Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

ảnh hưởng của nho giáo trung hoa tới nền văn hóa và kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.29 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐOÀN HƯƠNG GIANG

ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA TỚI
NỀN VĂN HÓA VÀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Tiểu luận triết học

HÀ NỘI - 2013

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐOÀN HƯƠNG GIANG

ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA
TỚI NỀN VĂN HÓA VÀ KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Toán giải tích
Mã số: 60 46 01 02

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. Vi Thái Lang



HÀ NỘI - 2013
Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới tất cả các tập thể và cá nhân đã tạo điều
kiện giúp tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu làm tiểu luận. Đặc biệt, tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người đã hướng dẫn tôi trong suốt
thời gian vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, chia sẻ, giúp đỡ và
đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thiện tiểu luận này.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

Đoàn Hương Giang

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận:
“Ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa tới nền văn hóa và kinh tế Việt
Nam” của tôi là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng
xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn

gốc.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

Đoàn Hương Giang

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


1

MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................4
Chương 1: Khái quát lịch sử triết học Trung Hoa cổ - trung đại..............4
1.1. Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại...........................4
1.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại...............6
1.3. Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo...................6
Chương 2: Những tư tưởng triết học cơ bản trong Nho giáo..................11
2.1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo................................................11
2.2. Nội dung cơ bản của Nho giáo...........................................................14
2.3. Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu
biểu...............................................................................................................17
Chương 3: Ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa và
kinh tế Việt Nam.........................................................................................19
3.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.............................................19
3.2. Ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống

của Việt Nam................................................................................................20
3.3. Ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa đến nền kinh tế của Việt Nam. . .24
PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................30

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ
đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung
Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát
minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra
nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng
như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết
học Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân”
(người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà
nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho
mọi người sống hợp với luân thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc
đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức chuyên học văn chương và lục
nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ thống hoá những tư tưởng
và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” - gắn
với tên người sáng lập ra nó.

Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia
phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có
phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng
thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên
khí tinh thần độc lập, tự cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền
thống văn hoá.
Tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn
hóa Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


3

hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Ảnh
hưởng của nho giáo Trung Hoa tới nền văn hóa Việt Nam” làm đề tài tiểu
luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến
truyền thống văn hóa Việt Nam. Từ đó vận dụng vào sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu về Nho giáo Trung Hoa.
+ Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
của Việt Nam.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống văn
hóa.
- Phương pháp nghiên cứu: đọc sách, phân tích tổng hợp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
về Nho giáo.
- Phạm vi nghiên cứu: xoay quanh một số vấn đề về Nho giáo và văn
hóa Việt Nam.
5. Kết cấu của tiểu luận
- Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo, phần mở đầu, phần kết luận,
tiểu luận gồm có 3 chương.

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


4

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Khái quát lịch sử triết học Trung Hoa cổ - trung đại
1.1. Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại
1.1.1. Địa lý
Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp bờ
Thái Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở như
Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh năm lạnh giá,
phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung Hoa
chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của nước Trung
Hoa thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau. Phía Bắc là những cao nguyên,
bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có núi sông bao bọc
hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như Hoàng Hà,
Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên, khí hậu mà
có nhiều chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến nhiều nền văn

minh, tư tưởng khác nhau.
1.1.2. Nhân chủng học
Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực chính như sau:
- Phía Bắc: Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục,
săn bắn. Do đời sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân
tộc kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau.
- Phía Nam: Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng,
săn bắn, khai thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân
tộc này sống tương đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do.

