại và phát triển công ty đã đạt được nhiều thành tựu song

cũng không tránh khỏi hạn chế, sau đây là một số hạn chế của công ty:


Việc quản lý kho còn lỏng lẻo, gây ra tình trạng thiếu hụt trong tải trong chuyến hàng
cụ thể.
Một số bộ phận còn chưa hoàn thành đúng nhiệm vụ của mình
Còn có tình trạng ỷ lại vào nhau
Công tác sản xuất còn gặp nhiều bất cập

3.3. Nguyên nhân của yếu kém
- Công tác quản trị nhân sự của công ty còn chưa đủ chặt chẽ, còn nhiều điểm bất cập
không hợp lý, cần bổ sung người mới có đủ năng lực, trình độ đảm đương nhiệm vụ
được giao.
- Máy móc thiết bị còn chưa được đầy đủ, cần phải bổ sung thêm
- Nơi cung cấp nguyên vật liệu còn ít, phải tăng cường tìm hiểu mở rộng thêm thị
trường đầu vào, đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, ổn định, tạo tiền
tề cho công tác tiêu thụ sản phẩm
- Sự phân công bố trí nhân sư vào nhiệm vụ cụ thể còn chưa hợp lý.
Chương 3: Đề ra giải pháp
1. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu phát triển công ty:
Kế hoạch hóa là một hoạt động có hướng đích của chính phủ, của các doanh nghiệp hau hộ
gia đình nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Chức năng chủ yếu của kế hoạch hóa là tính
toán các nguồn tiềm năng, dự kiến khai thác các khả năng có thể huy động và phối hợp với
các nguồn tiềm năng ấy theo những định hướng chiến lược đã định để tạo nên một cơ cấu hợp
lý, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và giữ cân bằng các yếu tố trên tổng thể. Trong nền kinh tế thị
trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu hàng
đầu, là mục tiêu bao trùm lên các mục tiêu khác. Kế hoạch cho phép các doanh nghiệp biết
đến hướng đi trong thời gian sắp tới, nó lsf cơ sở để xem xét các hoạt động khác của công ty
như: tài chính, vốn, thị trường, khách hàng, môi trường kinh doanh… và với mỗi sự thay đổi
thì doanh nghiệp có cách ứng phó phù hợp với mỗi thay đổi đó. Do vây, hiện nay vai trò của

kế hoạch hóa không giảm đi mà ngày càng tăng như một công cụ, một yếu tố để tổ chức và
quản trị các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Trong nền kinh tế quốc dân,
kế hoạch hóa có thể chia làm hai loại: một là kế hoạch kinh tế - xã hội (kế hoạch vĩ mô) là kế
hoạch của chính phủ đây là kế hoạch định hướng, hướng dẫn cho sự phát triển và những cân
đối lớn của nền kinh tế quốc dân, kế hoạch này phải vừa đảm bảo thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh vừa đảm bảo thống nhất giữ tăng trưởng kinh tế với công bằng và ổn định xa hội, hai là
kế hoạch sản xuất – kinh doanh cuả các doanh nghiệp (kế hoạch vi mô), kế hoạch này do các
doanh nghiệp tự xây dựng và tự thực hiện trên định hướng của kế hoạch vĩ mô, dựa trên


