Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM THÔNG QUA CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.58 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN THỊ QUYÊN

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM THÔNG QUA CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng ở bất kỳ công trình khoa học nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ QUYÊN


MỤC LỤC


Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT................................................................i
DANH MỤC BẢNG BIỂU..............................................................................ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT..........................................................................................i
2.3. Các công cụ được sử dụng để nghiên cứu................................................................51
Bảng 3.1. Số liệu lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính...........................60
Bảng 3.2. Tỷ lệ thất nghiệp tỉnh Hải Dương từ năm 2005 đến 2014.................................61
Bảng 3.3. Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2000 đến 2014............................64
Bảng 3.4. Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo đối tác đầu tư..........................65
Bảng 3.5. Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2014 phân theo ngành kinh tế..........68
Bảng 3.6. Số liệu về số lượng việc làm được giải quyết qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
......................................................................................................................................... 69
Bảng 3.7. Số liệu số lao động trong các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài so với
số lao động toàn tỉnh đang làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh (nghìn
người)............................................................................................................................... 70
Bảng 3.8. Số liệu về tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp
khác(tỷ lệ %)..................................................................................................................... 72
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 91


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

CNH - HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

3

CSVN

Cộng sản Việt Nam

4

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

5

GCNĐT

Giấy chứng nhận đầu tư

6

FDI


Đầu tư trực tiếp nước ngoài

7

FIE

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

8

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

9

HĐND

Hội đồng nhân dân

10

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

11

KCN


Khu công nghiệp

12

KT - XH

Kinh tế - xã hội

13

MTĐT

Môi trường đầu tư

14

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

15

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

16

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

17

GQVL

Giải quyết việc làm

18

LLLĐ

lực lượng lao động

19

UBND

Uỷ ban nhân dân

20

WTO

Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT


Bảng

1

3.1

Nội dung
Số liệu lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân
theo giới tính
i

Trang
60


2

3.2

3

3.3

4

3.4

5

3.5


6

3.6

7

3.7

8

3.8

Tỷ lệ thất nghiệp tỉnh Hải Dương từ năm 2005
đến 2014
Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài từ năm 2000
đến 2014
Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo đối
tác đầu tư
Số liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2014 phân
theo ngành kinh tế
Số liệu về số lượng việc làm được giải quyết qua
đầu tư trực tiếp nước ngoài
Số liệu số lao động trong các doanh nghiệp đầu tư
trực tiếp nước ngoài so với số lao động toàn tỉnh
đang làm việc trong các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh (nghìn người)
Số liệu về tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp
FDI với các doanh nghiệp khác(tỷ lệ %)


ii

61
64
65
68
69

70

72


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết việc làm đang là một vấn đề kinh tế xã hội gay gắt đối với
Việt Nam nói riêng và kinh tế toàn cầu nói chung. Ngày nay, quan niệm về
phát triển được hiểu đầy đủ là: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công
bằng xã hội, phải xóa đói giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp.
Với vấn đề giải quyết việc làm chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói về vai
trò của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong mục tiêu của nhà
nước xã hội chủ nghĩa là Chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao
động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và được sống một đời hạnh phúc.Tư tưởng của người luôn là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết
việc làm cho người lao động.
Đại hội Đảng lần thứ XI cũng chỉ rõ giải quyết việc làm là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế,
làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức
xúc của nhân dân.

Trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực như hiện nay,
việc huy động và sử dụng nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác
động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế, chuyển giao công nghệ và kinh
nghiệm quản lý, thúc đẩy cạnh tranh làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu
ngân sách, và đặc biệt là giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó thực
hiện mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước là thực hiện thành công và nhanh
chóng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hải Dương là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc,
với mật độ dân số đông và nguồn nhân lực dồi dào. Để phát triển kinh tế xã
hội ở tỉnh Hải Dương một cách bền vững, tất yếu phải giải quyết vấn đề việc
làm, phát huy thế mạnh về nguồn nhân lực của tỉnh. Trong thời gian vừa qua

1


để giải quyết việc làm, tỉnh Hải Dương đã có nhiều giải pháp, trong đó có
việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài để giải quyết vấn đề việc làm.
Trong đại hội Đảng lần thứ XVI của tỉnh(tháng 10/2015) đồng chí
Nguyễn Mạnh Hiển cũng nhận mạnh việc kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn tỉnh phải được chú trọng hơn nữa. phải phát huy tối đa các nguồn
lực để kêu gọi các nhà đầu tư đến với Hải Dương. Nhằm mục đích giải quyết
việc làm cho số lượng lớn lao động đang ngày càng gia tăng trên địa bàn.
Mục đích là thúc đẩy tăng trưởng kinh- tế xã hội của toàn tỉnh.
Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào giải quyết
việc làm cho người lao động ở tỉnh Hải Dương bên cạnh những thành tựu vẫn
còn tồn tại những hạn chế như: lao động của tình chủ yếu vẫn là trình độ
thấp, việc học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm, công nghệ mới của người lao động
trong các doanh nghiệp FDI vẫn còn hạn chế.
Do vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư
trực tiếp nước ngoài với việc giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh

