Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty cổ phần định giá và dịch vụ tài chính việt nam (VVFC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.08 KB, 102 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

Học viện Tài chính

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến
đáng kể, tốc độ tăng GDP luôn ở mức cao. Giai đoạn 2005-2010 theo dự
báo, GDP sẽ dao động trong khoảng 8-8,5%. Theo xu hướng toàn cầu hoá,
Việt Nam đã gia nhập WTO hứa hẹn một thời kỳ phát triển thịnh vượng.
Đây cũng là thời điểm bùng nổ của thị trường chứng khoán, một số lượng
lớn công ty đã niêm yết hoặc có cổ phiếu giao dịch trên các sàn giao dịch,
thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh huy động vốn hấp dẫn cho
các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhu
cầu cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, nhu cầu mua bán, sát nhập,
nhu cầu định giá cổ phiếu… đang tăng lên khiến nhu cầu định giá doanh
nghiệp trở thành vấn đề vô cùng cần thiết. Trên thế giới đã hình thành rất
nhiều phương pháp khác nhau để xác định giá trị doanh nghiệp. Nhưng
trong điều kiện của Việt Nam hiện nay xác định giá trị doanh nghiệp như
thế nào và các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp được sử dụng vẫn
còn rất nhiều điều phải bàn cãi.
Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần định giá và dịch
vụ tài chính Việt Nam (VVFC), em đã tìm hiểu, nghiên cứu và lựa chọn đề
tài cho luận văn tốt nghiệp là:
“Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty cổ
phần định giá và dịch vụ tài chính Việt Nam (VVFC)”
Đề tài tập trung nghiên cứu các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
thực tế được sử dụng tại công ty VVFC thông qua một trường hợp minh họa
cụ thể, từ đó phân tích các thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hơn các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.


Luận văn tốt nghiệp của em sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp dựa
trên những số liệu, tài liệu cụ thể được cung cấp trên công ty kết hợp với
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

2

Học viện Tài chính

những kiến thức em học ở trường, kinh nghiệm thực tế khi thực tập tại công
ty VVFC và những nghiên cứu từ các nguồn thông tin khác.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn tốt nghiệp của em gồm các chương:
Chương 1_ Lý thuyết về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
Chương 2_Thực trạng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại
công ty VVFC.
Chương 3_ Giải pháp hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp tại Công tyVVFC.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Minh Hoàng và các anh chị
trong công ty VVFC đã giúp đỡ em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp của
mình.

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01



Luận văn tốt nghiệp

3

Học viện Tài chính

Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP
1.1 Giá trị doanh nghiệp
1.1.1 Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
Xét theo lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp là chủ thể kinh tế
độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm
làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp là chủ thể quan trọng thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Con người sở hữu
doanh nghiệp, chính là sở hữu cách thức và phương tiện tạo ra lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được coi là một loại tài sản. Cũng
giống như các loại tài sản khác, doanh nghiệp cũng được đem ra mua bán,
hợp nhất, chia nhỏ… Do đó, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự chi
phối của các quy luật thị trường, trong đó có quy luật giá trị. Giá cả của
doanh nghiệp cũng phải tuân theo quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Tuy nhiên khác với tài sản thông thường, doanh nghiệp không phải là một
kho hàng, doanh nghiệp còn là một tổ chức kinh tế, một thực thể đang hoạt
động. Do vậy, không chỉ gồm các tài sản hữu hình, doanh nghiệp thực sự sở
hữu các tài sản vô hình khác như giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh,
quyền khai thác, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai… Vì
thế khái niệm giá trị doanh nghiệp phải dựa trên tài sản là doanh nghiệp
đang hoạt động, mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó

không thể tách rời, các yếu tố cấu thành hữu hình và vô hình là một thể
thống nhất.

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

4

Học viện Tài chính

1.1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp được định nghĩa là sự biểu hiện bằng tiền tại một thời
điểm nhất định về các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho
các nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh.
Giá trị thực sự của doanh nghiệp phụ thuộc vào những quan niệm về giá trị
doanh nghiệp khác nhau của từng đối tượng khác nhau.
Một cách chung nhất, giá trị doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các
khoản thu nhập mà DN đem lại cho nhà đầu tư. Do đó giá trị doanh nghiệp
khác với giá bán doanh nghiệp_được đo bằng cung, cầu “hàng hoá DN”.
Giá trị doanh nghiệp vẫn tồn tại ngay cả khi không có hoạt động mua- bán
DN, mà nó chủ yếu được coi như một tiêu chí đánh giá các khoản thu nhập
DN có khả năng đưa lại. Giá trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều
yếu tố, trong đó nhiều nhân tố đòi hỏi sự đánh giá chủ quan, biến động, khó
định lượng.
1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, bao gồm:

1.1.2.1 Yếu tố môi trường


Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô:

-

Môi trường kinh tế:

Doanh nghiệp luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh
tế đó được nhìn nhận thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng
trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ lệ ngoại tệ, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị
trường chứng khoán… Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu
tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự
tác động trực tiếp. Một sự thay đổi nhỏ của mỗi yếu tố này bao giờ cũng ảnh
hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Trong mỗi trường hợp, sự đánh giá

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

5

Học viện Tài chính

về doanh nghiệp, trong đó có giá trị doanh nghiệp sẽ khác nhau, và có khi bị
đảo lộn hoàn toàn.

