Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục của huyện từ liêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.38 KB, 64 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khảng định mục tiêu tổng
quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là “Phấn đấu đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
chính trị-xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn
trong giai đoạn sau.” Để đạt được mục tiêu nêu trên, giáo dục và khoa học
công nghệ có vai trò quyết định, phát triển giáo dục là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là yếu tố
cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Xuất phát từ quan điểm đó, thời gian qua Nhà nước ta luôn luôn quan
tâm dành một tỷ lệ ngân sách thích đáng đầu tư cho giáo dục và đào tạo góp
phần tạo ra những thành tựu quan trọng về mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng giáo dục và cơ sở vật chất nhà trường... Trong vòng 12 năm qua (từ
1998 - 2010), Nhà nước tăng dần đầu tư GD-ĐT từ mức hơn 13% lên 20%
tổng chi ngân sách nhà nước. Với tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục như trên,
Việt Nam thuộc nhóm nước có tỷ lệ chi cho giáo dục cao nhất thế giới. Tuy
nhiên, việc quản lý kinh phí NSNN chi cho hoạt động giáo dục ở các địa
phương còn tồn tại một số nhược điểm. Vì vậy, nghiên cứu, phát huy những
mặt tốt, tìm tòi và đề ra các giải pháp khắc phục những mặt còn yếu kém
trong công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển, đáp ứng yêu cầu đổi
SV: Lê Ngọc Quyền

1

Lớp: CQ: 45/01.01



mới, phát triển kinh tế - xã hội .trong những năm gần đây Đảng bộ Huyện
Từ Liêm cũng đã đặc biệt quan tâm tới giáo dục. Nguồn kinh phí đầu tư cho
giáo dục từ NSNN ngày càng tăng. Tuy nhiên việc đầu tư cho giáo dục cần
xem xét kỹ càng hơn, việc quản lý nguồn kinh phó từ NSNN cho giáo dục
còn nhiều bất cập, thiếu sót .Từ những thực trạng ấy, em xin chọn đề tài :

Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi thường
xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục của Huyện Từ Liêm
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của chuyên đề
Trên cơ sở lý luận chung về chi NSNN và quản lý chi NSNN, luận
văn đã góp phần khái quát vai trò, nội dung chi NSNN cho một lĩnh vực cụ
thể là giáo dục và nội dung quản lý chi NSNN cho giáo dục, đồng thời thông
qua việc nghiên cứu toàn diện công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục của
huyện Từ Liêm, đề xuất các biện pháp quản lý chi NSNN cho giáo dục thời
gian tới hợp lý hơn.

Mục đích của đề tài là qua nghiên cứu thực tế để tìm ra những biện pháp
nhằm tăng cường công tác quản lí chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp
giáo dục của Huyện Từ Liêm
Đối tượng nghiên cứu đề tài là nội dung và quản lí chi thường xuyên
NSNN cho sự nghiệp giáo dục của Huyện Từ Liêm
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Sự nghiệp giáo dục và công tác quản lý chi thường xuyên
Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
SV: Lê Ngọc Quyền

2

Lớp: CQ: 45/01.01



Chương 2: Thực trạng công tác quản lý chi thường xuyên Ngân sách
Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục của Huyện Từ Liêm
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản tăng cường công tác quản lý chi
thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục của Huyện Từ
Liêm.
Do hạn chế về thời gian thực tập cũng như trình độ hiểu biết nên bài chuyên
đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được ý kiến
đóng góp và giúp đỡ của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Văn Khoan là người hướng dẫn trực
tiếp em trong quá trình viết đề tài, cùng các cô, chú, anh, chị, trong Phòng tài
chính kế hoạch Huyện Từ Liêm đã quan tâm tạo điều kiện, giúp đỡ em hoàn
thành đề tài.
Hà Nội: ngày 10 tháng 4 năm 2011
Lê Ngọc Quyền

SV: Lê Ngọc Quyền

3

Lớp: CQ: 45/01.01


Chương 1
Sự nghiệp giáo dục và công tác quản lý chi thường xuyên Ngân
sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
1.1. Sự nghiệp giáo dục và vai trò của giáo dục và đối với sự phát triển
của kinh tế xã hội
1.1.1. Các khái niệm cơ bản.

Ngân sách Nhà nước là phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử. Sự
hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và
phát triển của kinh tế hàng hoá tiền tệ trong các phương thức sản xuất của
các cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác sự ra đời của
Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là những tiền đề cho sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước.
Từ “ngân sách” được lấy ra từ thuật ngữ “budjet” một từ tiếng Anh
thời trung cổ,dùng để mô tả chiếc túi của nhà vua trong đó có chứa những
khoản tiền cần thiết cho những khoản chi tiêu công cộng.Dưới chế độ phong
kiến, chi tiêu của nhà vua như : đắp đê phòng chống lũ lụt, xây dựng đường
xá và chi tiêu chi bản thân hoàng gia không có sự tách biệt nhau.Khi giai cấp
tư sản lớn mạnh từng bước khống chế nghị viện và đòi hỏi tách bạch hai
khoản chi tiêu này , từ đó nảy sinh khái niệm NSNN .
Trong thực tiễn, khái niệm ngân sách thường để chỉ số thu và chi của
một đơn vị trong một thời gian nhất định. Một bảng tính toán các chi phí để
thực hiện một kế hoach, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định
của một chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà Nước thì gọi là NSNN.
Từ điển tiếng Việt thông dụng định nghĩa:

SV: Lê Ngọc Quyền

4

Lớp: CQ: 45/01.01


“Ngân sách : tổng số thu và chi của một đơn vị trong một thời gian
nhất định”
Điều 1 của Luật NSNN được Quóc hội Khóa XII Nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam thông qua tại kì họp thứ hai, năm 2002 cũng khẳng định:

“ NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan
Nhà Nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà Nước”
Về bản chất của NSNN, đằng sau những con số thu,chi đó là các quan
hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác như doanh nghiệp, hộ
gia đình, cá nhân trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng quỹ NSNN.
Giáo dục là tất cả dạng học tập của con người và có thể coi là một dạng
quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người theo nhiều nghĩa khác
nhau. Hay nói cách khác, Giáo dục là quá trình bồi dưỡng, nâng đỡ sự
trưởng thành về nhận thức con người,tạo ra những có đầy đủ kiến thức,năng
lực hành vi, có khả năng sáng tạo.
1.1.2. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của kinh tế xã hội.
Nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự tác động to lớn của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại chuyển từ công nghiệp hoá tập
trung, chi phí lớn sang mô hình công nghiệp tự động, tin học hoá, nhỏ, gọn,
tiêu tốn ít nhiên liệu, linh hoạt dễ đổi mới sản xuất theo nhu cầu đa dạng,
phong phú của khách hàng. Thị trường phong phú và biến động nhanh chóng
“một nền kinh tế thị trường như vậy còn đòi hỏi người lao động có trình độ
khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ cao, biết ứng xử linh hoạt, sáng tạo".
Bước sang thế kỷ 21, cuộc cánh mạng khoa học-công nghệ sẽ có
những bước tiến nhảy vọt, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp
SV: Lê Ngọc Quyền

5

Lớp: CQ: 45/01.01


sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế tri thức, đồng thời tác động tới

tất cả các lĩnh vực, làm biến động nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội. Trong quá trình kinh tế hoá tri thức, con người vẫn
được nhấn mạnh là vị trí hạt nhân, phát triển vai trò trung tâm vô cùng quan
trọng. Vì vậy, nhóm ngành văn hoá giáo dục là quần thể tri nghiệp sản xuất
truyền bá tin tức văn hoá và tri thức, đặc biệt là đào tạo nên đội quân nhân
tài, những người sáng tạo ra tri thức trở thành một trong những ngành lớn
nhất. "Một số các công ty lớn đều đang phát triển cơ sở xản xuất nhân tài
toàn cầu của mình. Thậm chí các nước như Anh, Mỹ, Australia đã phát triển
cả ngành giáo dục xuất khẩu".
Bên cạnh đó, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế
khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh
của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự cạnh tranh kinh
tế giữa các quốc gia sẽ ngày càng quyết liệt hơn đòi hỏi phải tăng năng suất
lao động, nâng cao chất lượng hàng hoá và đổi mới công nghệ một cách
nhanh chóng.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng
động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang làm cho
việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên hiện
thực hơn và nhanh hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của
sự phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và
đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách
nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau.
Hồ Chủ Tịch đã từng nói " muốn có chủ nghĩa xã hội, thì phải có
những con người xã hội chủ nghĩa ”. Bác Hồ coi giáo dục là công việc xây
SV: Lê Ngọc Quyền

6

Lớp: CQ: 45/01.01



dựng con người lao động mới và là một chiến lược lâu dài "Vì hạnh phúc
mười năm trồng cây, vì hạnh phúc trăm năm trồng người” Nhận rõ tầm quan
trọng của sự nghiệp Giáo dục đôí với việc phát triển kinh tế, tri thức là chìa
khóa để mở rộng cánh cửa vào tương lai,nước ta thực hiện nghị quyết của
Ban chấp hành TW Đảng khóa VII với tinh thần là “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu” và Hội nghị thứ II Ban chấp hành TW đảng khóa VIII với tinh
thần là “Ưu tiên cao nhất cho sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo và khoa học
công nghệ thể hiện trên các mặt chính sách, đội ngũ quản lý ..” Có thể nói
giáo dục là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân
trong thời gian qua. Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục được coi là khâu đột
phá cho những định hướng chiến lược về mục tiêu, giải pháp chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội cho đến năm 2010 - 2020.
1.2. Chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
1.2.1. Nội dung chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
giáo dục..
Chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục là tổng thể các quan hệ kinh tế
dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ
NSNN nhằm trang trải chi phí cho các hoạt động của ngành giáo dục.
Một thực tế cho thấy, việc đầu tư cho tất cả các ngành, vấn đề quan
trọng và cốt yếu là vốn. Đối với ngành Giáo dục cũng vậy, muốn thực hiện
được mục tiêu phát triển ngành Giáo dục thì chúng ta phải có một lượng vốn
cho ngành, nguồn vốn này được huy động dưới nhiều hình thức như thu học
phí, vay viện trợ... Nhưng ở nước ta hiện nay thì nguồn vốn từ NSNN là chủ
yếu và trong luật ngân sách cũng quy định rõ trong điều 29 mục 1a. Về mặt
hình thức, chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là quá trình thực hiện quan hệ
phân phối dưới hình thức giá trị, từ quỹ tiền tệ tập trung của Nhà Nước theo
SV: Lê Ngọc Quyền