Hải Dương, từ đó đưa ra giải pháp để thúc đẩy việc giải quyết việc làm cho
người lao động ở Hải Dương từ đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới
là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Từ nhận thức trên tôi chọn đề tài: “Giải quyết việc làm thông qua các
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Hải Dương”. Để thực hiện luận văn
thạc sĩ chuyên nghành kinh tế chính trị .
Câu hỏi nghiên cứu của luận văn là:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải quyết và tạo bao nhiêu việc làm
cho người lao động ở Hải Dương và như thế nào?
- Những thành tựu và bất cập trong giải quyết việc làm từ đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Hải Dương là gì? Nguyên nhân của những bất cập đó?
- Những giải pháp nào nhằm tăng số lượng và chất lượng việc làm
cho người lao động ở Hải Dương và một số vùng lân cận từ đầu tư trực tiếp
nước ngoài ?
2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn giải quyết việc
làm từ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Hải Dương, để từ đó đưa ra giải
pháp thúc đẩy việc giải quyết việc làm từ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh
Hải Dương trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm:
+ Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết việc làm từ FDI.
+ Nghiên cứu kinh nghiệm tạo và giải quyết việc làm từ FDI của một
số địa phương và rút ra bài học kinh nghiệm cho Hải Dương
+ Phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động từ FDI
tại tỉnh Hải Dương thời gian qua.

+ Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy việc giải quyết việc làm từ
FDI ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Thực trạng giải quyết việc làm từ đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI ở tỉnh Hải Dương.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung : Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu vấn đề thông qua
việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho
người lao động địa phương như thế nào, những thành quả đạt được. Đề tài
không nghiên cứu đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, viện
trợ từ các tổ chức phi chính phủ, cũng như đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết việc làm thông qua
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hải Dương từ năm 2005 đến cuối năm 2014, đồng
thời đề xuất những giải pháp cải thiện tốt hơn việc giải quyết việc làm thông qua
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
3


4. Khái quát về phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời kết hợp một số phương pháp cụ
thể khác như: trừu tượng hoá khoa học, phân tích tổng hợp, logic và lịch sử,
so sánh, thống kê,... .
Nguồn số liệu được sử dụng: Số liệu của Văn phòng Uỷ ban nhân dân
thành phố Hải Dương, Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hải Dương, Sở
Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, Ban Quản lý các khu công nghiệp Hải
Dương, …
5. Những đóng góp của luận văn:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm,

đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm thông qua các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Hải Dương trong những năm từ 2005 đến 2014
Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm tốt hơn thông qua
nguồn vốn FDI
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo nội dung
chính của luận văn được trình bày theo 4 chương.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lý luận về
giải quyết việc làm và đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2. Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
Chương 3. Thực trạng giải quyết việc làm thông qua các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Hải Dương
Chương 4. Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy việc giải
quyết việc làm thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Hải Dương
trong thời gian tới
.
4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Vấn đề đầu tư nước ngoài cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp đã
được nghiên cứu từ lâu, trên mọi phương diện, nhưng ý nghĩa, vai trò của đầu
tư nước ngoài luôn là vấn đề được đặc biệt quan tâm, nhất là trong giai đoạn
toàn cầu hóa hiện nay.

Một số lý thuyết của các tác giả liên quan tới nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, sự hình thành khu vực FIE ( kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài) như lí thuyết của Harrod – Domar việc huy động và sử dụng nguồn
vốn FDI mang tính khách quan đối với sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia
đang phát triển.
Giải thích của K.Kojima về nguyên nhân xuất hiện đầu tư nước ngoài, đó
là do sự khác nhau về tỷ xuất lợi nhuận giữa các quốc gia, sự chênh lệch này
được bắt nguồn từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc
tế dựa trên bốn loại động lực là đầu tư hướng về thiên nhiên, đầu tư hướng về
nguồn lực dồi dào, đầu tư hướng về thị trường có rào cản thương mại và đầu tư
theo định hướng thị trường độc quyền.Theo cách giải thích này thì sự hình thành
đầu tư nước ngoài chủ yếu xét tới yếu tố môi trường đầu tư….
Nghiên cứu “Impact of government policies and Investment agreements
on FDI inflow” của tác giả Rashmi Banga do Ủy ban của Ấn Độ nghiên cứu các
quan hệ kinh tế quốc tế, xuất bản năm 2003 đề cập tới đầu tư trực tiếp nước
ngoài của 15 nước Đông, Nam và Đông Nam Á cùng với lượng hóa tác động
của chính sách đầu tư và môi trường đầu tư quốc tế tới dòng chảy vốn FDI vào