nguồn lực của doanh nghiệp và thị trường của doanh nghiệp. Kế hoạch vĩ mô phải đạt mục
tiêu: vừa đảm bảo nhu cầu về hàng hóa hoặc dịch vụ của xã hội vừa đảm bảo cho doanh
nghiệp đạt được lợi nhuận. Lợi nhuận để sản xuất kinh doanh. Cụ thể căn cứ vào tiêu thức
thời gian thì kế hoạch kinh doanh có thể chia thành:
Kế hoạch dài hạn: Có thể coi đây là một chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nó
định hướng cho mọi hoạt động của doanh nghiệp trong một thời gian tương đối dài và bao
gồm hệ thống những mục tiêu chính sách, biện pháp thực hiện những mục tiêu đó của doanh
nghiệp.
Kế hoạch trung hạn: Thường có thời gian 2 – 3 năm nhằm phác thảo chương trình
trung hạn để thực hiện kế hoạch hóa dài hạn,tức là để đảm bảo tính khả thi, lĩnh vực mục tiêu,
chính sách và giải pháp được hoạch đinh trong chiến lược đã chọn.
Kế hoạch 1 năm: Kế hoạch này cụ thể những mục tiêu, phương hướng hoạt động của
doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch. Có thể nói đây là kế hoạch điều hành bao gồm cả việc thiết
lập các cân đối, cụ thể trên cơ sở nghiên cứu, dự báo thị trường mà điều chỉnh các kế hoạch
tiếp theo
Căn cứ vào các mối quan hệ giữa các kế hoạch trong phạm vi doanh nghiệp. Kế
hoạch kinh doanh – kỹ thuật – tài chính – xã hội ở doanh nghiệp thương mại bao gồm:
Kế hoạch lưu chuyển hàng hóa: đây là kế hoạch hoạt động kinh doanh chủ yếu của
doanh nghiệp thương mại. Kế hoạch này phản ánh chức năng, nhiệm vụ quan trọng nhất, đặc
trưng nhất của doanh nghiệp thương mại là lưu chuyển hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh

vực tiêu dùng. Kế hoạch lưu chuyển hàng hóa của doanh nghiệp phản ánh toàn bộ khối lượng
công việc, nghiệp vụ chủ yếu của doanh nghiệp: mua vào, bán ra, dự trữ hàng hoá. Đây vừa là
mục tiêu vừa là điều kiện để doanh nghiệp thương mại đạt được mục đích của hoạt động kinh
doanh. Hơn nữa các chỉ tiêu của kế hoạch lưu chuyển hàng hóa còn là căn cứ quan trọng để
xây dựng các kế hoạch khác như: kế hoạch vốn kinh doanh, kế hoạch chi phí lưu thông, kế
hoạch lao động.... Kế hoạch lưu chuyển hàng hóa của doanh nghiệp thương mại là bảng tính
toán tổng hợp những chỉ tiêu bán ra, mua vào và dự trữ hang hóa, đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, trên cơ sở khai thác tối đa các khả năng có thể có của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
Kế hoạch lưu chuyển hàng hóa của doanh nghiệp thương mại bao gồm ba bộ phận chủ yếu:

+ Kế hoạch bán hàng
+ Kế hoạch mua hàng
+ Kế hoạch dự trữ hàng hóa
Kế hoạch kỹ thuật bao gồm các chỉ tiêu trang thiết bị mới, các biện pháp cải
tiến và áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Kế hoạch tài chính – tiền tệ: Bao gồm kế hoạch huy động và sử dụng vốn
kinh doanh, kế hoạch chi phí lưu thông, kế hoạch doanh thu và lãi lỗ, kế hoạch giá cả,


kế hoạch nộp ngân sách……
Kế hoạch vận chuyển bao gồm: Kế hoạch vận chuyển hàng hóa từ nơi mua
đến kho của doanh nghiệp và kế hoạch vận chuyển hàng hóa tới tay khách hàng của
doanh nghiệp. Kế hoạch nay xác định xem là doanh nghiệp sẽ thực hiện việc vận
chuyển hàng hóa từ nơi mua về kho hay là doanh nghiệp cung ứng làm doanh nghiệp
thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hóa cho khách hàng hay khách hàng tự vận
chuyển.
Kế hoạch hóa kho tàng: Tạo ra cơ sở cho các quyết định dự trữ dài và ngắn
hạn. Các quyết định dài hạn đề cập trước hết đến việc lựa chọn địa điểm kho tàng, vấn
đề hình thành và tổ chức kho tàng. Các quyết định kho tàng như thế mang đặc điểm
chỉ một lần quyết định cho cả một thời kỳ dài. Các quyết định ngắn hạn đề cập đến vấn