7


Lớp: CQ: 45/01.01


nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm duy trì và phát triển nền giáo dục
quốc gia, đáp ứng nhu cầu của cuộc đổi mới cũng như nhu cầu phát triền
kinh tế – xã hội. Nhưng nếu xét về lâu dài thì chi ngân sách cho sự nghiệp
giáo dục là khoản chi mang tính chất tích luỹ, là nhân tố quyết định mức độ
tăng trưởng kinh tế cho tương lai, đặc biệt trong thời đại mới khi khoa học
kỹ thuật phát triển trở thành yếu tố quan trọng của sản xuất, khi tỷ lệ chất
xám chứa đựng trong của cải vật chất làm ra ngày càng cao. Đó chính là kết
quả của quá trình đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục.
Chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục bao gồm :
- Chi đầu tư phát triển.
- Chi thường xuyên.
- Chi khác.
Xét theo cơ cấu các khoản chi, thì chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục
bao gồm :
+ Chi cho con người: Bao gồm các khoản chi về lương, phụ cấp,
BHXH, phúc lợi tập thể cho các giáo viên, cán bộ công nhân viên của nhà
trường. Đây là khoản chi nhằm bù đắp hao phí lao động đảm bảo duy trì quá
trình tái sản xuất sức lao động cho giáo viên, công nhân viên của nhà trường.
Khoản chi có liên quan đén việc đảm bảo cuộc sống ổn định cho các thầy cô
giáo trực tiếp giảng dạy các cán bộ quản lý trong ngành Giáo dục theo chế
độ Nhà nước ban hành.
Kinh phí để chi cho con người : Khoản chi này được xác định dựa trên
số giáo viên bình quân dự kiến có mặt trong kỳ kế hoạch và mức chi bình
quân dự kiến cho một giáo viên có mặt trong kỳ kế hoạch.
+ Chi về nghiệp vụ chuyên môn : Bao gồm chi cho các trang thiết bị
trong trường như nghiên cứu thực hành, sách giáo khoa, đồ dùng học tập ...


SV: Lê Ngọc Quyền

8

Lớp: CQ: 45/01.01


Khoản chi này phụ thuộc vào từng đơn vị, quy mô cơ sở vật chất của từng
trường và nó quyết định đến hiệu quả giáo dục.
+ Chi cho mua sắm, sửa chữa lớn và xây dựng nhỏ: Bao gồm chi đầu
tư xây dựng cơ bản trong trường, mua sắm sửa chữa trang thiết bị của nhà
trường trong từng thời kỳ và phụ thuộc vào quỹ ngân sách của Nhà nước.
Hàng năm do nhu cầu hoạt động, do sự xuống cấp tất yếu của các
TSCĐ dùng cho các hoạt động giảng dạy học tập nên thường phát sinh nhu
cầu kinh phí cần có để mua sắm, trang bị thêm hoặc sửa chữa cho những
TSCĐ đã bị xuống cấp ở các trường học, lớp học, khu hiệu bộ mà NSNN
bao cấp. Vì vậy, cần phải xác định nhu cầu kinh phí hàng năm của nhà
trường đáp ứng cho nhu cầu mua sắm sửa chữa hay xây dựng nhỏ trong dự
toán kinh phí hàng năm của mỗi trường để làm cơ sở lập dự toán chi NSNN.
+ Các khoản chi khác: Bao gồm các mục chi về thanh toán dịch vụ
công cộng, vật tư văn phòng, thông tin truyền thông liên lạc, công tác phí,
hội nghị phí…. Chi các khoản chi này theo xu hướng hiện đại phải giảm tới
mức tối đa, mặc dù nó vẫn tồn tại.
Các hoạt động này nhằm duy trì sự hoạt động bình thường bộ máy
quản lý các trường học là vấn đề tất yếu phải xảy ra. Các quản chi liên quan
nhiều đến quy mô hoạt động và tổ chức của mỗi trường học. Vì vậy việc xác
định số chi kinh phí này thường được dựa vào số công nhân viên bình quân
và mức chi quản lý hành chính cho một giáo viên kỳ kế hoạch.
Như vậy khi xem xét đến nội dung chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục

người ta không chỉ tính đến những đặc điểm riêng cuả công tác giáo dục mà
còn tính đến tất cả các yếu tố tác động đến công tác giáo dục như :
- Chế độ chính trị mà quốc gia đang theo đuổi.
- Tốc độ phát triển dân số.
SV: Lê Ngọc Quyền

9

Lớp: CQ: 45/01.01


- Nguồn thu NSNN.
- Chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục trong từng giai đoạn.
Đó là những yếu tố cơ bản có tác động lớn đến công tác giáo dục
trong từng giai đoạn. Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục là việc đảm bảo
nguồn lực tài chính để thực hiện việc phát triển ngành Giáo dục. Chính vì
vậy, để có một nội dung chi hợp lý cần phải xem xét kỹ đến các nhân tố ảnh
hưởng cũng như mức độ tác động của nó đến công tác giáo dục.
1.2.2. Vai trò của chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước đồi với sự
nghiệp giáo dục.
Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục là quá trình phân phối sử dụng
một phần vốn tiền tệ từ quỹ ngân sách nhà nước để duy trì, phát triển sự
nghiệp giáo dục theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp.
Vai trò của chi ngân sách không chỉ đơn thuần là cung cấp nguồn lực
tài chính để duy trì, cũng cố các hoạt động giáo dục mà còn có tác dụng
định hướng, điều chỉnh các hoạt động giáo dục phát triển theo đường lối chủ
trương của đảng và Nhà nước.
Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, toàn bộ
vốn đầu tư cho giáo dục do NSNN đài thọ. Nguồn kinh phí này đã đóng vai
trò quyết định trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, góp phần phát triển

nâng cao trình độ dân trí, tạo ra những lớp người có đủ năng lực, trí tuệ đóng
góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngày nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế tri thức với quan
điểm "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”, Đảng và Nhà nuớc ta đã có
chủ trương " Xã hội hoá giáo dục ”. Gắn liền với chủ trương đó, Nhà nước
thực hiện mở rộng đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục kể cả
trong nước và nước ngoài " Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích các tổ
SV: Lê Ngọc Quyền