5


các nước tới năm 2001. Ngoài chính sách đầu tư thì nghiên cứu này không chú
trọng tới các yếu tố khác của môi trường đầu tư của các nước nhận đầu tư.
Bài báo “Foreign direct investment and economic growth: Evidence
from Malaysia”. Tác giả: Shaari, Mohd Shahidan Bin; Hong, Thien Ho;
Shukeri, Siti Norwahida. Nguồn: International Business Research, 2012. Đã
trình bày được kết quả của mối quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng
trưởng kinh tế dựa trên tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của Malaysia từ
năm 1971 đến năm 2010.
Three essays on foreign direct investment and economic growth in

developing countries. Tác giả: Saha, Nitesh. Trường: Utah State University,
2005. Đây là ba tiểu luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh
tế ở các nước đang phát triển.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu của các tác giả trong nước
Một số công trình liên quan đến đề tài luận văn mà tác giả được biết:
1.1.2.1. Sách, báo, tạp chí
Cuốn sách “Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu
quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” của tác giả Chu Văn Cấp,
Nguyễn Khắc Chân làm chủ biên. Nội dung chính dựa trên thực trạng thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian từ năm 1988 đến
năm 1995, tác giả đưa ra những đề xuất kinh tế, chính trị nhằn thu hút hiệu
quả vốn FDI vào Việt Nam. Trong cuốn sách tác giả đã vạch rõ thực trạng thu
hút đầu tư của Việt Nam từ sau khi Việt Nam ban hành Luật đầu tư, các nước
đến Việt Nam chủ yếu là các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, và rộng ra
là khu vực châu Á, chưa có các tập đoàn kinh tế lớn xuyên quốc gia vào Việt
Nam. Kết quả của quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam chưa
cao, việc tạo công ăn việc làm còn hạn chế.
Tác giả cũng chỉ rõ những nguyên nhân của những hạn chế đó và đưa
ra những giải pháp để thu hút nguồn FDI vào Việt Nam và những đề xuất

6


kinh tế chính trị để ngày càng thu hút hơn nữa các doanh nghiệp nước ngoài,
các quốc gia là các cường quốc kinh tế đến với Việt Nam.
Trong cuốn “Tìm hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” NXB
Chính trị quốc gia, tháng 9/ 2004 do Lê Minh Toàn( chủ biên) đã cung cấp
cho người đọc những khái niệm cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài, các
hình thức đầu tư và đặc điểm của nó.
Cuốn sách “Thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài sau khi Việt Nam gia

nhập WTO. Kết quả điều tra 140 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” do
TS. Đinh Văn Ân và TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh đồng chủ biên. Cuốn sách
nhận dạng các yếu tố của hai nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến triển khai thực
hiện và hoạt động của dự án sau khi Việt nam gia nhập WTO: Nhóm 1 –
nhóm yếu tố đến từ thực hiện cam kết WTO và nhóm 2 – một yếu tố nội tại
của nền kinh tế. Các yếu tố nội tại của nền kinh tế ảnh hưởng đến thực hiện
dự án đầu tư được đánh giá thông qua kết quả điều tra 140 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài nhằm nhận dạng một số yếu tố gây trở ngại đến thực
hiên dự án FDI.
Tài liệu Hội nghị Tổng kết 25 năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành vào tháng 12 năm 1987
được cộng đồng quốc tế đánh giá là một bước ngoặt quan trọng trong việc
thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế của Việt
Nam. Sau hơn 25 năm thực hiện, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI) luôn là khu vực phát triển năng động và đóng vai trò tích cực trong quá
trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. FDI là nguồn vốn bổ sung quan
trọng trong tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần đáng kể thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, khai thông thị trường
quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế,
đóng góp ngân sách nhà nước, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và
tạo thêm việc làm.
7


Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cho rằng, FDI
có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, trong đó có việc tạo
sức ép cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu
quả sản xuất, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước; phát triển ngành
công nghiệp phụ trợ, góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị

sản xuất toàn cầu, gián tiếp tạo việc làm, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế của Việt Nam. FDI cũng đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ cho
quá trình cải cách doanh nghiệp trong nước, khuyến khích đổi mới thủ tục
hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Có thể nói rằng, kết quả thu hút FDI thời gian qua về cơ bản đã đáp
ứng yêu cầu đặt ra về mục tiêu thu hút vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải
quyết việc làm, tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý, tuy kết quả của
từng mục tiêu trong từng giai đoạn có khác nhau.
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, song việc thu
hút FDI thời gian qua chưa đạt được một số mục tiêu như kỳ vọng, đó là tỷ lệ
dự án sử dụng công nghệ cao còn thấp, chưa thu hút được công nghệ nguồn,
tỷ lệ việc làm mới tạo ra chưa cao. Tình trạng cấp Giấy chứng nhận đầu tư
không phù hợp với quy hoạch; chưa quan tâm đầy đủ đến vấn đề an ninh quốc
gia, an ninh lương thực; chưa chú ý đến hiệu quả sử dụng tài nguyên đất
đai, khoáng sản còn diễn ra ở một số địa phương. Nhiều dự án chưa được
thẩm tra, xem xét kỹ các khía cạnh công nghệ, kỹ thuật, môi trường, lao
động… dẫn đến chất lượng dự án chưa cao. Hệ thống luật pháp, chính
sách và thủ tục đầu tư còn nhiều quy định chưa đồng bộ, thiếu nhất quán,
hay thay đổi và thời gian gần đây không còn đảm bảo tính cạnh tranh so
với một số nước trong khu vực.
Trong thời gian tới, các nguồn vốn đầu tư gián tiếp không ổn định do
tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, ODA đang có xu hướng giảm
dần; do Việt Nam là nước có thu nhập trung bình thấp, nguồn vốn từ ngân
sách và khu vực tư nhân trong nước còn hạn chế, thì FDI càng trở thành
8


nguồn lực quan trọng cho mục tiêu phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
đổi mới mô hình tăng trưởng.
Bộ trưởng Bùi Quang Vinh nhấn mạnh, trong bối cảnh cạnh tranh thu

hút FDI ngày càng mạnh mẽ và gay gắt, để cải thiện môi trường đầu tư, tiếp
tục thu hút và phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn FDI phục vụ phát triển
kinh tế đất nước.
Hội nghị đã tập trung vào một số nội dung chính sau: Đánh giá vai trò
và tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, cũng như trên các
lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình. Từ đó nêu quan điểm về
mức độ sử dụng nguồn vốn FDI trong giai đoạn tới; Đánh giá những tồn tại,
hạn chế của FDI thời gian qua và các nguyên nhân cơ bản, gồm các vấn đề
liên quan đến công tác quản lý nhà nước về FDI (hoạch định chính sách, xây
dựng quy hoạch, phân cấp, quyền hạn và trách nhiệm, sự phối hợp giữa các
bộ, ngành và địa phương, triển khai thực hiện, giám sát, kiểm tra, bộ máy
nhân lực…) và môi trường đầu tư của Việt Nam (chính sách ưu đãi đầu tư,
chính sách lao động, thủ tục…); Kiến nghị những giải pháp thiết thực và đột
phá nhằm thu hút và quản lý FDI nước ngoài trong thời gian tới, gồm nhóm
giải pháp liên quan đến quản lý nhà nước và nhóm giải pháp nhằm tăng
cường thu hút đầu tư.
Tổng kết sau 25 năm ban hành Luật đầu tư nước ngoài chỉ rõ:
Một là: Việc thu hút FDI phải được quy hoạch theo ngành, lĩnh vực,
đối tác phù hợp với lợi thế của từng vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả
đầu tư của từng địa phương, từng vùng và phù hợp tổng thể lợi ích quốc gia.
Hai là: Thu hút FDI phải theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng,
công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường, tăng cường sự liên kết với các
doanh nghiệp trong nước, phù hợp với định hướng tái cấu trúc nền kinh tế.
Ba là: Đa dạng hoá hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư nước ngoài tham gia phát triển kết cấu hạ tầng.

