Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tính kế thừa của phủ định biện chứng trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.46 KB, 17 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mục lục
Mở đầu
Phần 1: Tính kế thừa của phủ định biện chứng
1. Khái niệm phủ định biện chứng
2.Tính kế thừa của phủ định biện chứng
Phần 2: Tính kế thừa của phủ định biện chứng trong công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
tự cung tự cấp ở Việt Nam
2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà
nớc
Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
Kết luận
Tài liệu tham khảo


mở đầu
Trong suốt 45 năm (từ khi thành lập 1930 đến khi giải phóng hoàn
toàn đất nớc 1975) Đảng ta do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện
đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian
khó và giành đợc những thắng lợi vĩ đại: làm cuộc cách mạng tháng Tám
thành công, lập nên nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đa dân tộc ta tiến vào
kỉ nguyên độc lập tự do, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh là đế quốc
Pháp và đế quốc Mĩ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nớc ,
Đảng lại lãnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công khác,
mang lại sự đổi thay từng ngày từng giờ cho nền kinh tế Việt Nam cũng
nh mang lại sức sống mới cho nhân dân cả nớc . Trớc những biến động và


những thay đổi kì diệu trong đời sống nhân loại, ngời Việt Nam nhìn ra nớc
ngoài càng suy ngẫm về con đờng phát triển kinh tế của đất nớc, về sự tăng
trởng bền vững và khả năng thu hẹp khoảng cách của nớc ta với nhiều nứoc
phát triển, về hội nhập quốc tế...Tuy rằng trớc đây chúng ta đã duy trì nền
kinh tế bao cấp, việc đó làm trì trệ nền kinh tế, thế nhng Đảng ta đã nhanh
chóng nắm bất tình thế và đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
tình hình mới, thời đại mới, Đảng ta đã chủ trơng chuyển từ nền kinh tế bao
cấp sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc vào năm 1986,
công cuộc đổi mới đã đua nớc ta thoát khỏi khủng hoang trầm trọng sang
phát triển nhanh. Không chỉ trong lĩnh vực thơng mại mà trong những
ngành khoa học cơ bản cũng dần dần đợc đầu t thích đáng hơn, bằng chứng
là ngân sách nhà nớc cho những ngành này đã tăng lên đáng kể so với
những năm đầu thập kỉ 90. Trong quá trình lãnh đạo đất nớc để thực hiện
mục tiêu Dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh tiến lên
CNXH Đảng ta đã kiên định đờng lối lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ
nghĩa Mác Lênin và áp dụng thực tiễn pháp biện chứng của Mac một
cách linh hoạt trong những đờng lối, định hớng, chính sách hoạh định phát
triển kinh tế xã hội trong nớc. Phép phủ định biện chứng với đặc tính kế
thừa đã đợc thể hiện rõ trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Đó
là sự ra đời của nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc phủ định
lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời
kì quá độ lên CNXH nhng vẫn kế thừa đợc những thành tựu đã đạt đựoc
trong thời kì trớc đó. Nhận thức đợc tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mac-Lênin đặc biệt là tính kế thừa của phủ định biện chứng vào
2


công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, bộ môn triết học Mac-Lênin đã
nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên, do đó em
chọn đề tài tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dụng vào công

cuộc đổi mói kinh tế của Việt Nam để nghiên cứu. Tuy nhiên do thời gian
có hạn kiến thức cũng nh kinh nghiệm của em cha đợc đầy đủ cho nên bài
tiểu luận này còn nhiều thiếu sót. Rất mong đợc sự giúp đỡ của thầy cô để
em có thể bổ sung và sửa chữa ở những đề tài nghiên cứu sau.




