Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

so sánh sự khác nhau giữa triết học phương đông và triết học phương tấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.48 KB, 23 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

TRẦN HUY MẠNH

SO SÁNH SỰ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TẤY
Chuyên ngành: Toán giải tích
Mã số: 60 46 01 02

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học
TS. VI THÁI LANG

HÀ NỘI - 2013


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tiểu luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các đoàn thể
và cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn và kính trọng tới tất cả các tập thể và cá nhân
đã tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Trước hết tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người đã hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận. Tôi xin trân trọng cảm ơn Thư viện,
phòng sau đại học, tập thể K16 TGT, các đơn vị liên quan của trường ĐHSP Hà Nội
2 những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu để giúp tôi hoàn thiện
bài tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, chia sẻ, giúp


đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thiện tiểu luận này
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
TÁC GIẢ

Trần Huy Mạnh

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng
mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và các thông
tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
TÁC GIẢ

Trần Huy Mạnh

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


4


MỤC LỤC
Trang
PHỤ LỤC BÌA: …………………………………………………………………..1
LỜI CẢM ƠN: …………………………………………………………………....2
LỜI CAM ĐOAN: ………………………………………………………………..3
MỤC LỤC: ……………………………………………………………………….4
LỜI MỞ ĐẦU: ………………………………………………………….……..…5
NỘI DUNG:……………………………………………………………….............7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ
PHƯƠNG TÂY: ……………………………………………………………….....7
1.1. Triết học là gì?....................................................................................................7
1.2. Phương Tây và phương Đông: ……………………………………………....7
CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG
ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY …………..…8
2.1. Sự khác biệt về phép biện chứng trong triết học phương Đông và phương
Tây: …………………………………………………………………………….….8
2.1.1.Phép biện chứng trong triết học Trung quốc cổ đại:..…..……………..…….8
2.1.2. Phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại:..………………………..….12
2.2. Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông: ……….15
KẾT LUẬN: ………………………………………………………………………22
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ………………………………………………………23

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


5

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Triết học đã trải qua hàng nghìn năm phát triển đã đạt được những thành tựu to lớn,
ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Dù triết học phương Đông và phương Tây ra đời gần như cùng thời điểm (khoảng
thế kỉ VIII đến VI trước công nguyên) nhưng giữa chúng có những điểm khác biệt
căn bản. Những sự khác biệt này bắt nguồn từ sự khác nhau về điều kiện tự nhiên,
điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội,… từ sự khác nhau về quan niệm sống, cách sống
của người phương Tây và người phương Đông.
Triết học phương Tây và phương Đông đều giải quyết mặt của vấn đề cơ bản của
Triết học tuy nhiên lại có sự khác nhau trong cách giải quyết cũng như sự tập trung
giải quyết mặt thứ nhất hay mặt thứ hai.
Việc tìm ra những điểm khác nhau giữa triết học phương Đông và phương Tây là
hết sức quan trọng. Nó không chỉ giúp chúng ta hình dung được rõ nét bộ mặt của
hai nền triết học được xem như là cái nôi triết học nhân loại, mà còn chỉ ra được
mặt tích cực, hạn chế, một quan hệ giữa triết học phương Đông và phương Tây,
đánh giá thoả đáng vị trí của chúng trong lịch sử triết học. Qua đó, hình thành cho ta
phương pháp luận và nhận thức đúng đắn khi nghiên cứu về lịch sử triết học. Do
vậy, đây cũng chính là vấn đề được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ những lí do nêu trên nên em đã chọn đề tài: “So sánh sự khác nhau
giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


6

Nghiên cứu sự khác biết giữa triết học phương Tây và triết học phương Đông sẽ cho

chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về triết học cũng như nắm bắt được rõ hơn vấn đề
cơ bản của triết học. Vấn đề này đang được nhiều người quan tâm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về sự khác biệt căn bản giữa triết học phương
Đông và triết học phương Tây.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu về sự khác biệt căn bản giữa triết học phương Đông và triết học phương
Tây.
Có cái nhìn toàn diện hơn về triết học cũng như năm bắt được rõ hơn vấn đề cơ bản
của triết học
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo
Để nghiên cứu vấn đề này một cách sâu sắc và toàn diện, em đã sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, khái quát, so sánh dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin.
Nguồn tư liệu tham khảo: Một số giáo trình triết học và các tài liệu có liên quan
5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của tiểu luận được em trình bày theo
hai chương như sau:
Chương 1. Khái quát chung về triết học phương Đông và phương Tây.
Chương 2. Những điểm khác nhau giữa triết học phương Đông và phương Tây.

