Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tôn giáo dưới góc nhìn triết học và xu hướng phát triển của tôn giáo trong thế kỉ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.39 KB, 27 trang )

2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tiểu luận này, em rất vui mừng vì đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình của Thầy giáo TS. Vi Thái Lang, các đoàn thể, cá nhân và sự nỗ
lực cố gắng của bản thân.
Trước hết em xin bày tỏ lời cám ơn tới Thư viện, phòng sau đại học,
tập thể K16 TGT, các đơn vị liên quan của trường ĐHSP Hà Nội 2 và lòng
biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người đã trang bị cho em những kiến
thức quý báu và tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên,
chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để em có được
một kiến thức về lĩnh vực nghiên cứu này.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

NGUYỄN THỊ NINH


3

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Em cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

NGUYỄN THỊ NINH




4

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ............................................................................................ 2
Lời cam đoan........................................................................................ 3
Mục lục................................................................................................. 4
Mở đầu................................................................................................... 5
Nội dung............................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÔN GIÁO........................7
1.1. Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo ...............................................7
1.2. Chức năng xã hội của tôn giáo .......................................................9
1.3. Thời kì đầu: hình thành và phát triển dưới tư tưởng của chủ nghĩa duy
tâm………………………………………………………………………….11

1.4. Thời kì đã hình thành xã hội loài người có giai cấp…………………...15
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO VÀ NHỮNG MẶT TRÁI.....................16
2.1. Sai lầm trong nhận thức.................................................................16
2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội......................16
CHƯƠNG 3: TÔN GIÁO TRONG THẾ KỈ XXI...........................18
3.1. Sự phát triển các loại tôn giáo.......................................................18
3.2. Về sự phát triển tôn giáo ở Việt Nam............................................19
3.3. Sự phát triển mang tính hình thức.................................................23
3.4. Sự suy thoái thực sự......................................................................23
Kết luận................................................................................................ 25
Tài liệu tham khảo............................................................................... 27



5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống những năm đầu tiên của một thiên niên kỉ mới: thiên
niên kỉ thứ 3. Xã hội loài người đã có những bước tiến vô cùng to lớn trong
tất cả mọi mặt: Kinh tế, chính trị, khoa học kĩ thuật và nghệ thuật. Trong một
xã hội như vậy có một bộ phận không thể thiếu được, bởi nó chính là một bộ
phận cấu thành nên thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở của một xã hội, đó
chính là tôn giáo.
Tôn giáo một vấn đề tưởng chừng như vô cùng cũ kĩ, nhưng thực chất
nó luôn luôn mới mẻ. Cũng bởi vì tôn giáo nằm trong một bộ phận cấu thành
nên xã hội này nên cùng với sự thay đổi của loài người mà tôn giáo cũng có
những sự biến đổi dù là về nội dung hay chỉ là về hình thức. Tôn giáo một
hiện tượng xã hội phức tạp, chỉ cú thể giải thích nó một cách khách quan khoa
học dựa trên những quan niệm của nền tảng Triết học duy vật về lịch sử, cũng
như nhận thức duy vật khoa học. Tôn giáo là một hình thức phản ánh hư ảo,
xuyên tạc đời sống hiện thực và đã ra đời cách đây hàng chục nghìn năm
nhưng ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật trên thế
giới, tôn giáo dường như vẫn có sự phát triển đa dạng về hình thức và rộng
lớn về quy mô. Vì vậy dường như không thể giải quyết vấn đề tôn giáo một
cách đơn thuần về mặt nhận thức xã hội.
Mặt khác vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội ngày càng thể hiện
rõ nét, tôn giáo tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, các tôn
giáo lớn thường không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong phạm vi một quốc gia
riêng lẻ mà tầm ảnh hưởng còn mang tính quốc tế.
Một số học giả phương Tây còn cho rằng trong thế kỉ tới cuộc đấu tranh
trong ý thức hệ không còn nữa mà chuyển sang đấu tranh tôn giáo.



6

Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, vấn đề tôn giáo
hiện nay đã được Đảng và Nhà nước ta xem xét, đánh giá lại trên quan điểm
khách quan hơn, không xoá bỏ một cách duy ý chí như trước nữa mà nhìn
nhận trên quan điểm phát huy những mặt tích cực, gạt bỏ những mặt tiêu cực
trong các tôn giáo đặc biệt là các chỉ thị về tôn giáo, hay quan điểm của các
tôn giáo hiện nay là: “Sống tốt đời đẹp đạo”.
Trong bài tiểu luận “Tôn giáo dưới góc nhìn triết học và xu hướng
phát triển của tôn giáo trong thế kỉ XXI” của mình em chỉ muốn nhìn nhận
vấn đề này dưới góc độ triết học, đặc biệt là nhìn nhận tôn giáo trên quan
điểm duy vật biện chứng của Mác - Lênin.
Vì chỉ là một bài tiểu luận ngắn nên em chỉ có thể nói sơ qua về quá trình
hình thành và phát triển của tôn giáo nhưng sẽ tập trung vào phân tích bản
chất và xu hướng phát triển của nó trong thế kỉ XXI này (những khoảnh khắc
mà chúng ta đang sống) trong đó lấy lịch sử hình thành và phát triển của tôn
giáo làm cái nền để nhìn nhận nó như là một mối liên hệ nhân quả tất yếu.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Bản chất và quy luật của sự phát sinh và phát triển tôn giáo, vai trò, tác
dụng của tôn giáo đối với đời sống xã hội và con đường khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tôn giáo về mặt lý luận và đấu tranh chống những biểu hiện
tiêu cực của tôn giáo về mặt thực tiễn
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử


7


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÔN GIÁO
1.1. Bản chất, nguồn gốc của tôn giáo
1.1.1 Bản chất
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Đặc điểm quan trọng trong ý
thức tôn giáo là một mặt nó phản ánh tồn tại xã hội. Mặt khác, nó lại có xu
hướng phản kháng lại xã hội đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó. Vì vậy, từ khi
ra đời đến nay, cùng với sự biến đổi của lịch sử, tôn giáo cũng biến đổi theo.
Với những thành tựu to lớn của ngành khảo cổ học, người ta đã chứng
minh được sự tồn tại của con người cách đây hàng triệu năm (từ 4 – 6 triệu
năm). Tuy nhiên, với những hiện vật thu được người ta khẳng định: có đến
hàng triệu năm con người không hề biết đến tôn giáo. Bởi vì tôn giáo đòi hỏi
tương ứng với nó là một trình độ nhận thức cao, nó là sản phẩm của tư duy
trừu tượng trong một đời sống xã hội ổn định.
Hầu hết trong giới khoa học đều thống nhất rằng chỉ khi con người hiện
đại – người khôn ngoan (Homo Sapiens) – hình thành và tổ chức thành xã
hội, tôn giáo mới xuất hiện. Thời kỳ này cách đây khoảng 95.000 – 35.000
năm. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu mới chỉ là các tín hiệu đầu tiên. Đa số các
nhà khoa học đều khẳng định tôn giáo ra đời khoảng 45.000 năm trước đây
với những hình thức tôn giáo sơ khai như đạo Vật tổ (Tôtem), Ma thuật và
Tang lễ. Đây là thời kỳ tương ứng với thời kỳ đồ đá cũ.
Dựa trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử, cũng như những quan
niệm của C.Mác về tôn giáo, Ph. Ăng-ghen đó đưa ra một định nghĩa có tính
chất kinh điển từ góc độ triết học về tôn giáo như sau: “tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người của những lực
lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh


8


trong đó những lực lượng ở trần thế đó mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế”. Định nghĩa này không những chỉ ra được bản chất của tôn giáo mà
cũng chỉ ra con đường hình thành ý thức hay niềm tin tôn giáo. Ở định nghĩa
trên chúng ta thấy rằng, Ph. Ănghen tiếp tục luận điểm cho rằng con người
sáng tạo ra tôn giáo. Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện
bằng con đường nhận thức. Chủ thể tạo ra tôn giáo là con người, đối tượng
của sự phản ánh là sức mạnh ở bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của
con người, dùng phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hư
ảo. Với chủ thể, đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả
là con người tạo ra cái siêu nhiên thần thánh trong đầu óc của mình thuộc lĩnh
vực ý thức, niềm tin.
Định nghĩa của Ph.Ănghen về tôn giáo là định nghĩa rộng những cũng đó
chỉ rõ cái đặc trưng, cái bản chất của tôn giáo đó là niềm tin hay thế giới quan
hoang đường hư ảo của con người. Sự ra đời hiện tượng tôn giáo với bản chất
như trên là tất yếu khách quan. Vì khi con người bị bất lực trước sức mạnh
của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất
lực ấy. Điều đó cũng có nghĩa là bản chất của tôn giáo được thể hiện rõ nhất
thông qua chức năng đền bù hư ảo của nó.
1.1.2. Nguồn gốc
VI. Lê -nin đó gọi toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu làm
nảy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó
bao gồm ba yếu tố cấu thành: Nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức, nguồn
gốc tâm lý.
Nguồn gốc xã hội là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khách
quan của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và thể hiện những niềm tin tôn
giáo. Chúng ta thấy rằng, sự thống trị của tự nhiên đối với con người không
phải được quyết định bởi những thuộc tính và quy luật của bản thân giới tự