9


Bốn là: Tăng cường thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh

cao tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu
thế giới, từ đó xây dựng, phát triển hệ thống các ngành, các doanh nghiệp phụ
trợ. Đồng thời, chú trọng đến các dự án có quy mô vừa và nhỏ có tác động
tích cực đến kinh tế - xã hội của Việt Nam
Năm là: Chuyển dần thu hút FDI hướng vào sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao.
PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên): "Về Chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.
Các tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp
cận chính sách việc làm; làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện
nay. Từ đó khuyến nghị định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm
trong công cuộc CNH, HĐH. Qua cuốn sách cho thấy vấn đề việc làm của
Việt Nam nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng là một vấn đề mang tính
cấp thiết. Là một vấn đề kinh tế xã hôi gay gắt, cần được sự kết hợp của nhiều
ban ngành, của địa phương, các thành phần kinh tế. Trong đó thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài là kênh quan trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm
cho người lao động.
TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), "Toàn cầu hoá:
cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam", Nxb Lao động - xã hội, Hà
Nội 2002. Các tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến
lao động và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của
nguồn nhân lực, lao động và việc làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu
hoá kinh tế, phân tích những cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp đối với lao
động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương: "Thị trường lao động Việt Nam: Định
hướng và phát triển", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi từ việc
phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt
10



Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề
xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam giai
đoạn 2001- 2010.
- Ths. Nguyễn Thị Bích Thúy, “ Một đôi nét về lao động và sử dụng lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Bản tin thị trường
lao động.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, “ Thất nghiệp ở Việt Nam: hiện tượng và bản
chất”, tạp chí Lao động và xã hội, số 300, từ ngày 1-15/12/2006.
- TS.Nguyễn Bá Ngọc- TS Trần Văn Hoan, sách Toàn cầu hóa: Cơ hội
và thách thức đối với lao động Việt Nam; NXB Lao động- xã hội, 2002.
- Một số tác giả khác cũng đề cập tới vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam, vai trò, thực trạng và giải pháp trong việc thu hút
FDI vào nước ta trong giai đoạn hiện tới, như tác giả Trần Thu Thủy – “Giải
pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”; tác giả Bùi Đăng
Phú – “Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
- Ngoài các tạp chí, sách báo, có rất nhiều trang web viết về vấn đề thu hút
FDI vào Việt Nam cũng như vào các tỉnh, các vùng kinh tế…như “ Đầu tư trực
tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới đất
nước 20 năm qua”, www.mofa.gov.vn, hay bài viết trên webside của Chính phủ
“ Những thác thức thu hút FDI khi Việt Nam trở thành thành viên WTO”.
- Trên địa bàn nghiên cứu cũng có nhiều bài viết về vấn đề này, nhưng
thường mới được đề cập ở mức báo cáo của các cơ quan chức năng , các bài
viết trên các trang web như:
- www.haiduong.gov.vn
- www.baohaiduong.vn
- www.skhdt.haiduong.gov.vn
1.1.2.2.Đề tài, luận văn, luận án


11


- Luận án tiến sĩ “Một số biện pháp thúc đẩy việc triển khai thực hiện
các dự án FDI tại Việt Nam” của tác giả Bùi Huy Nhượng, năm 2006 tại
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Ngoài lý thuyết và thực trạng về
thu hút FDI, luận án đã tập trung trình bày về tình hình triển khai các dự án
FDI và đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện các dự án FDI. Lý
thuyết và thực trạng MTĐT cũng như ảnh hưởng của MTĐT không thuộc
phạm vi luận án nên tác giả không tập trung trình bày.
- Luận án tiến sĩ “Môi trường đầu tư với hoạt động thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Ái Liên, năm 2011.
Đánh giá được quá trình cải thiện môi trường đầu tư và phân tích ảnh hưởng
của môi trường đầu tư tới quá trình thu hút và triển khai thực hiện các dự án
FDI ở Việt Nam. Từ đó rút ra các tồn tại cơ bản nhằm đưa ra giải pháp khắc
phục những khó khăn trọng yếu nhằm cải thiện các yếu tố rào cản của MTĐT
đến quá trình thu hút và giải ngân nguồn vốn này.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Phan Thị Mai “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại tỉnh Hải Dương”, năm 2000. Đánh giá được vai trò của FDI đối với
việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương, vạch ra những mặt được
mặt chưa được. từ đó đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Thuyên “Nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam”
là bức tranh về thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI và tác động của
nguồn vốn này tới nền kinh tế nước ta.
- Đề tài cấp bộ “Tác động của minh bạch hóa hoạt động kinh tế đến
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” do TS. Phạm Văn Hùng chủ
nhiệm, bảo vệ 2008 đề cập đến lý thuyết, thực trạng minh bạch hóa hoạt động
kinh tế và tác động của nó đến thu hút FDI của Việt Nam. Từ đó đề tài đưa ra

giải pháp tăng cường minh bạch hóa hoạt động kinh tế nhằm thu hút có hiệu
quả nguồn vốn FDI.
12