đề lưu kho và thời gian lưu kho trung bình.
Sự cần thiết của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Từ những bài học thực tế, không chỉ các nước theo mô hình quản lý tập trung mà ở
các nước kinh tế thị trường phát triển và đặc biệt là ở các nước đang phát triển thuộc thế giới
thứ ba về việc chấp nhận và áp dụng khá rộng rãi công tác kế hoạch hóa phần nào đã khẳng
định rằng: Sự tồn tại của công tác kế hoạch hóa nói chung, kế hoạch thương mại nói riêng là
một yếu tố khách quan cần phải được tăng cường và đổi mới. Xết về mặt bản chất thì kế
hoạch hóa là một hoạt động chủ quan có ý thức, có tổ chức của con người, con người trước
khi bắt tay vào làm việc gì đều hình dung trước công việc và suy nghĩ cách làm tối ưu nhất
đối với mình, dự kiến trước các tình huống xảy ra để chủ động ứng phó, có thể nói là kinh
nghiệm được truyền từ đời này qua đời khác. Con người không bằng long với hiện tại mà luôn
có xu hướng phấn đấu vươn lên để có kết quả ngày càng tốt đẹp. Do đó con người luôn đề ra
các chỉ tiêu để mình phấn đấu thực hiện và việc chuẩn bị trước tất cả các điều kiện để tiến
hành công việc đó cũng có thể được xem như một phần công tác kế hoạch hóa.

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tùy theo nghành nghề kinh
doanh, đặc điểm sản xuất cũng như mục tiêu đặt ra. Doanh nghiệp phải hình thành phi
hoạch định ra những công đoạn, cách thức tổ chức tiến hành công việc ở mỗi công
đoạn khác nhau. Đó là cơ sở cho các hoạt động khi chính thức bước vào sản xuất kinh
doanh. Mặt khác doanh nghiệp được tổ chức từ nhiều thành viên khác nhau từ người
quản lý đến đội ngũ công nhân. Các thành viên này phải có sự lien kết chặt chẽ thông
qua công việc của mình. Muốn vậy, họ phải nắm được các nội dung, mục tiêu của
công việc là gì, cách thức tiến hành như thế nào, trình tự tiến hành…. Tất cả những
vấn đề đặt ra đó là nhiệm vụ cũng như nội dung của công tác kế hoạch hóa trong
doanh nghiệp.


Kế hoạch kinh doanh chính là một công cụ, một yếu tố để tổ chức và quản trị các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sao cho có hiệu quả. Kế hoạch kinh doanh có
chức năng chủ yếu là tính toán các tiềm năng, dự kiến khai thác các khả năng có thể

huy động và phối hợp các nguồn tiềm năng ấy theo những định hướng chiến lược đã
định để tạo ra một cơ cấu hợp lý thúc đẩy tăng trưởng nhanh và giữ cân bằng các yếu
tố trên tổng thể.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là kế hoạch cơ bản và là một bộ phận hợp thành kế hoạch kinh
doanh của doanh của doanh nghiệp. Nó có mối quan hệ mật thiết và còn là cơ sở để lập các kế
hoạch khác trong doanh nghiệp như: kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính… Hơn nữa tiêu
thụ sản phẩm là khâu quan trọng nhất và là kế hoạch chủ yếu của kế hoạch kinh doanh trong
doanh nghiệp thương mại.
Ý nghĩa của kế hoạch tiêu thụ
Là một khâu trong kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
có đầy đủ các vai trò của kế hoạch kinh doanh, mặt khác nó còn có ý nghĩa sống còn đối với
doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cả về quy mô vầ vị thế
của doanh nghiệp trên thương trường.
Góp phần làm cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục có hiệu quả. Nhờ có kế hoạch
thị trường mà doanh nghiệp nắm bắt thị trường, nguồn hàng, ký kết các hợp đồng kinh tế. Mặt
khác nó còn có tác dụng định hướng vươn lên, giúp doanh nghiệp tổ chức tốt hoạt động thị
trường tạo lợi thế cạnh tranh…
Đảm bảo cho công ty có khả năng đối phó với những biến động bất ngờ. Hơn nữa, nó
còn là cơ sở để lập các kế hoạch khác như: kế hoạch tạo nguồn, dự trữ...
Căn cứ để lập kế hoạch tiêu thụ:
Nhu cầu thị trường về sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm: Sản phẩm chất lượng giá
cả, thời gian đáp ứng ở hiện tại và tương lai.