3


phần I : tính kế thừa của phủ định biện chứng

1. tính kế thừa của phủ định biện chứng:
1.1.Định nghĩa phủ định biện chứng.
Thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng. Bất cứ sự vật
hiện tợng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra tồn tại, phát triển
và diệt vong. Sự vật cũ mất đi và đợc thay thế bằng sự vật mới.Sự thay thế
đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không nh
vậy sự vật không phát triển đợc. Sự thay thế đó đợc triết học Mac-Lênin gọi
là sự phủ định. Phủ định bao gồm phủ định siêu hình và phủ định biện
chứng. Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay
đổi về lợng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thờng xuyên của
các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn đợc giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra dời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự
vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả
của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề,
điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái
cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Nh vậy, phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ

định tự thân, sự phất triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra
đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trng
sau: tính khách quan và tính kế thừa.
Những ngời theo quan điểm siêu hình coi phủ định là do những
nguyên nhân bên ngoài đa lại, xem sự vật và hiện tợng là những cái cô lập,
tách rời nhau. Phơng pháp biện chứng khẳng định cái mới ra đời thay thế
cái cũ nằm trong ngay bản thân sự vật, nó là kết quả của những mâu thuẫn
đợc giải quyết trong bản thân mỗi sự vật .
1.2.Tính kế thừa của phủ định biện chứng:
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái giữ lại trong đó những yếu tố tích
cực tiễn bộ từ cái cũ cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện chứng là kết quả
của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá
huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đới trên nền tảng của cái cũ,
chúng không thể từ h vô. Cái mới ra đời là phát triển tiếp tục của cái cũ trên
cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc,
giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung
4


những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự
biến đổi trong đó giai doạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực đợc tạo ra
ở giai đoạn trớc và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực. Do
vậy phủ định biện chứng mang tính kế thừa.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt
tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ
định đồng thời cũng là khẳng định, diễn đạt t tởng đó, Lênin viết: Không
phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi
ngờ là cái đặc trng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà lại sự phủ
định coi nh là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự
duy trì cái khẳng định.

Giá trị của sự kế thừa biện chứng đợc quy định bởi vai trò của nó trong
sự ra đời cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ cái h vô, nhờ việc giữ lại
nhân tố tích cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện
của mình.
Qúa khứ không bao giờ lại biến mất hoàn toàn. Trong dòng chảy vô
tận của thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở
hiện tại. Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiện
tại, tạo nên sợi dây liên hệ sinh động giữa quá khứ và hiện tại. Một trong
những hình thức quan trọng của cái đợc kế thừa trong đời sống xã hội là
truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những
năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Chẳng hạn, truyền thống yêu nớc của dân
tộc ta đợc các thế hệ Việt Nam kế thừa liên tục từ chỗ yêu nớc là trung với
vua đến trung với Đảng, hiếu với dân.
Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà giai đoạn sau còn bảo
tồn tất cả những gì đã đợc tạo ra ở giai đoạn trớc, chẳng hạn trong khi phủ
định Chủ nghĩa t bản với t cách là một chế độ lỗi thời chủ nghĩa xã hội
cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã
đạt đợc trong chủ nghĩa t bản, song những yếu tố đợc giữ lại đó cũng phải
đợc cải tạo, đợc biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội
để trở thành những yếu tố nội tại của CNXH.
Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biêt kế thừa những di
sản tích cực của dân tộc cũng nh của thế giới. Nhng có lúc, có nơi đã coi
nhẹ việc khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sach
trơn. Ngợc lại có lúc có nơi lại phục hồi lại những phong tục tập quán đã
lỗi thời, khong biết đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử
dụng những vốn cũ đó cho phù hợp .
5