-

Môi trường chính trị:

Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự
ổn định về chính trị ở mức độ nhất định. Chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, tính thiếu minh bạch và công bằng trong cơ chế vận hành cũng như
các yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng có những tác động xấu
đến mọi mặt của đời sống xã hội chứ không riêng gì đối với sản xuất kinh
doanh.
-

Môi trường văn hoá xã hội:

Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi những quan niệm, hệ tư tưởng của
cộng đồng về lối sống, đạo đức… được thể hiện trong quan niệm về “chân,
thiện, mỹ”; quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội thể hiện trong tập
quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ , sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các
vấn đề nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt…
Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi
ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi doanh
nghiệp đang hoạt động. Chính vì thế, đánh giá về doanh nghiệp không thể
bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường văn hoá xã hội
trong hiện tại mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng của yếu tố
này đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
-

Môi trường khoa học công nghệ:


Sự tác động của kỹ thuật công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản các
điều kiện về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh
doanh trong các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, sự biến đổi về khoa
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

6

Học viện Tài chính

học và công nghệ không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại
của mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành
tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa doanh nghiệp mau chóng
đến chỗ phá sản. Chính vì thế, khi đánh giá về doanh nghiệp, đòi hỏi phải
chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và khả
năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa
học công nghệ.


Các yếu tố thuộc môi trường ngành:

-

Quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng:


Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra đối với sản phẩm của doanh nghiệp,
hay chính là quyết định khả năng phát triển, mở rộng sản xuất của doanh
nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp được duy trì và phát triển khi mà mức
độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp với khách hàng được đảm bảo. Do
vậy muốn đánh giá khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cần phải xác định tính chất mức độ bền vững và uy tín của
doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng, được đánh giá qua các yếu tố
như sự trung thành và thái độ của khách hàng, số lượng và chất lượng
khách hàng…Căn cứ có sức thuyết phục cao nhất là thị phần hiện tại, thị
phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu qua các
thời kỳ kinh doanh khác nhau.
-

Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp:

Doanh nghiệp phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng
hoá, nguyên vật liệu, dịch vụ điện nước, thông tin, tư vấn… Tính ổn định
của nguồn cung cấp có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ
được thực hiện theo yêu cầu mà doanh nghiệp định ra.
-

Các hãng cạnh tranh:

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp


7

Học viện Tài chính

Đối thủ cạnh tranh chính là nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh
nghiệp. Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải
có những chính sách thích hợp để củng cố vị trí của mình trên thương
trường. Đồng thời phải có khả năng dự báo về việc xuất hiện các đối thủ
cạnh tranh mới trong tương lai.
-

Các cơ quan Nhà nước:

Sự hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào luôn phải đặt dưới sự kiểm tra
giám sát của các cơ quan nhà nước, bao gồm cơ quan thuế, cơ quan thanh
tra, cơ quan môi trường…Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức
này tức là đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với xã hội và cũng là
biểu hiện doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được
chính đáng, có ảnh hưởng tích cực tới giá trị của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Yếu tố nội tại DN


Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp

Tài sản của doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu
đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ
thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng
và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Nói cách khác, khả
năng cạnh tranh và thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp và có
tính chất quyết định vào yếu tố này.

Mặt khác, giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là
một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị của doanh nghiệp. Vì thay cho việc
dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất
cứ lúc nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.


Vị trí kinh doanh

Vị trí kinh doanh được đặc trưng bởi các yếu tố: địa điểm, diện tích, các chi
nhánh, yếu tố địa hình, thời tiết… Với vị trí thuận lợi doanh nghiệp có thể
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

8

Học viện Tài chính

giảm được nhiều khoản mục chi phí, đồng thời tiếp cận và nắm bắt nhanh
chóng nhu cầu thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu mãi…
Trong thực tế, do sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất
lớn khi đánh giá về giá trị doanh nghiệp.


Uy tín kinh doanh- thương hiệu

Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh

nghiệp, được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau trong doanh nghiệp: chất
lượng sản phẩm, trình độ và năng lực quản trị kinh doanh, thái độ phục vụ
tận tình của nhân viên… Cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng doanh
nghiệp do có uy tín lớn có thể định giá cao cho sản phẩm của mình so với
sản phẩm của các doanh nghiệp khác không có được lợi thế này.
Có thể nói, khi đã xây dựng được uy tín-thương hiệu thì đó được coi như
một tài sản của doanh nghiệp vì nó góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Tài sản uy tín-thương hiệu có một giá trị nhất định. Vì vậy, uy tínthương hiệu của doanh nghiệp được thừa nhận như một yếu tố quan trọng
cấu thành nên giá trị của doanh nghiệp.