9


nhiên mà được quyết định bởi tính chất mối quan hệ của con người với tự
nhiên, nghĩa là bởi sự phát triển kém của lực lượng sản xuất xã hội mà trước
hết là công cụ lao động. Như vậy không phải bản thân giới tự nhiên sinh ra
tôn giáo mà là mối quan hệ đặc thù của con người với tự nhiên, do trình độ
sản xuất quyết định. Trong tất cả các hình thái xã hội trước Cộng sản chủ
nghĩa, những mối quan hệ xã hội đó phát triển một cách tự phát. Những quy
luật phát triển của xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói
buộc con người và ảnh hưởng quyết định đến số phận của họ. Những lực
lượng đó trong ý thức con người được thần thánh hoá và mang hình thức của
những lực lượng siêu nhiên.
Nguồn gốc nhận thức là sự tuyệt đối hoá, sự cương điệu mặt chủ thể của
nhận thức con người.
Nguồn gốc tâm lý không chỉ bao gồm những tình cảm tiêu cực (sự lệ
thuộc sợ đói, không thoả mãn, đau khổ, cô đơn ...) mà cả những tình cảm tích
cực (niềm vui, sự thoả mãn, tình yêu, sự kính trọng…), không chỉ những tình
cảm, mà cả những điều mong muốn, ước vọng, nhu cầu khắc phục những tình
cảm tình cảm tiêu cực muốn được đền bù hư ảo.
1.2. Chức năng xã hội của tôn giáo
Ở các ngôi mộ người tiền sử có niên đại khoảng 100,000 năm trước, các
nhà khảo cổ đã tìm thấy công cụ và vũ khí được chôn theo. Dưới góc độ nhân
học, điều đó có nghĩa là người cổ đại tin vào thế giới bên kia. Đó chính là
những manh nha đầu tiên của Tôn giáo. Vậy Tôn giáo có chức năng gì đối với
xã hội loài người? Các nhà nhân học tổng kết và chia các chức năng đó dưới
một trong hai phạm trù xã hội và tâm lý. Xã hội: Thứ nhất Tôn giáo là một
cách kiểm soát xã hội. Thông qua các điều răn, luật lệ Tôn giáo duy trì trật tự
xã hội bằng cách ủng hộ các hành vì được xã hội chấp nhận và ngược lại. Mọi
tôn giáo đều mang trong nó một hệ thống các chuẩn mực đạo đức quy định



10

các hành vi đúng đắn trong bối cảnh của xã hội nó tồn tại. Khi mà các chuẩn
mực này được gắn liền với các thế lực siêu nhiên, nó có tác động mạnh hơn.
Vì khi các thành viên tin vào sự tồn tại của các thế lực siêu nhiên, họ sẽ tuân
thủ các chuẩn mực một cách chặt chẽ hơn. Không ăn vật phẩm từ lợn trong
Đạo Hồi, hay không giết bò ở văn hóa Hindu là những minh chứng cho chức
năng kiểm soát xã hội của Tôn giáo. Thứ hai, Tôn giáo là giúp giải quyết
xung đột. Thông qua Tôn giáo, những lo lắng căng thẳng về mặt tâm lý được
giảm nhẹ. Nhờ đó nguy cơ về xung đột xã hội cũng được giảm bớt. Thứ ba
nhờ Tôn giáo và sự đoàn kết cộng đồng được củng cố. Vì thông qua tôn giáo
các thành viên cộng đồng có thể biểu lộ sự đồng nhất của mình, thông qua đó
mối quan hệ xã hội chặt chẽ được xây dựng. Nói cụ thể hơn, mỗi tôn giáo đều
có một hệ thống thần thánh hay thế lực siêu nhiên cụ thể. Các thành viên với
việc tham gia các lễ nghi sẽ có cùng một niền tin, một truyền thống sẽ cảm
thấy gần gũi hơn. Thông qua đó, tính đoàn kết cộng đồng được tăng lên. Tâm
lý: Theo các nhà nhân học, Tôn giáo có hai chức năng tâm lý là nhận thức do
đó nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh ngày càng nhiều. Tuy nhiên, mọi
xã hội, kể cả hiện đại, đều có những sự vật hiện tượng mà không giải thích
một cách logic được. Ví dụ như: Cuộc sống bắt đầu khi nào ? Sau cái chết thì
cái gì sẽ diễn ra ?... Tôn giáo giúp chúng ta trả lời các hiện tượng không giải
thích này. Về mặt tình cảm, Tôn giáo giúp các cá nhân đối mặt với sự lo lắng
thường xuất phát từ cuộc sống hàng ngày. Vì con người chưa bao giờ kiểm
soát được thế giới xung quanh, nên Tôn giáo giúp tối đa hóa sự kiểm soát này.
Con người tham gia vào các lễ nghi tôn giáo như là một cách cầu xin các thế
lực siêu nhiên giúp họ kiểm soát các hiện tượng mà họ chưa bao giờ kiểm
soát được.
Chủ nghĩa Mác cho rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nguồn gốc
của nó là ở trong những điều kiện tồn tại vật chất của xã hội trong những giai