Luận văn: “Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện
nay”của tác giả Bùi Thanh Thủy, năm 2004, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh đề tài đã chỉ rõ tình hình dân số và lao động trên địa bàn tỉnh Hải
Dương. Những bất cập trong việc tạo việc làm trên địa bàn tỉnh. Tác giả đã
chỉ rõ thực trạng của vấn đề việc làm và vấn đề tạo việc làm cho người lao
động và những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện việc giải quyết việc
làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh. Luận văn chỉ rõ rằng Đối với nước
ta hiện nay, vấn đề tạo việc làm cho người lao động thực sự là vấn đề kinh tế
- xã hội đang được đặt ra một cách bức bách, trở thành một trong những mối
quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mọi người dân. Cần đổi mới căn
bản về tư duy, cơ chế và tìm ra hướng đi phù hợp cho việc giải quyết nhiệm
vụ khó khăn và bức bách đó. Đó là trách nhiệm của chính quyền Nhà nước
các cấp, các tổ chức xã hội và của bản thân từng người lao động. Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2020 xác định mục tiêu quan
trọng hàng đầu là giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã
hội. Chương trình việc làm đến năm 2020 có mục tiêu là: bằng mọi biện pháp
và hình thức giải quyết việc làm cho phần lớn lao động xã hội, bảo đảm việc
làm có đủ thu nhập để người lao động nuôi sống được bản thân và gia đình
họ; đồng thời, đóng góp một phần cho xã hội.
Nhận rõ được tầm quan trọng trên, ở Hải Dương trong những năm qua,
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, các cấp, các ngành đã quan tâm đến công tác
giải quyết việc làm. Các ngành sản xuất kinh doanh, các đoàn thể, huyện,
thành phố trong những năm qua đã có những hoạt động thiết thực cho công
tác giải quyết việc làm như: phong trào thi đua sản xuất, phát huy sáng kiến,
cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tìm thị trường mới, tăng khả năng cạnh

tranh trong công nghiệp, phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình của các tổ
chức quần chúng, các hội như: Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông
dân, Đoàn thanh niên, Công đoàn,... Hoạt động của các loại hình kinh tế phát

13


triển nhanh, rất cơ động, đạt hiệu quả kinh tế cao đã thu hút và tạo việc làm
cho nhiều lao động.
Tuy nhiên, ở Hải Dương hiện nay vấn đề tạo việc làm vẫn là một vấn
đề bức xúc do lực lượng lao động ngày càng tăng, chất lượng và cơ cấu lao
động chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động. Trong thời gian tới,
cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ đảng và chính quyền, sự
phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền với các tổ chức chính trị-xã hội, giữa các
ngành ở cấp tỉnh đến cấp huyện, đến các xã, phường và cơ sở. Tuyên truyền
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc làm, tạo ra
những nhân tố mới làm thay đổi cơ bản nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính
quyền, các tổ chức chính trị-xã hội và mọi người dân về giải quyết việc làm
để người lao động năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho
người khác, không ỷ lại trông chờ vào Nhà nước. Tranh thủ sự ủng hộ, giúp
đỡ của các Bộ, ngành Trung ương, các tổ chức quốc tế, đơn vị ngoài tỉnh
trong hỗ trợ giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động. Gắn mục
tiêu phát triển kinh tế-xã hội với mục tiêu giải quyết việc làm, coi giải quyết
việc làm là công cụ phát triển kinh tế-xã hội.
- Đề tài nghiên cứu khoa học của khoa Kinh tế chính trị, trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, năm 2007: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề
tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa”.
Đề tài cũng chỉ rõ một trong những giải pháp hữu hiệu để tăng vốn đầu
tư, tăng năng lực sản xuất, tiếp thu công nghệ hiện đại và nâng cao trình
độ quản lý, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quan hệ giao

lưu, hợp tác kinh tế quốc tế,… Đó chính là nguồn vốn FDI. Không những
thế FDI còn tạo việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao
động, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân người lao động,
gia đình họ và cho xã hội .