Phương án kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn.
Chiến lược và chính sách kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là quan
điểm chỉ đạo, nguyên tắc chi phối các hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Các đơn hàng, hợp đồng mua bán hàng hóa đã được ký kết với khách hàng.
Đối thủ cạnh tranh cũng là yếu tố quan trọng để xây dựng kế hoạch tiêu thụ san
phẩm của doanh nghiệp.
Chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước, sự thay đổi của môi trường kinh

doanh, văn hóa, xã hội, pháp luật…
Nội dung và các chỉ tiêu của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Muốn cho hoạt động này được tiến hành tốt thì


hoạch định một chương trình cụ thể làm cơ sở để thực hiện. Đó là kế hoạch tiêu thụ
sản phẩm. Nó bao gồm các nội dung sau:
- Kế hoạch khách hàng:
Trong những năm gần đây khách hàng là đối tượng luôn được các doanh nghiệp
đưa lên hàng đầu trước khi bước vào sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó. Vì
khách hàng sẽ là người trả lời kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, họ quyết
định đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Do đó khi xây dựng kế hoạch khách hàng phải nghiên cứu để hiểu rõ tâm lý, thị
hiến của người tiêu dùng. Mỗi doanh nghiệp đều có đối tượng khách hàng rất đa dạng.
Xác định đúng đắn tiêu chí phân loại khách hàng có ý nghĩa với doanh nghiệp để định
hướng nhóm khách hàng chủ yếu, thứ yếu, nhóm khách hàng hiện hữu và nhóm khách
hàng tiềm năng.
Kế hoạch khách hàng là tập trung vào nhóm khách hàng chủ yếu của doanh
nghiệp. Ở đây kế hoạch cần chỉ ra nhu cầu của khách hàng trên các vùng địa lý khác
nhau tập hợp các nhu cầu đó xem có phù hợp với khả năng, tiềm lực mà công ty có thể
thể đáp ứng được hay không. Tức là doanh nghiệp phải chỉ ra nhóm khách hàng mục
tiêu, nhóm khách hàng tiềm năng.
Trong trường hợp công ty có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngay trong
thời gian tới thì tiến hành của hàng động nhằm thoả mãn nhu cầu đó. Ngoài ra công ty
có thể dùng biện pháp quảng cáo, khuyến trương, khuyến vào, tiếp thị để thu hút
những khách hàng tiềm năng.
Với khẩu hiệu “khách hàng luôn đúng”, kết hợp với tiềm năng của công ty. Kế
hoạch khách hàng phải chỉ ra được nhóm khách hàng cần được đáp ứng trong thời gian
tới, và phương hướng thu hút thêm khách hàng mới có thể trong thời gian tới.

-

Kế hoạch thị trường:
Thị trường của doanh nghiệp là nơi mà doanh nghiệp có thể đem sản phẩm sản

xuất của mình ra trao đổi, lưu thông, bán để thu lại khoản tiền, sau khi đã trừ đi tổng
chi phí để có sản phẩm và chi phí bán hàng còn lại một khoản dôi ra đó là lợi nhuận.
Như vậy, thị trường quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu sản phẩm sản xuất ra đem bán hết trên thị trường thì chứng tỏ rằng sản phẩm đã
được thị trường chấp nhận còn ngược lại thị trường không chấp nhận sẽ dẫn tới ứ đọng
hàng hoá không tiêu thụ được dẫn đến doanh nghiệp đến bờ vực của sự phá sản.
Việc lập kế hoạch thị trường tức là chỉ ra những thị trường mà sản phẩm của


công ty có thể chiếm lĩnh. Đó là thị trường trọng điểm ngoài ra còn có thể mở rộng ra
với những thị trường mới. Khi đã xác định rõ thị trường cho doanh nghiệp. Do yếu tố
cạnh tranh là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường. Nên để đảm bảo có thị
trường vững chắc phải thường xuyên tổ chức nghiên cứu thị trường với các nội dung
như: cung cầu, giá cả, các đối thủ cạnh tranh... từ đó có thể đưa ra những chiến dịch
quảng cáo, tiếp thị. Kế hoạch tiếp thị cũng được đưa ra. Với thị trường truyền thống có
thể lựa chọn kế hoạch tiếp thị mở rộng thị trường hoặc kế hoạch tiếp thị phòng ngự,
bảo vệ thị trường với thị trường mới phải có kế hoạch tiếp thị mở cửa thị trường.
-