Chất lượng lao động

Trình độ và chất lượng của lao động là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp
đến chất lượng sản phẩm. Đồng thời, nhờ chất lượng lao động cao, doanh
nghiệp còn có thể giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí đào tạo,
bồi dưỡng… góp phần nâng cao thu nhập.
Vì vậy, khi đánh giá khả năng tồn tại, phát triển và tạo ra lợi nhuận của
doanh nghiệp cần thiết phải xem xét đến yếu tố chất lượng lao động, coi đó
như là yếu tố nội tại quyết định đến giá trị doanh nghiệp.


Năng lực quản trị kinh doanh

Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy
quản lý đủ mạnh để có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tận dụng mọi
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01



Luận văn tốt nghiệp

9

Học viện Tài chính

tiềm năng và cơ hội nảy sinh, biến thách thức thành cơ hội, ứng phó linh
hoạt với những biến động của môi trường kinh doanh. Năng lực quản trị
kinh doanh tổng hợp của doanh nghiệp có thể thể hiện qua hệ thống các chỉ
tiêu tài chính doanh nghiệp. Vì vậy việc phân tích một cách toàn diện tình
hình tài chính doanh nghiệp sẽ trợ giúp cho việc đưa ra các kết luận về giá
trị doanh nghiệp.
1.2 Xác định giá trị doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm xác định giá trị doanh nghiệp:
Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mục đích sở hữu doanh
nghiệp vì thế cũng là vì mục tiêu lợi nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư quyết
định bỏ vốn là đánh giá hiệu quả hoạt động, đánh giá các khoản thu nhập mà
doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai hay chính là
việc xác định giá trị doanh nghiệp. Vậy xác định giá trị doanh nghiệp là sự
ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch
thông thường của thị trường tại một thời điểm nhất định.
Xác định giá trị doanh nghiệp là công việc ước tính. Điều nay cho thấy
không thể có được giá trị doanh nghiệp chính xác một cách tuyệt đối. Giá trị
doanh nghiệp chỉ ở mức hợp lý nhất trong điều kiện các thông tin, bằng
chứng thu thập được phục vụ cho việc phân tích đưa ra các phương pháp
xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với những thông tin đó.
1.2.2 Sự cần thiết của việc xác định giá trị doanh nghiệp
Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu định giá doanh nghiệp ngày càng

nảy sinh một cách tự nhiên từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Trên thế
giới xuất phát ban đầu của nhu cầu định giá doanh nghiệp là từ quá trình
mua bán, sát nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Giống như mua
bán một mặt hàng bình thường, người ta phải xác định giá trị của nó để có
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

10

Học viện Tài chính

được giá cả phù hợp. Đây là giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và
phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào
sản xuất kinh doanh, cũng như nhu cầu để tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Trong môi trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể liên kết
với nhau, sát nhập hoặc chia tách để tận dụng lợi thế của nhau về thị trường,
nhân lực, vốn… để vững chắc và lớn mạnh trên thị trường. Giá trị của
doanh nghiệp được đánh giá trên một phạm vi lớn có tính đến tất cả các yếu
tố tác động tới doanh nghiệp. Vụ mua bán sát nhập chia tách diễn ra dựa
trên cơ sở giá trị doanh nghiệp đã thương thuyết giữa các bên.
Đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị
doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành
chuyển đổi loại hình sở hữu như cổ phần hoá, sát nhập, hợp nhất, giao bán,
khoán và cho thuê.
Xét sự cần thiết của định giá từ các đối tượng trong nền kinh tế có liên quan
đến nhu cầu định giá doanh nghiệp, đó là những nhà đầu tư, người cung cấp,

bản thân nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô.
-

Đối với nhà đầu tư, người cung cấp:

Thông tin về giá trị doanh nghiệp cho sự đánh giá tổng quát về khả năng tài
chính, uy tín kinh doanh, rủi ro và vị thế tín dụng. Từ đó nhà đầu tư có
quyết định có tiếp tục đầu tư, nhà cung cấp có tiếp tục cung cấp các yếu tố
đầu vào, cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không. Giá trị doanh
nghiệp quyết định giá cả cổ phiếu trên thị trường. Nếu nhà đầu tư định giá
được đúng giá trị của doanh nghiệp thì sẽ thu được lợi suất đầu tư mong
muốn.
-

Đối với nhà quản trị doanh nghiệp:

Thông tin về giá trị doanh nghiệp giúp các nhà quản trị phân tích đánh giá
trước khi đưa ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