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG

ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
1.1. Triết học là gì?
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian
(khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn
minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật
ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết; người Trung Quốc hiểu triết học không
phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ,
là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
ở ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm
ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ
phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp
cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với
người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát
vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt
động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với
tư cách là một hình thái ư thức xă hội.
Có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lư luận chung nhất của con người về thế
giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
1.2. Phương Tây và phương Đông

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


8

Phương Đông để chỉ các nước châu á các nên văn minh trên ba lưu vực sông lớn:

sông Nin, sông Hằng, sông Hoàng Hà, chủ yếu là Ai Cập, ả rập, ấn độ và Trung
Hoa. Hầu hết các nền tôn giáo lớn của thế giới đều xuất hiện ở đây.
Phương Tây chủ yếu là các nước Tây âu như Anh, Pháp, Đức, ý, áo, Tây Ban Nha...
Ngày nay chúng ta gộp cả Mỹ vào. Tuy nhiên triết học phương Tây cổ đại thì chủ
yếu là triết học Hi Lạp cổ đại và chúng ta chỉ xét triết học Hi Lạp cổ đại. Hi Lạp cổ
đại là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm nhiều thành bang ở phía nam bán đảo
Ban Căn, nhiều đảo trên biển Êgiê và vùng Tiểu á.
Đặc điểm hai loại hình cơ sở xã hội Đông - Tây là tĩnh, ổn định đối nghịch với
động, biến động nhanh. Triết học lỏng lẻo, mềm dẻo của Đông đối lại là triết học
chặt chẽ, thống nhất thành hệ thống của Tây. Triết học phương Tây đi từ gốc lên
ngọn (từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thể luận... từ đó xây dựng nhân sinh quan
con người;) trong khi triết học phương Đông đi từ ngọn xuống gốc (từ nhân sinh
quan, vấn đề cách sống, lối sống sau đó mới là vũ trụ quan, bản thể luận...). Đó là 2
nét chính của hai nền triết học Đông - Tây.
CHƯƠNG 2. NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC
PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
2.1. Sự khác biệt về phép biện chứng trong triết học Phương đông và Phương
tây
2.1.1. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu đời vào bậc nhất
thế giới. Đó là một trong những trung tâm tư tưởng lớn nhất của nhân loại thời cổ.
Triết học Trung Quốc cổ đại chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị
xuất phát từ hiện trạng xã hội biến động đương thời. Chính vì vậy trong thời kỳ này,
các triết gia Trung Quốc thường đẩy sâu quá trình suy tư về các vấn đề thuộc vũ trụ
quan và biến dịch luận. Song cần phải khẳng định rằng, chủ nghĩa duy vật và phép

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2



9

biện chứng trong triết học Trung Quốc cổ đại là chủ nghĩa duy vật chất phác và
phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số tư tưởng biện chứng nổi bật của triết
học Trung Quốc cổ đại qua một số trường phái triết học sau:
a. Trường phái triết học Âm Dương gia
Về căn bản, những kiến giải về vũ trụ quan của triết học Trung Quốc cổ đại mang
tinh thần biện chứng sâu sắc (nếu hiểu theo nguyên tắc: phép biện chứng là học
thuyết triết học về sự biến đổi). Điển hình cho tư duy này là học thuyết Âm Dương. Nội dung triết học căn bản của phái Âm -Dương là lý luận về sự biến dịch,
được khái quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan và tất yếu.
Một là, phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất
tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập, gọi là sự
thống nhất của Âm và Dương. Nói cách khác, Âm -Dương là đối lập nhau nhưng là
điều kiện tồn tại của nhau. Hơn nữa, học thuyết Âm - Dương còn thừa nhận mọi
thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã bao hàm khả năng của
mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về sinh thành, về vận động.
Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ và chu
kỳ đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là một nguyên
lý tất định. Nguyên lý đó được khái quát bằng một lôgíc như sau: Thái cực sinh
Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái tương
thôi sinh vô cùng (vạn vật).
Về bản thể luận, phái Âm - Dương quy thế giới về những dạng vật chất cụ thể và
coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ của thế giới bao
gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
b. Triết học của phái Đạo gia

Trần Huy Mạnh


Toán giải tích: K16 đợt 2


10

Người khởi xướng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận giải về Đạo,
coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ đã thể hiện
rất sâu sắc quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi bật lên hai quan điểm
về phép biện chứng của ông là quan điểm về luật quân bình và quan điểm về luật
phản phục. Luật quân bình để giữ cho sự vận hành của vạn vật được cân bằng,
không thái quá mà cũng không bất cập. Phản phục là nói lên tính tuần hoàn, tính
chu kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện chứng độc
đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và khó tạo nên nhau,
ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và sau theo nhau. Trong
đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này thì cũng
không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tương đối. Tuy nhiên, sự đấu tranh chuyển
hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng không theo khuynh hướng phát
triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão
Tử không chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập mà
ông chủ trương lấy cái tĩnh, cái vô vi để tạo thành sự chuyển hoá theo luật quân
bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ông mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại
một cách tuần hoàn.
Trang Tử cũng là một nhà tư tưởng lớn của phái Đạo gia. Học thuyết của Trang Tử
có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhưng thế giới quan của ông về cơ
bản nghiêng về chủ nghĩa duy tâm. Khi quan niệm về vũ trụ (về Đạo), Trang Tử cho
rằng Đạo trời là tự nhiên vốn có không ai sinh ra. Vạn vật đều sinh ra từ Đạo và
biến hoá một cách tự nhiên.
c. Triết học của phái Danh gia
Các tư tưởng biện chứng của phái Danh gia trước hết được thể hiện qua thuyết