11

đoạn phát triển xã hội nhất định, nghĩa là ở các mối quan hệ hạn chế của con
người trước những sức mạnh tự nhiên và đối với nhau. Sự bất lực của con
người trước những sức mạnh tự nhiên và xã hội đó nảy sinh ra nhu cầu đền bù
sự hạn chế của các mối quan hệ hiện thực, quan hệ “trần gian” thế giới bên
kia. Vì thế có thể gọi chức năng đền bù hư ảo là chức năng chủ yếu và đặc thù
của tôn giáo.
Luận điểm nổi tiếng của C.Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Giống như thuốc phiện, tôn giáo tạo ra bề ngoài của “sự làm nhẹ” tạm thời
nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những mất mát, những thiếu hụt hiện
thực của đời sống con người. Đồng thời gây ra những tác động có hại đối với
con người khi tạo ra ở họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực, tiêm
nhiễm cho họ những quan niệm phản khoa học.
Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, tôn giáo thậm chí có thể là chỗ dựa
tinh thần cho những ước muốn chân chính của quần chúng bị áp bức, phục vụ
cho lợi ích của họ. Nhưng ở đây nó vẫn không hề mất chức năng đền bù hư
ảo, vỡ hạt nhân cơ bản của các tôn giáo niềm tin vào cái siêu nhiên luôn luôn
gây tác động đối với tính tích cực của quần chúng, chuyển hướng niềm tin và
sự nỗ lực của họ vào con đường hư ảo. Chính vì vậy VI.Lê nin đã nhấn mạnh:
“Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân”. Câu nói đó là “hòn đá tảng” của
toàn bộ quan điểm của chủ nghĩa Mác trong vấn đề tôn giáo.
1.3. Thời kì đầu: hình thành và phát triển dưới tư tưởng của chủ nghĩa
duy tâm
Có thể nói ngay từ khi xuất hiện loài người trên trái đất này thì tôn giáo
cũng xuất hiện theo. Như Lênin đã viết: sự sợ hãi đã tạo ra thần linh, con
người từ thuở đầu sơ khai vô cùng nhỏ bé và yếu ớt, họ cảm thấy kinh sợ
trước sức mạnh của tự nhiên. Trong thế giới quan của họ thiên nhiên được cai
quản bởi các vị thần: thần sấm, thần mưa, thần gió... được phác họa trong các



12

cuốn Kinh thánh hay các cuốn sách như: Thần thoại Hi Lạp, hay các sách
kinh của các đạo Hinđu (đạo của người Ấn). Ví dụ như đạo Hinđu là một hệ
thống tôn giáo - tín ngưỡng- triết học. Tôn giáo này quan niệm các vị thần cai
quản thế giới này như Indra (thần sấm), Surya (thần mặt trời), Varu (thần
gió), Agni (thần lửa) , Varuna (thần không trung)... Con người không hề có sự
tác động gì đối với thế giới họ đang sống do đó chỉ có cúng tế kêu cầu thì con
người mới được Thần linh phù hộ trong mọi công việc.
Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm
sang trồng trọt và chăn nuôi, các hình thức tôn giáo dân tộc ra đời với sự
thiêng liêng hóa các nguồn lợi của con người trong sản xuất và cuộc sống:
thần Lúa, thần Khoai, thần Sông… hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh
sôi (thờ giống cái, hình ảnh phụ nữ, phồn thực…), đó là các vị thần của các
thị tộc Mẫu hệ. Khi đồ sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục
đích phục vụ cho sự củng cố và phát triển của dân tộc. Tất cả các vị thần ấy
còn tồn tại chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại của đế chế và được
chấp nhận như một tôn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội dung của các
tôn giáo mang tính phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các
vị thần cụ thể, với nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc hay
địa phương nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ dàng
thích nghi với các dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách nào
(chiến tranh hay hòa bình), các tôn giáo đó đã được các quốc gia bị lệ thuộc
trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận và trên nền tảng
của tôn giáo truyền thống, biến đổi thành tôn giáo riêng của quốc gia đó. Sự
bành trướng kiểu như vậy diễn ra trong suốt thời kỳ văn minh công nghiệp và
cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý rằng, giữa tôn giáo khu
vực hay tôn giáo thế giới vừa chung sống cạnh nhau, vừa tranh chấp xung đột