11

Học viện Tài chính

doanh nghiệp. Từ giá trị doanh nghiệp của mình họ sẽ có cơ sở để so sánh

giá trị đó với doanh nghiệp khác, từ đó thấy được vị trí và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Quyết định kinh doanh đúng đắn của
các nhà quản trị phải dựa trên nhận thức sâu sắc về vị trí và những điểm
mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp mình.
-

Đối với các nhà quản lý, hoạch định kinh tế vĩ mô:

Trên phương diện quản lí vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một
căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức đánh giá
tính ổn định của nền kinh tế, của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ,
thao túng thị trường… Theo dõi sự biến đổi giá trị doanh nghiệp sẽ rất hữu
ích trong việc dự báo sự thay đổi của thị trường.
Như vậy định giá doanh nghiệp đang ngày càng trở nên không thể thiếu
trước sự tăng trưởng kinh tế, khi mà số lượng các doanh nghiệp mua bán,
sát nhập, cổ phần hoá đang nhiều dần lên cùng với nhu cầu thông tin từ
nhiều đối tượng trong nền kinh tế.
1.2.3 Các phương pháp chung để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là gì tuỳ thuộc vào từng quan niệm về giá trị.
Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay có thể sử dụng nhiều phương pháp,
nhưng điểm chung là các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đều
phải có cơ sở khoa học, chặt chẽ và có thể chấp nhận được. Nhìn chung các
phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay dựa trên một trong hai
cách tiếp cận là:
+ Đánh giá giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp trong điều kiện
doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động, do đó có tính đến khả năng sinh lời
của tài sản trong tương lai.
+ Lượng hoá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu tư,
người cho vay.
Nguyễn thị thủy


CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

12

Học viện Tài chính

Sau đây là các phương pháp chung để xác định giá trị doanh nghiệp:
1.2.3.1 Phương pháp giá trị tài sản thuần


Cơ sở lý luận:

Lý luận thực tiễn cho rằng nếu giá trị doanh nghiệp cao hơn giá trị đầu tư
cần thiết để xây dựng nên nó thì các chủ đầu tư sẽ lựa chọn phương án xây
dựng mới doanh nghiệp thay vì mua lại doanh nghiệp đó. Từ đó các nhà
định giá đã đề ra nguyên lý chung cho phương pháp định giá theo giá trị tài
sản: “Giá trị của một doanh nghiệp bằng với giá trị đầu tư cần thiết (hữu
hình và vô hình) để lập nên doanh nghiệp đó”.
Trong các phương pháp định giá doanh nghiệp theo giá trị tài sản thì
phương pháp giá trị tài sản ròng (NAV) được sử dụng phổ biến và dựa trên
cơ sở là:
-

Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại tài sản thông thường.

-


Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành dựa trên cơ

sở một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ
thể cho sự tồn tại của doanh nghiệp, cấu thành nên thực thể của doanh
nghiệp.
-

Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà

đầu tư khi thành lập và tiếp tục được bổ sung trong quá trình hoạt động. Cơ
cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt
pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản đó.
Vì vậy giá trị doanh nghiệp được tính bằng tổng giá trị thị trường của số tài
sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh.



Phương pháp xác định:
Phương pháp 1:

Vo=Vt-Vn
Trong đó:
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp


13

Học viện Tài chính

Vo: giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp
Vt: tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh
doanh.
Vn: giá trị các khoản nợ.
Giá trị tài sảnthuần(Vo) có thể được tính theo hai cách:
Cách 1: Căn cứ vào giá trị sổ sách
Vo = Tổng giá trị tài sản có - Tổng các khoản nợ phải trả


Đánh giá

Ưu điểm và hạn chế:
-

Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép

phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh,doanh nghiệpchấp hành tốt
các quy định của chế độ kế toán thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là
số liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của chủ sở hữu đang được huy
động vào SXKD. Nó chỉ ra mức độ độc lập về mặt tài chính, khả năng tự
chủ trong điều hành SXKD của chủ doanh nghiệp, là căn cứ thích hợp để
các nhà tài trợ đánh giá khả năng an toàn của đồng vốn đầu tư, đánh giá vị
thế tín dụng của doanh nghiệp.
-

Mặc dù người ta có thể đánh giá giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách


khác nhau. Song, theo cách này nó cũng minh chứng cho các bên liên quan
thấy được rằng: đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá
trị của các tài sản hiện cs trong doanh nghiệp, chứ không phải bằng cái “có
thể ”như nhiều phương pháp khác.
-

Tuy nhiên, giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chỉ

là những thông tin, số liệu mang tính lịch sử có tính chất tham khảo trong
quá trình vận dụng các phương pháp khác nhằm định ra giá trị doanh nghiệp
một cách sát đúng hơn.