tương đối của Huệ Thi. Huệ Thi quan niệm vạn vật trong vũ trụ luôn biến đổi,
chúng có tính tương đối và hàm chứa trong đó những mặt đối lập liên hệ chuyển

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


11

hoá qua lại với nhau. Nhưng do tuyệt đối hoá tính chất tương đối của sự vật, thực
tại, tách rời nó với những điều kiện, những mối liên hệ cụ thể nên về cơ bản, triết
học của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tương đối luận.
Một biện giả khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. Tư tưởng biện chứng tự
phát của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn của sự vận
động, sự thống nhất biện chứng giữa cái vô hạn và hữu hạn, giữa đồng nhất và khác
biệt. Trong đó, Công Tôn Long đưa ra những mệnh đề có tính chất ngụy biện, chiết
trung như: ngựa trắng không phải là ngựa, trứng có lông, bóng chim bay không hề
động đậy. Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính chất tương đối, sự luôn biến đổi của
sự vật, hiện tượng trong hiện thực, phóng đại một cách phiến diện mặt tương đối
của sự vật và đưa đến kết luận tương đối chủ nghĩa thì Công Tôn Long lại nhấn
mạnh tính tuyệt đối, tính không biến đổi và sự tồn tại độc lập của những khái niệm
so với cái được phản ánh trong khái niệm ấy. Công Tôn Long đã tách rời cái chung,
cái phổ biến ra khỏi những cái riêng, cái cá biệt đi tới phủ nhận sự tồn tại của những
cái cụ thể trong hiện thực.
d. Triết học của phái Pháp gia
Hàn phi là một đại biểu của phái Pháp gia. Kiên quyết phủ nhận lý luận chính trị
thần quyền, Hàn Phi được coi là một nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung Quốc cổ
đại. Các tư tưởng triết học của ông biểu hiện rõ tính chất duy vật và biện chứng tự
phát về lịch sử và phương pháp trị nước. Về lịch sử, Hàn Phi cho rằng lịch sử xã

hội loài người luôn biến đổi, từ trước tới nay không có chế độ xã hội nào vĩnh viễn
tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực căn bản quyết định sự biến đổi của lịch sử
là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội nhiều ít. Do vậy, khi bàn về phương pháp
trị nước, ông cho rằng kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử,
tuỳ đặc điểm, hoàn cảnh thời thế mà lập ra chế độ, đặt chính sách và phương pháp
trị nước mới cho phù hợp. Không có thứ luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại.
Tuy Hàn Phi chưa thấy được động lực thực sự của lịch sử, nhưng ông đã cố gắng đi
tìm nguyên nhân biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh hoạt vật chất của

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


12

xã hội.
Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận thức, triết
học Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất phác, cảm tính và
phép biện chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm biện chứng trong cách
kiến giải về vũ trụ quan, có thể nói triết học Trung Quốc cổ đại đã đặt cơ sở rộng
lớn cho sự phát triển các tư tưởng biện chứng của triết học nhân loại.
2.1.2. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở kinh tế của
nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ.
Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, vật
lý học, thiên văn học,... Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật
tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị của Hy Lạp bấy giờ sôi động,
những quan hệ thương mại với nhiều nước khác nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp
xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ của nhân dân các nước ấy, sự

quan sát các hiện tượng tự nhiên một cách trực tiếp như một khối duy nhất và lòng
mong muốn giải thích chúng một cách khoa học đã góp phần quy định và làm phát
triển thế giới quan duy vật và biện chứng sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Có thể tìm
hiểu các tư tưởng biện chứng nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại
diện tiêu biểu sau đây:
a. Talét
Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự phát.
Ông cho rằng nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi vật trong thế giới. Mọi
vật đều sinh ra từ nước và khi phân huỷ lại biến thành nước. Theo Talét, vật chất
tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và
chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi vật biến đổi
không ngừng mà nền tảng là nước. Tuy nhiên, các quan điểm triết học duy vật của
Talét mới chỉ dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. Ông chưa thoát khỏi