14


Việt Nam cần có nhiều biện pháp thu hút các nhà đầu tư nước ngoài,
tang nguồn vốn FDI , từ đó kết hợp với sức mạnh nội lực nhanh chóng xây
dựng một nền kinh tế vững mạnh, tạo thế và lực cho việc chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 việc làm cơ bản trở thành một nước
công nghiệp hiện đại
Qua việc nghiên cứu các công trình trên, có thể nhận xét như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu kể trên đã bước đầu hệ thống hóa,
có phân tích lý luận cũng như thực tiễn về giải quyết việc làm, thu hút FDI để
giải quyết việc làm ở Việt Nam.
Thứ hai, các công trình nêu trên, ở mức độ khác nhau, đã cung cấp một
số tư liệu và kiến thức chung cho luận văn.
Thứ ba, việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm từ
FDI dưới góc độ cấp tỉnh và mang tính đặc thù riêng của tỉnh Hải Dương về
tiềm năng, thế mạnh, nguồn lực, về không gian, về định hướng phát triển và
phù hợp với điều kiện, bối cảnh mới hiện nay khi Việt Nam đang tái cấu trúc
nền kinh tế và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới chưa được tiếp cận, phân
tích và thực hiện một cách hệ thống, chuyên sâu.
Luận văn góp phần bổ sung, luận giải thêm một số nội dung về lý luận
và thực tiễn giải quyết việc làm từ FDI. Đặc biệt, sẽ hệ thống hoá và phân
tích chuyên sâu về lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm từ FDI ở tỉnh Hải
Dương. Vì vậy, đây là một công trình nghiên cứu độc lập, không trùng lắp với
các công trình đã công bố.

1.2. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm
thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài và dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài
* Khái niệm, nội dung về FDI.
- Khái niệm

15


Theo giáo trình Kinh tế đầu tư thì đầu tư là sự bỏ ra, sự hi sinh các
nguồn lực ở hiện tại. Nguồn lực này có thể là tiền, sức lao động, trí tuệ…
nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tu trong tương lai.Vốn đầu
tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một
thời kỳ nhất định.Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một số
chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố
định và tài sản lưu động.( Theo niên giam thống kê)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI: Foreign Direct Investment) là hình
thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó
sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất này.
Tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa FDI như sau: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư của đầu tư năm 2005 định
nghĩa: “ Đầu tư trực tiếp là hình thức nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư tham gia vào
hoạt động đầu tư” .Đầu tư trực tiếp có thể là đầu tư trực tiếp trong nước hay
đầu tư trực tiếp nước ngoài. “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI) là một quan
hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực
đầu tư ( tư bản) trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi
nhuận”.
Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 2, điều 3 Luật đầu tư năm 2005

định nghĩa: “ Đầu tư trực tiếp là hình thức nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư tham gia
vào hoạt động đầu tư” .Đầu tư trực tiếp có thể là đầu tư trực tiếp trong nước
hay đầu tư trực tiếp nước ngoài. “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI) là một
quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển
nguồn lực đầu tư ( tư bản) trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu
lợi nhuận”.
Qua các định nghĩa trên có thể hiểu đầu tư nước ngoài là sự di chuyển
vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước
tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích
16


thu lợi nhuận. Trong hình thức FDI người bỏ vốn và người sử dụng vốn là
một chủ thể. Họ có quyền tự quyết về đầu tư,tự quyết trong sản xuất kinh
doanh. Do vậy, họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động đầu tư
của chính mình và chấp nhận nguyên tắc” lời ăn lỗ chịu”
- Nội dung của FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế. Nó ra đời
và phát triển là kết quả của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế và quá trình
phân công lao động quốc tế theo chiều sau. Ngày nay đầu tư trực tiếp nước
ngoài ngày càng trở nên quan trọng và được xem như chiếc chìa khóa của sự
tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, bởi FDI không chỉ là nguồn cung cấp
vốn quan trọng mà còn là đường cung cấp công nghệ hiện đại, những bí quyết
kỹ thuật đặc biệt là những kinh nghiệm trong quản lý và là cơ hội tốt cho Việt
Nam tham gia hội nhập kinh tế thế giới. Từ những khái niệm đã nghiên cứu ở
trên về FDI chung ta có thể rút ra một số đặc đặc chính như sau:
+ Thứ nhất: Đây là hình thức đầu tư mà vốn đầu tư nước ngoài có thể
đóng góp dưới dạng tiền tệ, các vật hữu hình( hàng hóa, tư liệu sản xuất, nhà
xưởng, tài nguyên…), các hàng hóa vô hình( công nghệ, bí quyết kinh doanh,
uy tín hàng hóa…). Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn

vừa đủ lớn theo quy định của từng quốc gia, qua đó họ có quyền trực tiếp
tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam quy định số vốn tối thiểu của bên nước ngoài phải chiếm ít nhất
30% tổng vốn pháp định.
+ Thứ hai: Về điều hành quản lý: Quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành, có
thể trực tiếp hoặc thuê chủ quản lý. Các chủ đầu tư cũng có thể tham gia điều
hành liên doanh tùy theo tỷ lệ góp vốn của mình.