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

14

Học viện Tài chính

Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá trị thị trường
Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ kế toán do nhà nước quy
định thì số liệu trên bảng cân đối kế toán được lập vào một thời điểm nào đó
cũng không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ số tài sản trong
doanh nghiệp, vì các lý do sau:
Toàn bộ giá trị của các tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán là những

số liệu được tập hợp từ các sổ kế toán, các bảng kê………Các số liệu này
phản ánh trung thực các chi phí phát sinh tại thời điểm những chi phí mang
tính lịch sử, không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả
khi không có lạm phát.
Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc
vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, phụ thuộc vào
thời điểm mà doanh nghệip xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ
kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường
không phù hợp với giá trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp.
Trị giá hàng hóa, vật tư, công cụ lao động…tồn kho hoặc đang dùng trong
sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu
kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa
chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hóa dự trữ. Do
vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng được coi là
không có đủ độ tin cậy ở thời điểm đánh giá doanh nghiệp.
Đó là một số lý do cơ bản, nhưng cũng đủ để giải thích: vì sao trị giá tài sản
phản ánh trên bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài sản tham khảo trong
quá trình đánh giá lại toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác
định giá trị doanh nghiệp.

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

15


Học viện Tài chính

Để xác định giá trị tài sản ròng theo giá thị trường,trước hết người ta sẽ loại
khỏi danh mục định giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng
đáp ứng yêu cầu của nhà sản xuất kinh doanh. Sau đó, công việc định giá sẽ
được tiến hành:
- Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu
trên thị trường hiện có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế thường
không tồn tại thị trường TSCĐ cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác
nhau. Khi đó người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất
của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ dựa trên giá trị của TSCĐ mới. Đối
với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì nhà định giá sẽ áp
dụng một hệ số quy đổi so với những TSCĐ khác loại nhưng có tính năng
tương đương.
- Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư
trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị
trường tại thời điểm định giá. Các loại tài sản như vàng, kim loại quý, đá
quý… cũng được tính toán tương tự.
- Các khoản phải thu: Do khả năng thu hồi của các khoản này là không đồng
nhất nên ta phải tìm cách loại bỏ những khoản nợ không có khả năng thu hồi
hay khả năng thu hồi là quá mong manh bằng việc: đối chiếu công nợ, xác
minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu.
- Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Nếu khoản đầu tư
không quá lớn, có thể dựa trên giá tri chứng khoán, hoặc dựa theo số liệu
của bên đối tác liên doanh. Nếu khoản đầu tư khá lớn, cần thực hiện đánh
giá một cách toàn diện về giá trị của khoản đầu tư đó trong việc tạo nên giá
trị doanh nghiệp.
- Đối với tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: tính theo phương
pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.


Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

16

Học viện Tài chính

- các tài sản vô hình: Theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị
của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không
tính đến các lợi thế thương mại của doanh nghiệp.
Sau cùng, giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các
tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của
bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài
sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.



Đánh giá phương pháp giá trị tài sản thuần:

Hạn chế:
-

Theo cách này, giá trị doanh nghiệp chỉ thuần tuý là một phép cộng

tổng các tài sản bên trong doanh nghiệp tại thời điểm tính giá trị. Phương
pháp này đã đánh giá doanh nghiệp ở một trạng thái tĩnh, doanh nghiệp

không được coi như một thực thể, một tổ chức đang tồn tại và có thể hoàn
chỉnh và phát triển trong tương lai. Vì vậy mà nó không phù hợp với một
tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp. Bởi động cơ của người mua doanh
nghiệp là nhằm sở hữu các khoản thu nhập trong tương lai, chứ không phải
để bán lại ngay những tài sản hiện thời.
-

Phương pháp giá trị tài sản thuần đã không cung cấp và xây dựng được

những cơ sở thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển
vọng sinh lời của doanh nghiệp. Đó cũng là lý do mà khi sử dụng phương
pháp này, người ta khó có thể giải thích vì sao cùng một giá trị tài sản thuần
như nhau, nhưng doanh nghiệp này lại có giá bán cao hơn doanh nghiệp kia,
ngay cả khi không có sự tác động của yếu tố cạnh tranh.
-

Phương pháp giá trị tài sản thuần đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật

chất nhưng lại có giá trị thực sự và nhiều khi chiếm giá trị rất lớn trong giá
trị doanh nghiệp, đó là trình độ quản lý, trình độ công nhân, uy tín, thị
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

17

Học viện Tài chính


phần… của doanh nghiệp. Đó có thể là những doanh nghiệp có tài sản
không đáng kể nhưng triển vọng sinh lời lại rất cao.
-

Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần lại trở nên quá

phức tạp. Chẳng hạn như khi một tập đoàn có nhiều chi nhánh, hay một số
loại tài sản không có trên thị trường, thì sẽ khó khăn trong định giá. Lúc này
công việc đánh giá đòi hỏi sự dàn trải, tốn kém thời gian, chi phí, sai số
đánh giá đối với các tài sản có tính đặc thù trong sản xuất kinh doanh do các
chuyên gia trong ngành đưa ra.
Ưu điểm:
-