Kế hoạch sản phẩm:

Trên cơ sở ngành nghề sản xuất kinh doanh chính của công ty và tiềm năng có
thể khai thác. Công ty nên sản xuất sản phẩm với khối lượng bao nhiêu, chất lượng
như thế nào. Trong năm tới nên thay đổi mẫu mã quy cách, màu sắc... sản phẩm như
thế nào để phù hợp với thị trường và nhu cầu của khách hàng. Với một bảng phân tích

sản phẩm qua các thời kỳ tiêu thụ trước kết hợp với những biến động của môi trường
kinh doanh cộng với khả năng hiện tạicủa công ty có thể cho ra đời những sản phẩm
như thế nào.
Kế hoạch hoá kết quả tiêu thụ.
Tất cả các kế hoạch trên đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là kết quả tiêu thụ.
Một loạt các chỉ tiêu có thể được đưa ra như tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường của công ty
(thị phần của công ty). Nhóm khách hàng mà công ty có thể đáp ứng nhu cầu tổng
doanh thu bán hàng, chi phí phải bỏ ra cho các hoạt động tiêu thụ sản phẩm, tổng lợi
nhuận có thể đạt được, số lượng sản phẩm cần cho sự trữ để chuẩn bị cho kỳ tiêu thụ
tiếp theo.
Với kết quả tiêu thụ đã được thực hiện ở kỳ trước, cộng với khả năng có thể
tiêu thụ ở kỳ này. Một kế hoạch cho kết quả tiêu thụ ở kỳ này sẽ hoàn toàn được xác
định. Dựa vào các báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính năm thực hiện. Công
ty có thể đưa ra các chỉ tiêu cụ thể.
Ngoài ra việc lập kế hoạch dựa trên mối liên quan giữa các chỉ tiêu với nhau.
Chẳng hạn như đạt mức lợi nhuận bằng 20% doanh thu số bán, muốn vậy phải tăng
ngân sách cho tiêu thụ là 2% doanh số bán... Bằng cách này người lập kế hoạch sẽ so
sánh được chi phí bỏ ra để có được một khoản lợi nhuận. Nếu chi phí bỏ ra ít để giành
lại khoản lợi nhuận lớn thì sẽ quyết định thực hiện.


Kế hoạch tiêu thụ của doanh nghiệp được xác định theo từng thời gian nhất
định: tháng, quý, năm. Là các chỉ tiêu có thể tính bằng hai cách là thước đo hiện vật
hay thước đo giá trị.
Theo thước đo hiện vật, kế hoạch tiêu thụ phản ánh số lượng sản phẩm của mỗi
loại thị trường chấp nhận theo đơn vị đo lường phù hợp như: (mét, kg, tấn, cái, hộp...)
Đây chính là căn cứ để tính mức thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong xã hội, thước đo
hiện vật có nhược điểm là không cho phép tổng hợp được kết quả sản xuất kinh doanh
là khi doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng có tính chất không so sánh được.
Theo thước đo giá trị kế hoạch tiêu thụ phản ánh giá trị tổng khối lượng sản