Đối lập với quan điểm biện chứng, những ngời theo quan điểm siêu

hình coi phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự
vận động, sự phát triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình
không thấy đợc tiền đề của sự nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến
kế thừa thì họ hiểu kế thừa một cách nguyên xi không phê phán, không cải
tiến cải tạo chúng hoặc lắp ghép các yếu tố của cái cũ vào cái mới một cách
đơn giản máy móc.
Những ngời thuộc phái văn hoá vô sản ở Nga đầu những năm cách
mạng có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn
hoá vô sản không có liên quan gì với nền văn hoá trớc, họ chủ trơng xây
dựng lại từ đầu nền văn hoá mới của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu
hònh xem phát triển chỉ là sự phát triển tăng lên hay giảm đi thuần tuý về l-
ợng không có sự thay đổi về chất. Sự phát triển chỉ là thay đổi số luợng của
từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy
định về chât, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo
một vòng khép kín.
Việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ
để phân biệt một quan điểm biện chứng với quan điểm siêu hình. Điều chủ
yếu để phân biệt hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn
ra nh thế nào. Trong quan điểm biện chứng duy vật, phát triển là một phạm
trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình
thay đổi về lợng dẫn đến những thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo
vòng xoáy trôn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dờng nh có sự quay
trở lại diểm xuất phát nhng trên cơ sở cao hơn.
Nh vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ mà
còn gắn liền cái cũ với cái mới dựa trên cơ sở của cái cũ để tạo nên sự phát
triển.
Nền kinh tế nào cũng có những khuyết điểm những mâu thuẫn tồn tại
trong nó và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phơng thức

sản xuất thì chắc chắn sẽ không thể tiến lên đợc. Vì vậy nền sản xuất phải
luôn đợc đổi mới phù hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi
thời không còn năng động nữa sẽ đợc thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ,
năng động và phát triển phù hợp với thời đại. Công cụ sản xuất bằngcơ khí
ra đời thay thế công cụ sản xuất bằng lao động thủ công. Đến lợt nó sản
xuất tự động hoá ra đời thay thế công cụ bằng cơ khí của quá trình sản
6


xuất. Nguyên nhân của quá trình thay thế này là do những động lực tự thân
của nền sản xuất xã hội quy định, do những nhu cầu không ngừng biến đổi
và phát triển của con ngời. Nhng sự thay thế đó không phải là vứt bỏ, phủ
định sạch trơn phơng thức sản xuất cũ mà chúng vẫn đợc giữ lại, tồn tại
song song với phơng thức sản xuất mới và trở thành các nghành, các phơng
thức sản xuất truyền thống đôi khi chúng rất cần đối với nền kinh tế của
một số nớc .
7


phần 2 : tính kế thừa của phủ định biện chứng vào
công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam
1.Những tồn tại bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự
cung tự cấp ở Việt Nam:
Sau khi miền Bắc giành độc lập, đợc sự giúp đỡ của các nớc XHCN và
dựa vào kinh nghiệm của các nớc đó, đất nớc ta bắt đầu xây dựng mô hình
kịnh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về t
liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của nhân
dân các nớc XHCN khác, mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã phát huy đợc
tính u việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế
hoạch hoá Nhà nớc đã tập trung vào tay mình một lực lợng vật chất quan

trọng về đất đai tài sản và tiền bạc để ổn định đất nớc và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong thời kì đầu ở nớc ta đã tỏ ra
phù hợp với điều kiện của đất nớc, nó đã tạo ra một bớc chuyển biến quan
trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích ứng với nền kinh tế
thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại
của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nớc huy động ở mức cao nhất
sức ngời và sức của cho tiền tuyến.
Nhng sau khi giải phóng miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng
kinh tế đã có nhiều thay đổi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn
tại cả ba loại hình: kinh tế tự cung tự cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm
1975 nhng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trơng xây dựng kinh tế chỉ huy nh ở
miền Bắc trớc đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng
loạt các hiện tợng tiêu cực.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một
cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì ấn định trớc theo những
chỉ tiêu của Nhà nớc. Điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách
quan nh quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm
nghiêm trọng, làm cho tình hình lu thông tiền tệ, giá cả không kiểm soát đ-
ợc, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát nớc ta đã lên đến 3 con số
làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nớc ta
lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền kinh tế kém phát triển đợc sự bảo trợ
của Nhà nớc lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không
8

×