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


5

- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà: các dân tộc Tam Miêu
sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức
toán học, khoa học tự nhiên.
1.1.3. Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học
Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN
kéo dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất
Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến.
Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời
kỳ lớn: (1) Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; (2) Thời kỳ từ thế kỷ VIII
tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN.
- Trong thời kỳ thứ nhất: những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống.
- Thời kỳ thứ hai: còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai

đoạn chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi)
sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân rã
làm 7 quốc gia khác nhau: Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ
Hoàng - vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước thống nhất giang sơn hình thành
nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên. Dưới thời thịnh vượng của nhà Chu,
đất đai thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị một
tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo
lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung
Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó,
một loạt học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều
có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội.
Điều đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính
trong thời kỳ loạn lạc này đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


6

nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển theo
suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết
những vấn đề của triết học như vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của
triết học, vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến dịch
của vạn vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận thức.
1.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại

- Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành
vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
- Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu: hướng vào nội
tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con
người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính
là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân
sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây
(hướng ngoại).
- Đa dạng, phong phú: luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của vấn
đề, coi trọng sự hài hòa trong xã hội.
- Phương pháp tư duy: nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm” là
gốc rễ của nhận thức. Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết mà
rời rạc thông qua các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn…
- Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu thần
đan xen lẫn nhau.
1.3. Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ
hành” đã được lưu truyền từ trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời
Xuân Thu - Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm Dương - Ngũ hành đó đã đạt

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


7

tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của
thế giới.
1.3.1. Thuyết Âm - Dương

Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể,
không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn
vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối
lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.
Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét
thấy sự biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương
nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ
tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm,
cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng
đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và
thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó,
người xưa đặt ra "thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu
thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi
phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật.
1.3.2. Thuyết Ngũ hành
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn
đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm
dương hoàn bị hơn. Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Người xưa cho
rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả
là lửa thì bùng cháy, bốc lên. Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT



8

Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay. Thổ là đất thì để trồng trọt,
gây giống được. Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương
diện giúp đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên
cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương
sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức
tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng.
Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau. Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả,
hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy
tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương
sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai
phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong
chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này
gắn liền với nhau. Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể
không có khắc. Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì
phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh
mới vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau. Quy luật chế hoá
ngũ hành là: Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc. Hoả khắc kim, kim
sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả. Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ. Kim
khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim. Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc
thuỷ. Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị
sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc
thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới
đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó
sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.


Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


9

Thuyết Bát quái: Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo
thành bởi 8 nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau. Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ
thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời. Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua
Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả. Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức
vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho phần Dương. Sử dụng vạch đứt đoạn,
tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho phân Âm.
Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm
gọi là Dương Nghi và Âm Nghi. Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên
Dương Nghi thì thành Toàn Dương nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là
đã lớn). Đặt một vạch Âm lên trên Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ
ở dưới, nên gọi là Thiếu Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch
Âm lên trên Âm Nghi thì thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch
Dương lên trên Âm Nghi thì ta có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu
Âm. Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm,
Thái Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương
thể hiện Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong
Âm có mầm Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch
Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương
với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu
Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái Âm
với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh. Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3
vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn được gọi là Quẻ Đơn hay Đơn Quái,
dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính của hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ.

Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát Quái được thực hiện theo thứ tự hoàn
toàn theo tự nhiên: Dương trước, Âm sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự
và tên gọi của Bát Quái như sau: Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn,
Khôn. Càn: Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy. Đoài:

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


10

Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn. Li: Lửa, hơi nóng. Li
vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn. Chấn: Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương
mới sinh và Âm bắt đầu suy. Tốn: Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương
bắt đầu suy. Khảm: Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp
tàn. Cấn: Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn. Khôn: Đất, Địa.
Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy.

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


11

Chương 2: Những tư tưởng triết học cơ bản trong nho giáo
2.1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh

điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
2.1.1. Tứ Thư
Là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được Chu Hy thời
nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và Khổng giáo.
Chúng bao gồm: Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
Đại học: Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi
bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác
việc nước. Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải
các lời nói của Khổng Tử. Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo
quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi
theo, làm sao cho đến chổ chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều
mục (tám điều): cánh vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Cái gốc của đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách
Đại học có câu: “Tự thiên tữ dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn”
(Nghĩa là: “từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình
làm gốc”).
Trung Dung: Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của
Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về đạo
“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