17


+ Thư ba: Thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý… mà các hình
thức đầu tư khác không đáp ứng được.
+ Thứ tư: Chia lợi nhuận: Nhà đầu tư nước ngoài được chia lợi nhuận
đầu tư phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lỗ, lãi
được phân chia theo tỷ lệ góp vốn pháp định như sau khi đã trừ thuế lợi tức và
các khoản đóng góp chi nước chủ nhà.
+ Thứ năm: Hình thức đầu tư: FDI được thực hiện thông qua việc xây
dựng các doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang
hoạt động, mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
*Khái niệm về dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
Dự án đầu tư là tập hợp những ý kiến, đề xuất về việc bỏ vốn đầu tư
vào một đối tượng nhất định và giải trình kết quả thu được từ hoạt động đầu
tư. Việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc gia khác theo một
chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian dài nhằm đáp
ứng các nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích hơn cho các chủ đầu tư và
cho xã hội được gọi là đầu tư quốc tế hay đầu tư nước ngoài.

Dự án đầu tư nước ngoài là những dự án đầu tư có sự khác nhau về
quốc tịch của các nhà đầu tư với nước sở tại tiếp nhận đầu tư và các nhà đầu
tư hoàn toàn có quyền trực tiếp quản lý dự án của mình trong thời gian dự án
hoạt động và khai thác.
Nói một cách khác thì dự án đầu tư trực tiếp là những dự án đầu tư do
các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ
chức hoặc cá nhân tiếp nhận đầu tư bỏ vốn đầu tư cùng kinh doanh và phân
chia lợi nhuận thu được.
1.2.2 Một số vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết việc làm.
1.2.2.1 Khái niệm việc làm và các khái niệm liên quan
* Khái niệm việc làm

18


Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội
và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống
xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động không giống nhau, nhưng
có liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người
với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao
động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội
về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế,
việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa
yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng quốc gia,
việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc
làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn
với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi
thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của
một quốc gia thay đổi, quan niệm việc làm cũng biến đổi. John Maynad

Keynes (1883 - 1946) nhà kinh tế học nổi tiếng của nước Anh - đã viết: "Một
nền kinh tế tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy về thực chất là nền kinh tế trong đó
những quan điểm luôn thay đổi về tương lai, có khả năng ảnh hưởng tới số
lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm mà thôi".
Theo Ghi- Hân- Tơ nhà kinh tế thuộc Viện Hải quan Luân Đôn thì:
Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội
nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của con người, kể cả
quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình
kinh tế.
Theo quan niệm này, tất cả các hoạt động, hành vi mang lại nguồn thu
nhập để đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều gọi là việc làm. Như vậy đã
đồng nhất việc làm hợp pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay không thể chấp nhận được quan niệm này, bởi khi các quan
hệ thị trường ngày càng phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều
19


nguồn thu nhập không chính đáng đang làm gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm
hãm sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Sônhin và phó tiến sỹ Grin- xốp người Nga quan niệm: Việc
làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội
có ích trong công việc nội trợ, hay trong kinh tế phụ của các nông trang viên.
Quan niệm này cho rằng tất cả những người có công việc ổn định trong
guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội, kể cả những người làm công việc nội
trợ, làm kinh tế phụ của nông trang viên, người đi học đều gọi là có việc làm.
Quan niệm này có ưu điểm là xác định lao động của người nội trợ và người
làm kinh tế phụ đều là việc làm, vì nó góp phần tạo ra thu nhập để trực tiếp
hoặc gián tiếp nuôi sống bản thân. Nhưng quan niệm này chưa chính xác khi
cho rằng những người đi học là có việc làm. Bởi vì những người đi học, ngay
cả học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp đều chưa có khả năng tạo ra

thu nhập để nuôi sống bản thân, các khoản chi tiêu của họ đều phụ thuộc vào
thu nhập của người khác, của xã hội. Đa số những người đi học trong độ tuổi
lao động nhưng không thuộc lực lượng lao động (học sinh phổ thông trung
học, học sinh các trường chuyên nghiệp). Sở dĩ có quan niệm như trên vì
trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung của mô hình CNXH trước đây, học sinh,
sinh viên, các trường chuyên nghiệp đều được coi là người có việc làm vì sau
khi ra trường họ đều được phân công công tác, không có thất nghiệp.
Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của văn phòng lao động quốc tế lại
cho rằng: Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự
trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính chất
cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
Quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai quan niệm trên. Tuy
nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật mới
được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng
lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền

20


×