Phương pháp giá trị tài sản thuần chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể

cấu thành doanh nghiệp. Giá trị tài sản đó là căn cứ cụ thể, có tính pháp lý
rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn nhận được khi sở
hữu doanh nghiệp hay số tiền mà người mua bỏ ra luôn được đảm bảo bằng
một lượng tài sản có thật.
-

Phương pháp này cho ta thấy giá trị thị trường của tài sản có thể bán

rời tại thời điểm đánh giá. Đây cũng là mức giá thấp nhất, là cơ sở đầu tiên
để các bên liên quan đưa ra trong quá trình giao dịch và đàm phán về giá
bán doanh nghiệp.
-


Đối với doanh nghiệp nhỏ có số lượng tài sản không quá khổng lồ,

không yêu cầu những kỹ thuật phức tạp trong định giá, giá trị yếu tố vô hình
không đáng kể, chiến lược kinh doanh không rõ ràng, thiếu căn cứ xác định
các khoản thu nhập trong tương lai thì đây là một phương pháp khá thích
hợp để đưa ra giá trị cơ bản trong bước đầu đàm phán, thương lượng, mua
bán doanh nghiệp.

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

18

Học viện Tài chính

1.2.3.2 Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai
Cơ sở lý thuyết của phương pháp xuất phát từ quan niệm: giá trị của một
doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà doanh
nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Song do khái niệm
“giá trị thời gian của tiền” nên người ta phải thực hiện quy đổi các khoản
thu nhập về cùng một thời điểm hiện tại. Theo đó, giá trị doanh nghiệp được
xác định dựa trên công thức tổng quát:
n

V0 = ∑
t =1


Ft
(1 + i ) t

o

Vo: Giá trị doanh nghiệp

o

Ft: Luồng tiền đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t

o

i: Tỷ suất hiện tại hoá ( Tỷ suất chiết khấu)

o

n: số năm nhận được thu nhập

Xuất phát từ công thức trên, tuỳ theo chiến lược của mỗi nhà đầu tư khác
nhau mà người ta phát triển và vận dụng công thức trên theo nhiều cách
khác nhau. Bởi vậy nguyên lý trên có thể triển khai theo một trong nhiều
phương pháp cụ thể sau:
a.

Phương pháp định giá chứng khoán




Quan điểm cơ bản:

Năm 1962, M.I.Gordon đã đưa ra công thức lượng giá chứng khoán vô cùng
nổi tiếng. Ý nghĩa của công thức đó là: Nhà đầu tư bỏ tiền ra mua chứng
khoán không phải là để đổi lấy những tài sản hiện có trong doanh nghiệp mà
để đổi lấy những khoản thu nhập trong tương lai.
Giá trị thực sự của một chứng khoán phải được đánh giá bằng độ lớn của
khoản thu nhập mà nhà đầu tư chắc chắn sẽ nhận được từ chính doanh
nghiệp đó, không phải do yếu tố đầu cơ chứng khoán.
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

19

Học viện Tài chính

Giá trị doanh nghiệp sẽ bằng tổng giá trị các loại chứng khoán mà doanh
nghiệp đã phát hành.


Phương pháp xác định:

Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán:
n
Rt
Rt

R1
R2
PV0 =
+
+
...
+
=
(1 + i) (1 + i ) 2
(1 + i ) t ∑t =1 (1 + i ) t



o

PVo : giá trị thực của một chứng khoán

o

Rt : thu nhập của một chứng khoán ở năm thứ t

o

i : tỷ số hiện tại hóa

o

n : số năm nhận được thu nhập

Xác định giá trị thực của trái phiếu:


Trái phiếu là một loại chứng chỉ vay nợ, thể hiện nghĩa vụ của người phát
hành trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một số tiền lãi nhất định và khoản
tiền gốc khi đến hạn.
Trái phiếu có nhiều loại khác nhau song đặc điểm chung của các loại trái
phiếu là: lợi tức cố định, có giá trị đáo hạn, thời hạn và thời điểm hoàn trả
tiền lãi, gốc thường được xác định từ trước.
Ta có thể triển khai công thức tính giá trị trái phiếu như sau:

 R1
Rn  Pn
R2
PV0 = 
+
+ ... +
+
n
( 1 + i ) ( 1 + i ) 2
(1 + i)  (1 + i) n
o

Pn : mệnh giá trái phiếu phải trả vào năm thứ n

Vì mức lợi tức trái phiếu thường được coi là ổn định hàng năm, tức là:

R1 = R2 = ... = Rt = ... = Rn = R
Vì thế ta có công thức như sau :
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01



Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

20

Pn
1 − (1 + i )
PV0 = ∑
+
=
R
×
+
t
i
(1 + i ) n
(1 + i ) n
t =1 ( 1 + i )
n

Rt

n

Pn

1 − (1 + i )

i
Trong công thức trên,

n

được coi là thừa số hiện tại hoá, và bằng

1
n
tổng của một cấp số nhân có công bội (1 + i )



Xác định giá trị cổ phiếu:

Cổ phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông với công ty cổ
phần.
Cổ phiếu có một số điểm khác biệt so với trái phiếu là:
-

Không thể xác định trước các khoản lợi tức cổ phần hàng năm.