phẩm thị trường (tổng doanh thu) cũng như giá trị khối từng loại sản phẩm thị trường
để biểu hiện giá trị của sản phẩm thị trường ta dùng giá cả của nó. Doanh thu tiêu thụ
sản phẩm trước hết phụ thuộc vào số lượng sản phẩm và giá bán. Như vậy trong kế
hoạch tiêu thụ giá bán cũng là một dung quan trọng. Chính sách giá cho mỗi sản phẩm
có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận của doanh
nghiệp.
2. Giải pháp thực hiện:
- Công tác xây dựng kế hoạch tiêu thụ của công ty đã định hướng, chỉ dẫn tốt cho các
thành viên trong công ty thực hiện tốt công việc của mình. Đồng thời công tác nghiên
cứu thăm dò thị trường được thực hiện khá chu đáo, luôn đặt ra được những chỉ tiêu
phù hợp với năng lực của công ty vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường một cách hiệu
quả.
- Kết quả tiêu thụ của công ty khá ổn định, doanh thu cũng như sản lượng tiêu thụ qua
các năm đều tăng, không những đạt chỉ tiêu mà còn vượt kế hoạch đáng kể. Đó chính
là thành quả của sự nỗ lực cố gắng và phối hợp của các thành viên trong công ty.
- Kế hoạch tiêu thụ đã gắn người lao động với công việc được giao, làm cho họ luôn ý
thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với công ty, từ đó tạo động lực thúc
đẩy họ làm việc tăng năng suất, đạt hiệu quả.
- Doanh thu tiêu thụ của công ty luôn ổn định. Lợi nhuận từ việc bán hàng luôn đạt
được mục tiêu, đảm bảo chi trả được chi phí và các khoản phải thu khác trong công ty,
cũng như lợi ích của các thành viên góp vốn.
- Lượng hàng tồn kho của công ty liên tục giảm một cách đáng kể chứng tỏ phương
hướng chiến lược đã đề ra là rất đúng đắn.


- Không những vậy, trong năm gần đây công ty đã thu hút được rất nhiều khách hàng,
uy tín công ty ngày càng được nâng cao, người tiêu dùng biết đến nhiều hơn.
- Thị trường tiêu thụ của công ty ngày càng mở rộng, không chỉ ở các tỉnh phía bắc mà
còn cả các tỉnh phía nam như: Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng
Tàu…

- Ngoài ra công ty còn hợp tác với công ty cung ứng nguyên vật liệu xây dựng và
khoáng sản HAT (Phú Thọ) đã đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ của mặt hàng phong hóa
VH-FP-202. Đưa sản lượng cũng như doanh thu tiêu thụ của nó lên chiếm tỷ trọng cao
nhất.
- Quy mô của công ty ngày càng được mở rộng, hiện nay công ty đang tiến hành xây
thêm một xưởng sản xuất mới tại An Lão
=> Như vậy, nhờ có chiến lược kinh doanh đúng đắn, kế hoạch tiêu thụ cụ thể đã đưa
công ty ngày một phát triển, đạt được mục đích kinh doanh, mục tiêu đề ra một cách
hiệu quả nhất.
C. Kết luận và kiến nghị

1. Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ngày càng trở nên
quan trọng đối với công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp sản xuất. Lập kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm gắn liền với việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó
quyết định đến phương hướng phát triển của doanh nghiệp đồng thời ảnh hưởng tới sự
sống còn của doanh nghiệp, do đó lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ
được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm chú ý. Kết quả cuối cùng sẽ đánh giá được
thực chất năng lực kinh doanh, khẳng định được vị thế của các doanh nghiệp
Công ty TNHH TM Việt Hoàng là một doanh nghiệp trẻ. Trong quá trình hoạt
động kinh doanh, công ty gặp không ít khó khăn, thách thức cũng như những cơ hội
phát triển. Vượt lên những khó khăn như trang thiết bị còn hạn chế, cơ sở vật chất còn
kém, vốn đầu tư ban đầu còn ít, tập thể cán bộ công nhân viên công ty đã đạt được một
số thành tựu nhất định, từng bước đưa hoạt động của công ty đi vào ỏn định và làm ăn
có hiệu quả đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Với gần 10 năm hoạt động trong
ngành cung ứng vật liệu xây dựng, công ty đã tạo được nhiều uy tín, thương hiệu trên
thị trường. Chủ trương phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường – phát triển bên vững,
tối đa hóa sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng



cũng như kinh tế của địa phương.
2. Đề nghị :
- Nhà nước tạo điều kiện nguồn vốn vay lãi xuất thấp cho doanh nghiệp.
- Nhà nước có cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí chuyển giao thiết thị máy móc
hoạt động của công ty.
- Nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng vào khu công nghiệp tạo điều kiện cho
hoạt động giao thông vận chuyển hàng hóa được thuận lợi.



×