10

Lớp: CQ: 45/01.01


chức, cá nhân trong nước, người Việt nam định cư ở nước ngoài, các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục ”.
Trong điều kiện có nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục như vậy
những nguồn vốn đầu tư từ NSNN vẫn giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vai
trò chủ đạo của chi NSNN cho giáo dục được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: Ngân sách Nhà nước luôn là nguồn tài chính cơ bản, ổn
định để duy trì sự phát triển của hệ thống giáo dục, theo đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà nước
Giáo dục là một lĩnh vực hoạt động xã hội rộng lớn mà Nhà nước luôn
phải quan tâm và có sự đầu tư thích đáng " Ngân sách Nhà nước giữ vai trò
chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục”. Chính vì vậy mà nguồn vốn
đầu tư của ngân sách Nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn
đầu tư cho giáo dục.
Mặc dù thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương
chính sách để huy động nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục như
chính sách về đóng góp học phí, lệ phí tuyển sinh, đóng góp xây dựng

trường, đóng góp phí từ phía các cơ sở sử dụng lao động, các chính sách ưu
đãi về thuế, huy động các nguồn tài trợ khác cho giáo dục ... Tuy nhiên do
việc xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục còn chưa phổ biến, việc thu hút các
nguồn lực khác cho Giáo dục còn rất khó khăn. Vì vậy, cho dù đối tượng chi
có giảm đi nhưng kinh phí đầu tư của NSNN cho giáo dục vẫn cao. Nguồn
NSNN đầu tư cho giáo dục tăng từ 19.747 tỷ đồng năm 2001 lên 81.419 tỷ
đồng năm 2008 (tăng 4,1 lần). Tỷ trọng chi của NSNN cho giáo dục trong
GDP năm 2001 là 4,1% (bằng 15,5% tổng chi NSNN), năm 2006 là 5,6%
(bằng 18,4% tổng chi NSNN). Từ năm 2008, Chính phủ đã dành 20% chi
ngân sách cho giáo dục, đạt tỷ lệ như Quốc hội đã phê duyệt cho năm 2010.

SV: Lê Ngọc Quyền

11

Lớp: CQ: 45/01.01


Tóm lại: Trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương NSNN
luôn luôn giữ vai trò chủ yếu trong việc cung cấp nguồn lực tài chính để duy
trì và phát triển sự nghiệp Giáo dục. Có thể nói đầu tư cho giáo dụcđúng
mức sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh chóng và thu lợi nhuận cao hơn
bất cứ một lĩnh vực đầu tư nào khác. Đầu tư cho giáo dục không chỉ là một
chính sách xã hội mà còn phải được coi là một chính sách kinh tế, chính
sách phát triển sản xuất. Đó là sự đầu tư kép và là đầu tư trực tiếp vào con
người - yếu tố quyết định trong lực lượng sản xuất.
Thứ hai: Chi ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc
củng cố, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng
dạy. Hai yếu tố này lại ảnh hưởng có tính chất quyết định đến chất lượng
hoạt động giáo dục.

Có thể nói, ngân sách giáo dục chủ yếu dành cho những chi phí liên
quan đến con người. Trong đó, chi lương và phụ cấp cho giáo viên luôn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên cho giáo dục. Hiện nay, trừ
một phần nhỏ các trường dân lập, bán công thì lương và phụ cấp cho giáo
viên đều do NSNN đảm bảo. Trong xu hướng xã hội hoá giáo dục hiện nay,
mặc dù một số gánh nặng về chi phí cho giáo dục được chia sẻ với khu vực
tư nhân, song chi tiêu của tư nhân không tự nó dẫn đến chất lượng giáo dục
tốt hơn, vì vậy vẫn cần nguồn kinh phí lớn và tăng nhanh từ NSNN để đáp
ứng sự gia tăng về số học sinh, do sức ép dân số ... và chi phí để nâng cao
chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục.
Thứ ba: Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn duy nhất đảm bảo
kinh phí để thực hiện các chương trình - mục tiêu quốc gia về giáo dục như:
Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng
cường cơ sở vật chất trường học, đầu tư cho giáo dục giữa các vùng các
miền thông qua cơ cấu và nội dung chi NSNN , từ đó sẽ góp phần rút ngắn
SV: Lê Ngọc Quyền

12

Lớp: CQ: 45/01.01


khoảng cách giữa các vùng, nâng cao trình độ dân trí cho toàn dân. Đây là
những chương trình mục tiêu lớn, cấp bách cần phải thực hiện và đòi hỏi
phải có sự đầu tư kinh phí khá lớn. Vì vậy Nhà nước phải tập trung ngân
sách đầu tư thực hiện cho được các chương trình này.
Thứ tư: Sự đầu tư của Ngân sách Nhà nước có tác dụng hướng dẫn,
kích thích thu hút các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục. Nhà nước đầu tư
hình thành nên các trung tâm giáo dục có tác dụng thu hút sự đầu tư của các
tổ chức, cá nhân phát triển các loại dịch vụ phục vụ cho trung tâm giáo dục

đó. Mặt khác trong điều kiện các tổ chức, cá nhân chưa có đủ tiềm lực đầu tư
độc lập cho các dự án giáo dục thì sự đầu tư vốn của ngân sách nhà nước là
số vốn đối ứng quan trọng để thu hút các nguồn lực khác cùng đầu tư cho
giáo dục. Thông qua sự đầu tư của Nhà nước vào cơ sở vật chất và một phần
kinh phí hỗ trợ đối với các trường bán công, tư thục, dân lập có tác dụng
thúc đầy mạnh mục tiêu xã hội hoá giáo dục về mặt tài chính.
Qua phân tích các vấn đề trên cho thấy, mức độ đầu tư của ngân sách
Nhà nước được coi như một trong các yếu tố tác động có tính chất quyết
định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc
gia.. Từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông .
Sự tăng cường đầu tư ngân sách cho giáo dục sẽ dẫn đến kết quả là
nguồn nhân lực phát triển, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, trên cơ sở
đó ngân sách nhà nước tăng thu và có điều kiện để đầu tư trở lại cho giáo
dục cao hơn nữa. Đó là mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư cho giáo dục với
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, đó cũng chính là con đường nhanh
nhất, ngắn nhất để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra.