nhau và không ít trường hợp, với sự ủng hộ của các thế lực quân sự, chính trị,


13

chiến tranh tôn giáo đã xảy ra. Những tôn giáo như Kitô, Hồi do tính cực
đoan của mình (chỉ coi chúa hay thánh của mình là đối tượng tôn thờ duy
nhất) nên ban đầu đi đến đâu cũng khó chung sống với các tôn giáo khác đã
có mặt ở đó từ trước. Còn một số tôn giáo phương Đông như Nho, Phật thì
khác, chúng chấp nhận hòa đồng với các tôn giáo bản địa, có xu hướng trần
tục nhiều hơn là thế giới bên kia.
Ăng nghen cho rằng tôn giáo xuất hiện từ ngay trong thời kỳ nguyên
thủy, từ những quan niệm hết sức dốt nát, tối tăm, nguyên thủy của con người
về bản thân mình và thiên nhiên bao quanh họ. Các tôn giáo nguyên thủy, sơ
khai thể hiện niềm tin bản năng của con người và lúc ấy chưa gắn với các lợi
ích về kinh tế - xã hội. Các hình thức phổ biến của tôn giáo nguyên thủy là
các dạng sau:
Tô tem giáo: Tô tem theo ngôn ngữ của thổ dân Bắc Mỹ nghĩa là giống
loài. Đây là hình thức tôn giáo cổ xưa nhất, thể hiện niềm tin vào mối quan hệ
gần gũi, huyết thống giữa một cộng đồng người (thị tộc, bộ lạc) với một loài
động thực vật hoặc một đối tượng nào đó. Tô tem giáo thể hiện hình thức
nhận biết đầu tiên về mối liên hệ của con người với các hiện tượng xung
quanh. Chẳng hạn: một bộ lạc tồn tại được nhờ săn bắt một loài động vật nào
đó dẫn đến xuất hiện một ảo tưởng về mối quan hệ giữa loài vật đó với cộng
đồng người săn nó và cuối cùng con vật này lại trở thành tổ tiên chung – là
một tô tem của một tập thể nào đó.
Ma thuật giáo: Ma thuật theo tiếng Hi lạp cổ là phép phù thủy. Đây là
biểu hiện của việc người nguyên thủy tin vào khả năng tác động đến tự nhiên
bằng những hành động tượng trưng (cầu khấn, phù phép, thần chú…) nghĩa là
bằng con đường siêu nhiên. Nhờ các biện pháp ma thuật, người nguyên thủy

cố gắng tác động đến những sự kiện và làm cho nó diễn ra theo ý mình mong


14

muốn. Về sau, ma thuật trở thành một thành tố quan trọng không thể thiếu
được của các tôn giáo phát triển. Việc thờ cúng của bất kỳ tôn giáo nào cũng
phải có ma thuật (cầu nguyện, làm phép…). Tàn dư của ma thuật là các hiện
tượng bói toán, tướng số ngày nay.
Bái vật giáo: Bái vật theo tiếng Bồ Đào Nha là bùa hộ mệnh, phép lạ. Bái
vật giáo xuất hiện vào lúc mới hình thành tôn giáo và sự thờ cúng. Bái vật
giáo đặt lòng tin vào những thuộc tính siêu nhiên của các vật thể như hòn đá,
gốc cây, bùa, tượng… Họ cho rằng có một lực lượng siêu nhiên, thần bí trú
ngụ trong vật đó. Bái vật giáo là thành tố tất yếu của sự thờ cúng tôn giáo. Đó
là sự thờ cúng các tượng gỗ, cây thánh giá… hoặc lòng tin vào sức mạnh kỳ
quái của các lá bùa…
Vật linh giáo: Là hình thức tôn giáo xuất hiện muộn hơn, khi mà ý thức
của con người đã đủ khả năng hình thành nên những khái niệm. Vật linh giáo
là lòng tin ở linh hồn. Lòng tin này là cơ sở quan trọng để hình thành nên
quan niệm về cái siêu nhiên của người cổ xưa. Giai đoạn này đã có ảo tưởng
cho rằng có hai thế giới: một thế giới tồn tại thực sự và một thế giới siêu
nhiên, trong đó thế giới siêu nhiên thống trị thế giới thực tại. Thế giới siêu
nhiên này của người nguyên thủy cũng đầy đủ động vật, thực vật, các đối
tượng do tinh thần tưởng tượng ra và không khác biệt gì lắm so với thế giới
thực tại.
Chính vì vậy mà trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì:
sự bất lực của con người trước những sức mạnh tự nhiên là nguyên nhân làm


15


nảy sinh và tái hiện tôn giáo. Tôn giáo khi đó là một phần trong đời sống con
người bởi nó đã bao gồm những sức mạnh nằm bên ngoài con người và được
phản ánh vào trong thế giới quan của con người.
1.4. Thời kì đã hình thành xã hội loài người có giai cấp
Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà nước, quốc gia với
các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn là một nhu cầu
tinh thần của quần chúng mà còn là một phương tiện để giai cấp thống trị duy
trì sự thống trị áp bức giai cấp và bóc lột của mình và thực hiện sự bành
trướng, xâm lược vì vậy tôn giáo gắn liền với chính trị và bị dân tộc hóa. Từ
đó đã dẫn đến sự xuất hiện các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới.
Tôn giáo dân tộc: Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia dân
tộc của nó. Các vị thần được tạo lập mang tính quốc gia dân tộc và phạm vi
quyền lực giới hạn trong phạm vi quốc gia. Thậm chí một số tôn giáo lớn
cũng bị dân tộc hóa ở mỗi quốc gia và trở thành tôn giáo có tính chất quốc
gia. Ví dụ Anh giáo (Thanh giáo), các dòng khác nhau của đạo Hồi…
Tôn giáo thế giới: Sự phát triển của các tôn giáo vượt ra khỏi biên giới của
một quốc gia đã hình thành nên các tôn giáo khu vực và thế giới như Phật
giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo… Khác với các tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế
giới mang tính đa quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế
giới.