-

Không có thời điểm đáo hạn

-

Cổ đông chỉ có thể nhận về phần vốn của mình khi doanh nghiệp bị


thanh lý, phá sản hoặc bán lại cổ phiếu của mình vào một thời điểm trong
tương lai.
Do vậy xuất hiện những khó khăn cơ bản khi áp dụng công thức tổng quát ở
trên, đó là:
-

Phải dự báo được các khoản thu nhập (Rt) dưới hình thức lợi tức cổ

phần hàng năm và giá trị bán lại của cổ phiếu hoặc giá trị cổ phiếu tại thời
điểm thanh lý, phá sản doanh nghiệp trong tương lai.
-

Đầu tư cổ phiếu là loại đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro, vì thế không

thể sử dụng tỷ suất hiện tại hoá (i) như đối với trái phiếu.
-

Công thức tổng quát làm nên một tổng không xác định do cổ phiếu là

một loại chứng khoán không có thời điểm đáo hạn.
Vì những khó khăn cơ bản như trên mà công thức tổng quát không mang
tính thực tiễn.
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


21



Lý thuyết được xây dựng thêm để khắc phục khó khăn:



Giả định 1 : doanh nghiệp có thể chi trả lợi tức cổ phần ổn định

hàng năm là d
n

n
Rt
1
PV0 = ∑
=
d
×
∑t =1 (1 + i)t
t
t =1 ( 1 + i )

Cho

t → +∞

, ta có:


1
d
(1 + i ) + ∞ d
PV0 =
×
=
1
1+ i
i
1−
1+ i
1−



Giả định 2 : lợi tức cổ phiếu chi trả hàng năm tăng một cách đều

đặn theo một tỷ lệ ổn định là k (k < i ).

PV0 =

d
d1
d
+ 2 2 + ... + n n
(1 + i) (1 + i)
(1 + i)

d1

d1 (1 + k )
d1 (1 + k ) ( n−1)
PV0 =
+
+ ... +
(1 + i ) (1 + i ) 2
(1 + i) n
 1 + k (1 + k ) 2
d1
(1 + k ) n−1 
PV0 =
× 1+
+
+ ... +
(1 + i )  1 + i (1 + i ) 2
(1 + i ) n−1 
Cho

t → +∞

ta có:

 (1 + k ) n
1 − (1 + i ) n
d1
PV0 =
×
(1 + i )  1 − 1 + k

1+ i




k
 = d1
 i−k



Công thức cuối cùng trên dựa trên lập luận rằng: tăng trưởng và phát triển là
động cơ mà mọi doanh nghiệp phải đi theo, nhất là tăng trưởng một cách
đều đặn và vững chắc. Vì vậy giả định lợi tức cổ phần tăng một cách đều
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

22

Học viện Tài chính

đặn hàng năm là sự phản ánh khuynh hướng và thực trạng có thật trong
nhiều doanh nghiệp.


Giả định 3 : Lợi tức cổ phiếu hàng năm tăng không đều đặn

Tăng trưởng và phát triển là xu hướng chung của các doanh nghiệp, song đó

chỉ là xu hướng. Cho dù các doanh nghiệp có duy trì chính sách phân chia
lợi tức cổ phần một cách ổn định thì trong thực tế lợi nhuận thuần và lợi tức
cổ phần giữa các năm đạt được cũng thường không đều nhau.
Giả định trong n năm đầu doanh nghiệp đạt tỷ lệ tăng lợi tức cổ phần là k
(k>i), còn từ năm thứ n+1 trở đi thì tăng với tỷ lệ k’(k’Ta có công thức cuối cùng như sau:

 (1 + k ) n − (1 + i ) n (1 + k ) n−1 × (1 + k t ) 
d1
PV0 =
×


(1 + i ) n 
k −i
1− kt



Đánh giá:

Ưu điểm:
-

Phương pháp định giá chứng khoán có thể đánh giá được giá cả chứng

khoán trên thị trường có đi quá xa so với giá trị thực hay không.
-

Phương pháp định giá chứng khoán đặc biệt phù hợp với quan điểm


nhìn nhận và đánh giá về giá trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư thiểu số.
Trong thực tế, nhà đầu tư thiểu số có thể trông thấy những triển vọng tiềm
ẩn lớn lao về khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Song do tính chất thiểu
số, họ không thể can thiệp vào những vấn đề có ảnh hưởng lớn tới doanh
nghiệp. Do vậy giá trị của một nhà đầu tư thiểu số được tính bằng giá trị
hiện tại của các khoản lợi tức cổ phần mà doanh nghiệp sẽ trả trong tương
lai.
-