SV: Lê Ngọc Quyền

13

Lớp: CQ: 45/01.01


1.3 Sự cần thiết phải tăng cường quản lý chi thường xuyên Ngân
sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
1.3.1. Nội dung quản lý chi thường xuyên Ngân sách Nhà nước cho sự
nghiệp giáo dục.
Nội dung chi ngân sách nhà nước cho giáo dục gắn liên với cơ cấu,
nhiệm vụ của ngành trong mỗi giai đoạn lịch sử và được xem xét ở các giác

độ khác nhau.
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của ngành giáo dục có thể hiện nội dung
chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục gồm:
- Chi ngân sách cho hệ thống các trường học có:
+ Chi ngân sách cho hệ thống các trường mầm non và các trường phổ
thông
+ Chi cho các trường Đảng, đoàn thể
+ Chi ngân sách cho các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục như:
Bộ giáo dục đào tạo, Sở giáo dục, phòng giáo dục....
Theo cách phân loại chi NSNN theo yếu tố và phương thức quản lý
các khoản chi cho giáo dục bao gồm:
- Chi thường xuyên
- Chi xây dựng cơ bản tập trung
Đối với các khoản chi thường xuyên căn cứ vào đối tượng của việc sử
dụng kinh phí NSNN có thể chia thành 4 nhóm mục chi sau:
1. Các khoản chi cho con người: Như chi lương, các khoản phụ cấp
theo lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phúc
lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ nhân viên, chi học bổng và trợ cấp cho học
sinh sinh viên, tiền công....
.
SV: Lê Ngọc Quyền

14

Lớp: CQ: 45/01.01


2. Chi cho hoạt động chuyên môn: Chi mua tài liệu, đồ dùng giảng
dạy và học tập chi hội thảo, hội giảng, chi cho các lớp bồi dưỡng học sinh
bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề về chuyên môn.

3. Chi mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhỏ phục vụ cho hoạt động
chuyên môn như: Mua sắm bàn ghế, bảng và các trang thiết bị khác, sửa
chữa nhỏ trong trường...
4. Các khoản chi khác: chi về công tác phí, công vụ phí, điện nước,
xăng xe, văn phòng phẩm, chi hội nghị về công tác quản lý…
Ngoài ra từ năm 1991 ngân sách Nhà nước còn chi tiêu cho các đơn vị
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục như chương trình
phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở
vật chất trường học, chương trình công nghệ giáo dục... Hầu hết các chi
khoản chi trên là những khoản chi phát sinh thường xuyên, tương đối ổn
định và có thể định mức được. Do vậy trong công tác quản lý các khoản chi
này phải lấy định mức làm cơ sở, riêng các khoản mua sắm sửa chữa nhỏ
không phát sinh thường xuyên nên phải căn cứ vào thực trạng nhà cửa trang
thiết bị, chế độ chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và đặc biệt là
khả năng nguồn vốn của NSNN để cấp phát và chi tiêu.
Đối với chi đầu tư XDCB tập trung, tuỳ theo yêu cầu quản lý nội dung
chi đầu tư XDCB được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Xét theo
hình thức tái sản xuất TSCĐ, chi đầu tư XDCB cho giáo dục được phân
thành:
- Chi đầu tư xây dựng mới các TSCĐ phục vụ cho giáo dục như các
trường học, thư viện, phòng thí nghiệm…
- Chi cải tạo, nâng cấp mở rộng các TSCĐ hiện có nhằm tăng thêm
công suất và hiện đại hoá TSCĐ như nâng cấp trường học, thư viện, xây
thêm các lớp học…
SV: Lê Ngọc Quyền

15

Lớp: CQ: 45/01.01



. Các nhân tố ảnh hưởng tới các khoản chi NSNN cho giáo dục:
- Tổng sản phẩm quốc nội và phương thức phân phối tổng sản phẩm
quốc nội:
Tổng sản phẩm quốc nôị (GDP) là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản
ánh giá trị sản phẩm mới mà nền kinh tế sáng tạo ra trong 1 năm.
Tổng sản phẩm quốc nội có ảnh hưởng tới số chi ngân sách cho Giáo
dục bởi vì:
Thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội cao, chứng tỏ một nền sản xuất có
hiệu quả khi đó thu nhập trong dân lớn, thu nhập bình quân đầu người tăng
lên. Tổng sản phẩm quốc nội cao sẽ làm giàu các nguồn tài chính khác, làm
ảnh hưởng tới số chi ngân sách cho giáo dục.
Thứ hai: Theo chế độ tài chính hiện hành, Nhà nước sẽ tham gia vào
quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội để tạo
nguồn thu cho NSNN. Nhà nước động viên một phần tổng sản phẩm quốc
nội vào tay mình làm cơ sơ vật chất cho quá trình chi tiêu. Thông thưòng tỷ
lệ điều tiết của Nhà nước có tính ổn định trong một thời gian dài cho nên khi
tổng sản phẩm quốc nội tăng sẽ làm tăng số thu NSNN, tạo cơ sở cho việc
tăng chi ngân sách cho Giáo dục, số chi NSNN cho Giáo dục không những
chịu ảnh hưởng của tổng sản phẩm quốc nội mà còn chịu ảnh hưởng của
phương thức phân phối tổng sản phẩm quốc nội: Nếu phương thức phân
phối xác định tỷ lệ lớn, số chi ngân sách Nhà thì Giáo dục sẽ phát triển mạnh
nhưng hạn chế khả năng chi cho các ngành khác và cho tích luỹ. Nếu
phương thức phân phối xác định tăng nhiều cho các ngành khác mà giảm
nhẹ khoản chi NSNN sẽ làm giảm chất lượng Giáo dục.
- Tốc độ phát triển dân số, số lượng và cơ cấu dân số:
Tốc độ dân số tăng lên, dân số lớn sẽ làm giảm thu nhập quốc dân
bình quân đầu người, giảm thu nhập bình quân của mỗi gia đình. Do đó, các
SV: Lê Ngọc Quyền