16

CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO VÀ NHỮNG MẶT TRÁI
2.1. Sai lầm trong nhận thức
Chính do sự sai lầm như đã trình bày ở trên mà tôn giáo có ảnh hưởng
khá tiêu cực đối với sự phát triển hoàn chỉnh của hình thái kinh tế xã hội. Xét
về mặt triết học thì con người luôn sử dụng nhận thức của mình để cải tạo xã

hội ngày càng trở nên tốt đẹp hơn thì trong thế giới quan tôn giáo thì con
người lại chẳng có tác dụng gì trong việc cải biến thế giới. Đạo Phật quan
niệm đời là bể khổ nên chủ trương lánh đời để tự tu thân mong giải thoát khỏi
cõi khổ đau để đạt tới cõi Niết bàn, là tượng trưng cho sự siêu thoát, con
đường tu thân nhằm mục đích vượt ra khỏi những tồn tại nhơ bẩn để trở thành
giọt nước trong, không vương vấn gì đến ngọn súng và dòng đục. Đạo thiên
Chúa quan niệm Chúa đã tạo nên tất cả và con người phải nghe theo lời Chúa
dạy, tất cả đã được ghi trong Kinh thánh con người của tôn giáo là con người
nhỏ bé và họ luôn phải tìm kiếm sức mạnh ở bên ngoài con người họ.
2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội
Trong đề mục này em chỉ muốn nhấn mạnh vào những ảnh hưởng tiêu
cực xuất phát từ những nhận thức sai lầm của thế giới quan tôn giáo.
- Những ảnh hưởng do chính bản thân tôn giáo gây ra
Con người trong thế giới quan tôn giáo là vô cùng nhỏ bé chính, vì vậy
con người không hề có tác dụng trong việc cải biến xã hội. Ở phương Tây đã
có một thời Thiên chúa giáo chi phối hoàn toàn nhận thức của con người. Khi
đó những ai đi ngược lại những suy nghĩ của đạo Thiên chúa đều phải nhận
lấy những hình phạt nặng nề, như Galilê chứng minh được rằng Trái đất quay
xung quanh mặt trời nhưng nhà thờ lại quan niệm rằng trái đất là trung tâm và
mặt trời phải quay quanh trái đất và kết cục là Galile đã phải lĩnh án hoả
thiêu.


17

Cũng chính bởi nhận thức sai lệch mà trong một số giáo phái xuất hiện
những tư tưởng rất cực đoan: như vụ đầu độc bằng khí độc tại ga tàu điện
ngầm của giáo phái Aum mấy năm trước tại Nhật Bản, hoặc những vụ khủng
bố của những phần tử Hồi giáo cực đoan như vụ khủng bố 11/9 tại trung tâm
thương mại Thế Giới - Mỹ vừa rồi của những phần tử này mà cầm đầu là Bin

Laden.
- Những ảnh hưởng xấu do tôn giáo bị lợi dụng bởi các thế lực khác
Cũng chính bởi tôn giáo là một bộ phận cấu thành xã hội nên nó là
phương tiện để người ta sử dụng nó cho các mục đích khác. Chúng ta hẳn còn
nhớ những vụ xây chùa giả rầm rộ ở chùa Hương để nhằm mục đích bòn rút
những đồng tiền thành tâm của các tín đồ, rồi những trò nhảm nhí như lên
đồng, gọi hồn, xem bói, giải hạn ...Tất cả chỉ là lợi dụng tôn giáo để kiếm tiền
bất chính.
Ở nước ta tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là quyền của mỗi công
dân, nhưng có một số kẻ xấu đã sử dụng chiêu bài tôn giáo để phá hoại nước
ta. Như những vụ truyền bá tư tưởng phản động của đao Hồi cực đoan vào các
tỉnh miền nam nước ta, hay lợi dụng tôn giáo để có thế lực thù địch xúi bẩy sự
nổi dậy của nhân dân các tỉnh Tây nguyên nhằm các mục tiêu chính trị của
những kẻ phản động với sự chuẩn bị ra đời của nhà nước mới.