Phương pháp này tỏ ra thích hợp với những doanh nghiệp có chứng

khoán được giao dịch trên thị trường và việc xác định giá trị doanh nghiệp
bằng những phương pháp khác gặp nhiều khó khăn.
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

23

Học viện Tài chính

Hạn chế:
-

Đối với cổ phiếu, mặc dù đã xây dựng một hệ thống các lý thuyết dựa


trên các giả định song việc dự báo lợi tức cổ phần không phải là dễ dàng. Cổ
phiếu là loại chứng khoán chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì thế giả thuyết về
sự tăng trưởng ổn định không thuyết phục được các nhà thực hành.
-

Để xác định lợi tức cổ phần còn phải xây dựng được một lý thuyết

định hướng phân chia lợi tức cổ phần trong tương lai. Chính sách phân chia
lợi tức cổ phần phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: nhu cầu đầu tư, nhu cầu trả
nợ, khả năng tích lũy từ khấu hao, chính sách thuế thu nhập của nhà nước…
Việc tính toán đến các yếu tố này cũng không đơn giản, nhất là khi các nhà
đầu tư lại là cổ đông thiểu số, không có quyền quyết định tới chính sách
phân chia lợi tức cổ phần.
-

Việc định lượng tham số t bằng cách cho t → +∞ nói chung là không

đúng trong thực tế.
b.

Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần



Cơ sở lý luận:

Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần là phương pháp xác định giá trị
doanh nghiệp trên cơ sở quan niệm đầu tư vào doanh nghiệp giống như đầu
tư vào một dự án, tức là đầu tư quản lý doanh nghiệp trên góc độ của nhà
đầu tư đa số - người có quyền kiểm soát doanh nghiệp.

Quá trình SXKD là quá trình phát sinh các dòng tiền vào và ra được biểu
diễn như sau:

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp

24

(+A)

(+A)

(+A)
(+A)

…….

Học viện Tài chính

(+A)
(+A) dòng tiền vào

TGian
(-A)

(-A)


(-A) dòng tiền ra

(-A)

Sơ đồ biểu diễn dòng tiền của dự án đầu tư.



Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp:
n
Pri
Pr1
Pr2
Prn
V=
+
+
.....
+
=

t
(1 +i) (1 +i) 2
(1 +i) n
t =1 (1 +i )

Nếu Pr1 = Pr2 = …. = Prn và khi n ─> ∞ thì



1
Pr
=
t
i
t = 1 (1 + i )

V = Pr ∑
Trong đó



o

V: Giá trị doanh nghiệp

o

Pr: Lợi nhuận sau thuế bình quân hàng năm dự tính thu được

o

i : tỷ suất hiện tại hoá

Đánh giá:

Ưu điểm:
-

Hoàn toàn phù hợp với quan điểm GTDN được xác định bằng giá trị


hiện tại của khoản lợi nhuận sau thuế thu nhập.
Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


Luận văn tốt nghiệp
-

25

Học viện Tài chính

Có khả năng ứng dụng cao với các DN có nhiều tài sản để khấu hao,

khả năng tích lũy vốn từ KH và lợi nhuận để lại là không đáng kể, DN chưa
định hướng đầu tư trong tương lai, LNST chủ yếu được chia cho các nhà
đầu tư.
-

Định lượng LNST trong tương lai dễ dàng hơn dự báo lợi tức cổ phần.

Hạn chế:
-

LN ở đây đã được hiệu chỉnh kế toán nên không phù hợp với cách nhìn

chiến lược về DN cũng như quan điểm nhìn nhận về dòng tiền của nhà đầu
tư đa số.

-

Việc n ─> ∞ là chưa hợp lý.

c.

Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần



Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp:
n

Tk
Vn
+
k
(1 + i) n
k =1 (1 + i )

V =∑
Trong đó
o

V: Giá trị doanh nghiệp

o

Tk: Dòng thu nhập của doanh nghiệp trong tương lai (bao gồm


lợi nhuận sau thuế và tiền khấu hao thu được) = Dòng tiền vào – Đầu tư bổ
sung vào TSCĐ ± Chênh lệch về VLĐ thường xuyên.
o

Vn: Giá trị doanh nghiệp ở cuối chu kỳ đầu tư (năm thứ n)

o

i : Tỷ suất hiện tại hoá



Đánh giá:

Ưu điểm:
-

Việc sử dụng dòng thu nhập của doanh nghiệp = LNST + Khấu hao

giúp loại bỏ ảnh hưởng của việc điều chỉnh số liệu kế toán sao cho phản ánh

Nguyễn thị thủy

CQ:45/16.01


×