16

Lớp: CQ: 45/01.01


gia đình khó có điều kiện cho con đi học, nguồn kinh phí đầu tư từ gia đình
cũng giảm, gây ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục .
Trong trường hợp tốc độ tăng dân số nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm
quốc nội, nghĩa là thu nhập bình quân đầu người tăng lên sẽ làm tăng nhu
cầu giáo dục, chi NSNN cho Giáo dục sẽ tăng lên..
Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu giáo dục đã thực sự biến
đổi tỷ lệ thuận với dân số. Ngân sách Nhà nước khó có thể đáp ứng được
chu toàn. Trước tình cảnh đó việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình ngoài ý
nghĩa giải quyết các vấn đề xã hội còn có tác dụng giảm nhẹ nhu cầu chi
NSNN cho Giáo dục.
- Thực trạng trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho Giáo dục.
Nhân tố này có ảnh hưởng đến các khoản chi có tính chất không
thường xuyên của NSNN cho Giáo dục như khoản chi sửa chữa, mua sắm
máy móc, thiết bị cho hoạt động giảng dạy, khoản chi này không có định
mức quản lý và được xác định tuỳ thuộc vào thực trạng của nhà trường.
- Phạm vi, mức độ các khoản dịch vụ không phải trả tiền do Nhà nước
cung cấp cho học sinh:
Thực chất của nhân tố này nói đến phạm vi, mức độ các khoản được
Nhà nước bao cấp phục vụ, trước khi với cơ chế quản lý quan liêu bao cấp
hầu hết mọi nhu cầu học hành, sinh hoạt của học sinh đều được Nhà nước
bao cấp, do vậy số chi NSNN cho Giáo dục rất cao. Ngày nay khi nền kinh
tế chuyển sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phạm vi bao
cấp của Nhà nước giảm, Nhà nước chỉ đảm bảo kinh phí để duy trì sự đảm
bảo của nhà trường, phần còn lại phải huy động qua chính sách thu học phí
của học sinh. Do vậy, số chi NSNN cho Giáo dục đã giảm nhẹ mà chỉ mang

tính chất định hướng quản lý vĩ mô GD - ĐT.

SV: Lê Ngọc Quyền

17

Lớp: CQ: 45/01.01


Trên đây là 4 nhân tố khách quan tác động lớn tới số chi NSNN cho
giáo dục xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội mang lại. Tuy nhiên, từ phần
mình Giáo dục cũng tạo nên nhân tố ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo
dục.
- Mạng lưới tổ chức hoạt động sự nghiệp Giáo dục :
Tính hợp lý hay không hợp lý trong việc tổ chức mạng lưới giáo dục
sẽ tác động mạnh tới số chi, một mạng lưới giáo dục vừa gọn nhẹ vừa đủ, bố
trí trường lớp hợp lý đảm bảo được chất lượng công tác quản lý, giảng dạy
thì phần nào sẽ giảm chi cho NSNN và ngược lại trường lớp bố trí không
hợp lý, bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, biên chế giáo viên giảng dạy
quá nhiều, không xếp đủ số giờ, số tiết tiêu chuẩn cho họ theo quy định của
Nhà nước thì chi NSNN sẽ tăng lên, hiệu quả sử dụng NSNN sẽ giảm
xuống.
Với ảnh hưởng của nhân tố này theo quan điểm về lâu dài là từng
bước hợp lý hoá mạng lưới tổ chức, tinh giảm gọn nhẹ biên chế, nâng cao
chất lượng giảng dạy, phục vụ, từng bước cải cách hành chính trong hệ
thống Giáo dục. Ngành Tài chính cần có biện pháp xác định quản lý số chi
NSNN cho Giáo dục để khoản chi đó có tác dụng tích cực tới tổ chức mạng
lưới Giáo dục.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục
giúp chúng ta có cơ sở phân tích tính hợp lý về nội dung và mức độ chi

NSNN cho Giáo dục ở các năm, giải thích được sự khác nhau của nó ở các
giai đoạn lịch sử, đồng thời từ những biến đổi của các hiện tượng kinh tế xã
hội mà thấy được sự cần thiết phải thay nội dung, mức độ chi cho phù hợp.
Khi ấy các nhân tố ảnh hưởng đã thực sự trở thành các cơ sở khoa học để
xác định số chi NSNN cho Giáo dục. Ngoài ra trong công tác quản lý tài

SV: Lê Ngọc Quyền

18

Lớp: CQ: 45/01.01


chính cũng thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố đó mà áp dụng các biện
pháp quản lý thích hợp trong từng thời kỳ.