18

CHƯƠNG 3: TÔN GIÁO TRONG THẾ KỈ XXI
3.1. Sự phát triển các loại tôn giáo
Kiểu tôn giáo hiện đại ra đời nhằm làm cho tôn giáo phù hợp với sự phát
triển mới của lịch sử xã hội. Đặc trưng của kiểu tôn giáo này là các giáo lý,
giáo luật, các hệ thống lễ nghi thờ cũng chặt chẽ, và đặc biệt là có tổ chứcnghĩa là nó đó là một tiểu hệ thống kiến trúc thượng tầng.
Tôn giáo dân tộc gắn liền với xã hội của giai cấp đầu tiên điển hình là
tôn giáo đa thần của Hy Lạp vị thần đứng đầu trong vạn thần là thần Dớt -vị
chúa tể trên trời, rồi đến các vị thần như: thần biển (pô-xê-i-đông), thần Tình
yêu và sắc đẹp (A-pho-ro-di-ta), thần Mặt trời (A-po-long) ...
Đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia, các vị thần được
tạo nên do ảo tưởng tôn giáo của nhân dân đều là những vị thần có tính chất
quốc gia, quyền lực của các vị thần đó không vượt ra ngoài khu vực. Như

C.Mác đó nhận xét tôn giáo chân chính của các dân tộc thời cổ là sự thờ cúng
mang “ tính quốc gia ” riêng, “tính nhà nước riêng”. Chính vì các mối quan hệ
chặt chẽ giữa tôn giáo dân tộc với quốc gia dân tộc mà khi nẩy sinh những
vấn đề dân tộc thường kéo theo vấn đề tôn giáo.
Tôn giáo thế giới thường gắn với những bước ngoặt quan trọng trong
lịch sử đụng chạm tới số phận đa số người. Ví dụ: đạo Phật xuất hiện vào thế
kỷ thứ IV–V trước công nguyên là hệ tư tưởng của các nhà nước chiếm hữu
nô lệ lớn nhằm thay thế đạo Bà la môn là tôn giáo có tính chất thị tộc. Đạo Cơ
đốc xuất hiện vào thế kỷ thứ I sau công nguyên, ở cuối thời kỳ khủng hoảng
kinh tế chính trị - xã hội của chế độ La Mã đa dân tộc, mở đầu cho sự ra đời
chế độ xã hội mới - chế độ phong kiến. Đạo Hồi xuất hiện vào thế kỷ thứ VII
sau công nguyên gắn liền với các bộ lạc A-ra-vin lên chế độ phong kiến.
Tôn giáo thế giới thực hiện sự truyền bá đến mọi người (không phân biệt
giới, địa vị xã hội, đặc điểm dân tộc hay chủng tộc), coi mọi người bình đẳng


19

thiêng liêng và có chung một nhu cầu được giải thoát khỏi đau khổ. Cùng sự
hưởng lạc ở thế giới bên kia theo sự truyền bá của tôn giáo thế giới, không
phụ thuộc vào địa vị xã hội của mỗi người như đối với các tôn giáo dân tộc,
mà phụ thuộc vào đạo đức của giáo dân.
3.2. Về sự phát triển tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận
lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân

gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công
với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân
nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín
ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái vật
giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên
việc Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm
nhập; Công giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và
sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền
giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật
giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên


20

chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật
giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo
đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang
trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang
hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết
ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nội,
Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng,
Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng,
Sóc


Trăng,

Trà

Vinh,

thành

phố

Cần

Thơ...

- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó
có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải
Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình
Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang...
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như
Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần
Thơ,

Vĩnh

Long,

Kiên

Giang,




Mau,

An

Giang..

.

- Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền
Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long.
- Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng
Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai,
Đắk

Nông,

Bình

Phước...



một

số

tỉnh


phía

Bắc.


21

- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí
Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận...
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số
nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật
giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ
phái tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hoá,
sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn
hoá Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là những khó khăn đặt ra
trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối
với từng tôn giáo giáo cụ thể.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo.
Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên
dưới 10 triệu người, sống tập trung ở ba khu vực chính là Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh
sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu
số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các
tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các
dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long với ba dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân
khoảng 1 triệu.

Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba
khu vực nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam


22

đa dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa
thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán
truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào
những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn giáo.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân.
Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 8085%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là
người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù
trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử,
tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng
to lớn của dân tộc.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh họat tôn giáo,
nhất là những sinh họat tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ
phận tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng tín dễ
bị các phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam có
thể thấy phần nào bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính
là cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà nước họach định chủ trương, chính sách
đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.


23

3.3. Sự phát triển mang tính hình thức
Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin và thế giới, truyền

thông tôn giáo cũng được coi như một thứ hàng hoá. Những nhà thờ của
không gian điện tử (mạng Internet), những tôn giáo có thể truy cập trên mạng
như: Buddha Net (đạo phật), Islam City đạo Hồi), Thewall.org. Nhiều giáo
phái mới ra đời.
3.4.