12


trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên
trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp
với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
Luận Ngữ: là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên
đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc sách
này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là
về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem
lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như
có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ
của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
Mạnh Tử: Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ
của ông như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép lại
những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các
học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác
như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia
làm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học: Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú
cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối,
trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của
Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể.
Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào
vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử

Tiểu luận triết học


Đoàn Hương Giang- K16-TGT


13

đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất
với Trời.
- Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ
chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua
không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân.
Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt
ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc
nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu
rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương
về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm
cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có
thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
2.1.2. Ngũ Kinh
Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều
về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong
sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời
"chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao"
(sách Luận Ngữ).
Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước
Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các
minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong
dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không

học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ). Kinh Dịch : nói
về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


14

âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ
của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng
hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng
Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán
truyện và Hào truyện. Kinh Xuân Thu : ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ,
quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo
đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình,
sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết
đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này".
Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và
mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.). Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính
nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ
gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.
2.2. Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ
chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào
tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để
trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu
thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".
2.2.1. Tu thân

Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ
Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được
an bình.

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


15

Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối
quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi
trung thành một dạ.
- Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu
kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
- Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với
vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm
điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ

phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người
phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


16

• Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử
mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có
năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè"
(sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ,
bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử
tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại
chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi
là Tam tòng.
• Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng
Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân
không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách

Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở
thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có
tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ
thường.
• Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức",
người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn
phải có một vốn văn hóa toàn diện.
2.2.2. Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho
đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên
hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là
hai phương châm:
Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu
người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân
Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


17

thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn
thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao
nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm
gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó,
mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời
không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng

tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra
vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ). Đó chính là những
điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi
lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình,
chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi. Quân tử ban đầu có
nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên,
sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có
quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là
tiểu nhân (như dân thường).
2.3. Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu biểu
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã
hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 tr.CN) phát triển tư tưởng của Chu
Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà
người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo. Cũng giống như nhiều
nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người đời
sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ
được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để
lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm
sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử càng

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


18

khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ
thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.

2.3.1. Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục
kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và
Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường
được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời
dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng
Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung
Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò
của ông chép thành sách Mạnh Tử .
2.3.2. Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ
Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất
nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo
vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ
này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là
Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng
"lễ trị" để che đậy "pháp trị".
2.3.3. Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là
sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống
nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình
Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học
nênđược gọi là "Trạng Trình").

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT



19

Chương 3: Ảnh hưởng của Nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền
thống của Việt Nam
3.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị
trí chi phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh
hưởng của Nho giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp
còn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp
thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng kể.
Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự
hưng thịnh của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị,
nhưng xét về khía cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn
hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ
những quy luật của sự mở rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho
giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các thế lực phong
kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc thiết lập
bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có sự xâm
lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập
vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng
bộ. Sự du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực
phương Bắc được thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa,
được chính quyền đô hộ nâng đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và
bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm
Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn trong đời sống.
Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh giành độc
lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho.

Tiểu luận triết học


Đoàn Hương Giang- K16-TGT


20

Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một
ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào
thời điểm này, Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên
của nền độc lập như Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật.
Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết định trong việc gây dựng triều Lý – nhà
nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do
nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Vào
thời điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu,
nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý
Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử như
là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và
cũng từ đó về sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu
đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ
thống giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919
khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và
Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy, trong thời Lê Nguyễn liên
tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không thắm vào các tầng lớp
xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong những yếu tố
văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm.
3.2. Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống
của Việt Nam
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ
19, suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu

Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của
nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập
vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


21

hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng
nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc
đáo của văn hóa Việt Nam.
3.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt
Nam
 Tích cực
- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây
dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần
xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh
quân sự và kinh tế quốc gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người
“học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt
Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước,
pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức
và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm
người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Hiếu học đã trở thành truyền
thống văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu
dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội

ngày càng phát triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền
chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp
hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia
đình bền chặt hơn, có tôn ti hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, chacon, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan
hệ giữa người với người.

Tiểu luận triết học

Đoàn Hương Giang- K16-TGT


×