1.3.2. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý chi thường xuyên Ngân sách
Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục
Chi NSNN rất đa dạng và phong phú, trong đó có chi NSNN cho sự
nghiệp Giáo dục. Hoạt động quản lý chi thường xuyên NSNN co sự nghiệp
Giáo dục xuất phát từ lý do:
-Chi cho sự nghiệp giáo dục là một khoản chi chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi NSNN
- Nội dung chi NSNN cho sự nghiệp Giáo dục gồm nhiều khoản chi, mục
chi khác nhau lien quan đến nhiều chính sách chế độ nên cần quản lý để đạt
hiệu quả trong quá trình sử dụng NSNN.
- Chi NSNN là một mảng trong hoạt động của NSNN mà nhà nước sử dụng
để diều tiết nền kinh tế vĩ mô. Chi NSNN phải đảm bảo đúng nguyên tắc, chi
đúng mục đích, đúng kế hoạch, dựa trên dự toán được duyệt, triệt để nguyên
tắc tiết kiệm và hiệu quả, chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước…. Để đảm bảo

những yêu cầu trên đòi hỏi công tác quản lý chi thường xuyên NSNN phải
tăng cường hoạt động kiểm soát.
Trong những năm gần đây công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho
sự nghiệp Giáo dục đã có những tiến bộ đáng kể nhưng vẫn còn nhiều vấn
đề chưa được giải quyết triệt để. Nguyên nhân là do trình độ đội ngũ kế toán
còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, các mục tiêu đề ra chưa
thực hiện được tốt… đã làm lãng phí nguồn vốn NSNN. Để tìm hiểu kĩ hơn
về những mặt đã đạt được và những tồn tại trong công tác quản lý chi NSNN
SV: Lê Ngọc Quyền

19

Lớp: CQ: 45/01.01


cho sự nghiệp Giáo duc chúng ta cần đi sâu vào thực tế. Do giới hạn về thời
gian thực tập nên bài chuyên đề chỉ đề cập tới giải pháp nhằm tăng cường
công tác quản lý chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp giáo dục của
Huyện Từ Liêm

SV: Lê Ngọc Quyền

20

Lớp: CQ: 45/01.01


Chương 2:
Thực trạng chi thường xuyên của NSNN cho sự
nghiệp Giáo dục của Huyện Từ Liêm những năm qua

2.1. Khái quát chung về đặc điểm Kinh tế - Xã hội Huyện Từ Liêm
Từ Liêm là một Huyện ven đô, nằm ở phía Tây Bắc của thủ đô Hà
Nội có bề dày lịch sử hàng ngàn năm của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Do có mối quan hệ trực tiếp từ lâu đời với các trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá của đất nước nên trong con người Từ Liêm đã sớm hình thành
truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, lao động sáng tạo ra những sản
phẩm nông nghiệp và sản phẩm thủ công tinh xảo cùng với truyền thống
hiếu học từ ngàn xưa.
Sau nhiều lần tách huyện, từ tháng 9/1997 huyện Từ Liêm mới bắt tay
vào thực hiện nhiệm vụ KT-XH theo địa giới hành chính mới với nhiều
thuận lợi cơ bản song cũng còn không ít những khó khăn.
Hiện nay, huyện gồm 16 xã và một thị trấn với diện tích đất tự nhiên
75,5km2, dân số 423.838 người. Đây chính là thuận lợi cơ bản của một
huyện ngoại thành có tiềm năng lớn về đất đai, nguồn lao động dồi dào.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của huyện đã có chiều hướng phát
triển nhanh. Người nông dân Từ Liêm bước đầu chuyển sang sản xuất hàng
hoá nông sản có giá trị kinh tế cao, mở rộng quy mô phát triển các loại cây
trái đặc sản như : Bưởi (Phú Diễn), Hồng Xiêm (Xuân Đỉnh)... Bên cạnh đó
thương nghiệp dịch vụ cũng phát triển mạnh mẽ gắn liền giữa sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm, sản xuất nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới theo
hướng đô thị hoá. Vì vậy nền kinh tế của huyện ngày càng phát triển và tăng
nhanh, số hộ giàu có ngày càng nhiều.
SV: Lê Ngọc Quyền

21

Lớp: CQ: 45/01.01


Nằm trên vùng có vị trí địa lý thuận lợi, đất đai màu mỡ, có nhiều

sông ngòi, khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho việc phát triển một nền
nông nghiệp nhiệt đới. Mặt khác trong tiến trình đô thị hoá nhanh trên địa
bàn Huyện tập trung nhiều cơ quan, xí nghiệp và đặc biệt tập trung nhiều
trung tâm giáo dục lớn của thành phố và cả nước như : Học Viện Tài Chính,
Học viện Cảnh Sát Nhân Dân, Đại học Mỏ... Điều này đã có tác động rất lớn
đến sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương, nhất là trong việc
tạo ra một môi trường nhằm thúc đẩy sự nghiệp Giáo dục của Huyện phát
triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Giáo dục trong sự nghiệp
đổi mới đất nước nói chung và của Huyện Từ Liêm nói riêng, mặc dù còn
nhiều khó khăn, nhưng với mục tiêu “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”
ngành Giáo dục trên địa bàn Huyện vẫn không ngừng được sự quan tâm đầu
tư, tạo điều kiện phát triển đồng bộ theo định hướng của Đảng- UBND và
các ban ngành.
Với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của thành phố và nhờ sự kiên trì
thực hiện theo đường lối của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ thị, nghị
quyết cấp trên của toàn thể cán bộ đảng viên và nhân dân trong Huyện nên
tình hình kinh tế chính trị xã hội của Huyện giữ được thế ổn định và phát
triển sự nghiệp GD-ĐT của Huyện cũng nhờ đó mà ngày càng được củng cố,
ổn định và phát triển vững chắc về số lượng cũng như chất lượng. Đồng thời
tiếp tục đổi mới theo tinh thần nghị quyết của Ban Chấp Hành TW và quán
triệt tinh thần Nghị Quyết VII của Đảng, Nghị Quyết Đại Hội XII của Đảng
bộ Hà Nội, nghị quyết của Đảng bộ huyện Từ Liêm về công tác GD-ĐT, coi
Giáo dục là “quốc sách hàng đầu”. Thực hiện mục tiêu sát thực, có tính
chiến lược của sự nghiệp GD-ĐT của huyện để nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài nhằm thực hiện xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
SV: Lê Ngọc Quyền