Sự suy thoái thực sự về nội dung

Từ khi xuất hiện đến nay, tôn giáo luôn luôn biến động phản ánh sự biến
đổi của lịch sử. Một tôn giáo có thể hưng thịnh, suy vong, thậm chí mất đi
nhưng tôn giáo luôn luôn song hành cùng với đời sống của nhân loại. Tôn
giáo là một hiện tượng xã hội sẽ còn tồn tại lâu dài.
Về đánh giá thực trạng của tôn giáo, có nhiều ý kiến khác nhau. Tựu
trung lại có ba ý kiến sau:
+ Tôn giáo đang khủng hoảng, suy tàn: những người đánh giá theo quan niệm
này cho rằng trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ.... đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân sẽ được cải thiện, tôn giáo sẽ bị suy
thoái dưới nhiều hình thái khác nhau. Họ cho rằng tôn giáo là một hiện tượng
xã hội không có tương lai
+ Tôn giáo Tây Âu suy tàn nhưng tôn giáo ở các nước khác đang phát triển:
đánh giá này xuất phát từ thực tế tôn giáo ở Tây Âu. Sự suy giảm biểu hiện rõ
nhất trong lĩnh vực thực hành tôn giáo: đi lễ và tuân thủ một số nghi lễ, niềm
tin giảm sút (nhạt đạo thậm chí khô đạo). Tuy nhiên cũng có người chỉ thừa
nhận sự suy giảm ấy chỉ diễn ra ở trung tâm châu Âu. Trong khi đó tôn giáo ở
các nước khác ngoài châu Âu, đặc biệt là các nước đang phát triển
+ Tôn giáo, tín ngưỡng đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc
gia, châu lục: cách đánh gia này được nhiều người thừa nhận. Thực tế là trong
mấy thập kỷ gần đây, tín ngưỡng, tôn giáo đang phục hồi và phát triển ở nhiều
quốc gia, châu lục. Số lượng tín đồ hiện nay chiếm khoảng 3/4 dân số trên thế
giới (có số liệu là 5/6).



24

Như một kết quả tất yếu của một loạt những sai lầm của thế giới quan
tôn giáo mà tôn giáo đã đi dần đến chỗ suy thoái. Con người ngày nay nhờ
những nhận thức đúng đắn của mình đã xây dựng nên một xã hội phát triển họ
không còn bất lực trước các sức mạnh cũng như của xã hội nữa mà họ dần
khẳng định khả năng làm chủ của mình. Ví dụ như theo điều tra gần đây nhất
thì tỉ lệ người dân phương Tây không chọn tôn giáo mình đang theo cho đứa
con mình, điều đó chứng tỏ người dân càng ngày càng đánh mất lòng tin ở tôn
giáo. Như vậy trong thế kỉ XXI này cùng với sự biến đổi của các vấn đề xã
hội khác chúng ta có thể thấy tôn giáo mất dần đi chỗ đứng trong đời sống
con người.


25

KẾT LUẬN
Hầu hết các tôn giáo vẫn mang rất nhiều giá trị quan trọng thu hút một
bộ phận đông đảo quần chúng tham gia. Đây là tình hình chung không chỉ ở
Việt Nam mà trên toàn thế giới. Các tôn giáo chỉ cũng mang giá trị văn hoá
chứ không tham gia vào chính trị.
Một số tôn giáo có sự biến đổi liên tục nhanh chóng phù hợp với sự phù
hợp về kinh tế xã hội.Tuy nhiên một số tôn giáo ở vùng dân tộc đang bị các
thế lực phản động sử dụng, đây là địa bàn khó kiểm soát vì dân trí không cao
và các thế lực thù địch có thể tuyên truyền sai lệch các quan điểm của Đảng
gây kích thích sự chia rẽ đoàn kết dân tộc, điển hình là vụ án ở Tây Nguyên
đó nói ở trên. Chính vì vậy việc tuyên truyền chính sách mới của Đảng hiện
nay rất quan trọng. Các luận điểm chủ yếu của chính sách tôn giáo mới gồm:

Mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật
Tôn giáo chỉ có ý nghĩa trong sinh hoạt văn hoá tinh thần không cùng
tham gia vào các hoạt động chính trị
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi người
Phát huy mặt tích cực của tôn giáo và hạn chế các mặt tiêu cực có hại
cho đời sống xã hội...
Ăng-ghen đã nói mọi sự phát triển không có định hướng đúng đều để lại
phía sau một bãi hoang mạc. Tôn giáo là một bộ phận trong xã hội loài người
nó có một số mặt tốt như đạo Phật quan niệm ở hiền gặp lành, ác giả ác báo...
Thiên Chúa giáo răn dạy các tín đồ của mình phải sống lương thiện đó là
những ưu điểm mà con người cần phát huy. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên
thì tôn giáo dường như sẽ mất dần đi chỗ đứng của mình, điều đó là tất nhiên
bởi theo qui luật của sự phát triển thì cái cũ sẽ bị thay thế bởi cái mới phát
triển hơn. Con người càng ngày càng phát triển và dưới sức mạnh của Khoa


26

học Công nghệ thì con người ngày nay đã có những nhận thức đầy đủ về thế
giới và họ có thể cải biến tự nhiên cũng như xã hội bằng khả năng và theo ý
muốn của mình.


×