22


Lớp: CQ: 45/01.01


2.2. Tình hình hoạt động của sự nghiệp giáo dục của Huyện từ Liêm
2.2.1. Mô hình quản lý ngân sách giáo dục huyện Từ Liêm.
Trong số các nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý chi
NSNN cho sự nghiệp giáo dục thì nhân tố về mô hình quản lý hợp lý là một
trong các nhân tố có vai trò mang tính quyết định.
Mô hình quản lý ngân sách giáo dục trên địa bàn huyện Từ Liêm
được thực hiện theo sơ đồ sau :
Phòng TC-KH
huyện Từ Liêm

(2)

(1)
Phòng GD
huyện Từ Liêm

Khối
mầm non

Khối
tiểu học

Khối
THCS

Khối
GDTX


Phòng TC-KH của huyện đảm nhận chi toàn bộ cho ngành học mần
non, tiểu học, trung học cơ sở, giáo dục thường xuyên do huyện quản lý.
Công tác quản lý cấp phát vốn NSNN được thực hiện như sau: Phòng Tài
chính huyện Từ Liêm nhận kinh phí bổ sung theo chương trình mục tiêu từ
Sở Tài chính – Kế Hoạch Hà Nội về chi thường xuyên :
- Chi về khối Mầm non khu vực nhà nước.
- Chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục Tiểu học.
- Chi thường xuyên về sự nghiệp giáo dục THCS.
- Chi cho khối Giáo dục thường xuyên.

SV: Lê Ngọc Quyền

23

Lớp: CQ: 45/01.01


Ghi chú : (1)- Chi từ nguồn Ngân sách huyện.
(2)- Chi theo chương trình mục tiêu do Ngân sách Thành
phố bổ sung cho Ngân sách huyện.
* Mô hình cấp phát vốn.
Phòng TC-KH
huyện Từ
Liêm

(2)
Phòng
giáo dục


(1)

(2a)

Khối
Mầm non

KBNN
huyện
Từ(3d)
Liêm

(3)
Khối
Tiểu học

Khối
THCS

(3a)

Khối
GDTX

(3b)

(3c)

Giải thích cho mô hình cấp phát kinh phí :
(1) - Phòng TC-KH huyện thông báo hạn mức kinh phí của từng

trường cho KBNN trích trả hạn mức đó sang tài khoản của từng trường.
(2) - Phòng TC-KH huyện thông báo hạn mức kinh phí cho phòng
giáo dục huyện.
(2a) - Khi có nhu cầu chi tiêu thì phòng giáo dục lập giấy rút hạn mức
kinh phí gửi lên phòng TC-KH phê duyệt, sau đó gửi toàn bộ giấy rút hạn
mức kinh phí sang kho bạc huyện để rút tiền.
(3) - Phòng TC-KH huyện thông báo hạn mức kinh phí cho từng trường.
(3a)- Khi có nhu cầu thì từng đơn vị thuộc khối mầm non đi rút tiền
tại KBNN huyện (khoản 01 : Giáo dục mầm non).
(3b)- Khi có nhu cầu thì từng đơn vị thuộc khối tiểu học đi rút tiền tại
KBNN huyện (khoản 02 : Giáo dục tiểu học).

SV: Lê Ngọc Quyền

24

Lớp: CQ: 45/01.01


(3c)- Khi có nhi cầu thì từng đơn vị thuộc khối THCS đi rút tiền tại
KBNN huyện (khoản 03 : Giáo dục THCS).
(3d)- Khi có nhu cầu thì từng đơn vị thuộc khối GDTX đi rút tiền tại
KBNN huyện (khoản 05 : Giáo dục thường xuyên).
Cấp phát bằng hạn mức kinh phí thì các trường phải đề rõ giấy xin rút
hạn mức kinh phí (hoặc chứng từ có mẫu) sau đó phòng Tài chính chi ngân
sách cho ngành Giáo dục theo Chương 22 – Loại 14- Khoản 01, 02, 03, 05.
Bên cạnh đó việc quản lý khoản cấp kinh phí ủy quyền từ ngân sách
thành phố thì phòng TC-KH huyện còn phải đảm nhận việc cấp phát kinh
phí từ ngân sách huyện đối với các khoản phát sinh. Trong quá trình cấp
phát kinh phí, phòng Tài chính kết hợp chặt chẽ với UBND huyện và phòng

Giáo dục để tăng cường công tác quản lý đạt hiệu quả cao. Phòng Tài chính
huyện đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các khoản cấp phát kinh
phí cho ngành Giáo dục trên địa bàn huyện. Là đơn vị dự toán cấp 2, phòng
Tài chính đảm nhận khối lượng công việc lớn, đây cũng là vấn đề khó nếu
như hiện nay tổ chức ngân sách của phòng tài chính thường xuyên chỉ có 1
kế toán trưởng và 4 nhân viên (1 kế toán thu, 1 kế toán chi, 1 kế toán phụ
trách ngân sách xã- thị trấn và 1 kế toán ĐTXDCB).
* Bộ máy kế toán tài chính trong ngành giáo dục huyện Từ Liêm.
Tổ chức bộ máy kế toán của ngành gồm:
Tổ tài vụ của phòng giáo dục Huyện, kế toán của các trường học với
chức năng quản lý tài chính và hạch toán thu chi, nhìn chung các trường
cũng đáp ứng được phần nào đó. Nhưng bên cạnh đó, bộ máy kế toán tài
chính của ngành giáo dục trên địa bàn huyện vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn
chế sau :

SV: Lê Ngọc Quyền

25

Lớp: CQ: 45/01.01


×