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


13

ảnh hưởng của quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ khi ông cho rằng thế
giới đầy rẫy những vị thần linh.
b. Anaximăngđrơ
Ông là người Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu nghiêm túc vấn đề phát sinh và phát triển
của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh dưới nước và sau nhiều năm
biến hoá thì một số giống loài dần thích nghi với đời sống trên cạn, phát triển và
hoàn thiện dần; con người hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng đoán của ông
còn chưa có căn cứ khoa học song đã manh nha thể hiện yếu tố biện chứng về sự
phát triển của các giống loài động vật. Khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học,

Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật
chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta không thể trực
quan thấy được. Nếu so với Talét thì Anaximăngđrơ có bước tiến xa hơn trong sự
khái quát trừu tượng về phạm trù vặt chất.
c. Hêraclít
Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác-Lênin, Hêraclít là người sáng lập ra phép
biện chứng, hơn nữa, ông là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy
vật. Phép biện chứng của Hêraclít chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các
luận điểm khoa học như sau này, nhưng hầu như các luận điểm cốt lõi của phép
biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và
triết lý. Các tư tưởng biện chứng của ông thể hiện trên các điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít, không có
sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều trong
trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại.
Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện
tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt
đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi của những mặt đối

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


14

lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới do quy
luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi
cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy nghĩ
của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan.

Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng sơ khai,
nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác
không có tư tưởng biện chứng nào sâu sắc như vậy. Heraclít đã đưa triết học duy
vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện
chứng. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà triết học cận đại, hiện đại kế thừa và
phát triển sau này. Mác và Ăngghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học
của Hêraclít, coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Tuy
nhiên, Mác và Ăngghen cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm của Hêraclít về mặt
chính trị. Đó là tính chất phản dân chủ, thù địch với nhân dân và ông chủ trương
dùng chính quyền để dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ.
d. Pácmênít
Khái niệm trung tâm trong triết học của Pácmênít là tồn tại hết sức trừu tượng song
cũng chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát. Ông cho rằng với cách nhìn cảm
tính thì thế giới vô cùng đa dạng, phong phú, biến đổi không ngừng và vô cùng sinh
động. Nhưng bằng con đường cảm tính đơn thuần không thể khám phá ra bản chất
đích thực của thế giới. Chỉ với cách nhìn triết học phù hợp với trí tuệ lý tính mới
khám phá ra bản chất đích thực của thế giới. Ông cho rằng bản chất của mọi vật
trong thế giới là tồn tại. Học thuyết về tồn tại của Pácmênít đánh dấu một bước tiến
mới trong sự phát triển tư tưởng triết học Hy Lạp, mang tính khái quát cao. Tuy
nhiên, hạn chế trong học thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ ông đã đồng nhất tuyệt
đối giữa tư duy và tồn tại và mang tính chất siêu hình vì ông cho rằng tồn tại là bất
biến.

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


15


Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa biện
chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết nguyên tử của
Đêmôcrít, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát, Platôn và phép biện chứng chất
phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao chứa mầm mống của tất cả thế giới
quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong lịch sử triết học
nhân loại. Chính vì vậy, Lênin coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại là khởi nguyên lịch sử phép biện chứng.
2.2. Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương
Đông
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong
mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân là
một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:
Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời
nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công
nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của
những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan
hệ con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ
trong hệ thống lớn... trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một.
Như vậy con người cũng chứa đựng tất cả những tính chất, những điều
huyền bí của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các
khuynh hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng
vũ trụ, vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo
đức Trời phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có
đầy đủ trong ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào
lớn hơn nữa. Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới
khách quan mà chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà
thôi. Như vậy theo ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì

Trần Huy Mạnh


Toán giải tích: K16 đợt 2


16

mọi sự vật đều yên ổn, không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung
thì cho rằng: vũ trụ trong lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh
hướng duy vật thô sơ - kinh dịch thì biết đến cùng cái tính của con
người thì cũng có thể biết đến cái tính của vạn vật, trời đất: trời có
chín phương, con người có chín khiếu. Ở phương Đông khuynh hướng
duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen với duy tâm, mặc dù nó là
kết quả của quá trình khái quát những kinh nghiệm thực tiến lâu dài
của nhân dân Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm duy vật được thể hiện
rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang tính chất trực quan, chất
phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm, thần bí về lịch sử xã
hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ khuynh hướng duy vật
và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và
sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng trong tự nhiên cũng như
trong xã hội.
Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới
quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần
mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối
cổ của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có
màu sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy
tâm, tôn giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao”
sángtạo và chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại
cao nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta

sẽ nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn
khỏi sự lo âu khổ nào của đời sống trần tục và ràng buộc của thế giới
này là “tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy nhất, có
trước nhất, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


17

nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh
thần vũ trụ, là đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ
xung quanh cái tồn tại thực sự, là khách thể.
Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình
hoá, là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con
người mà thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một
bộ phận của “tinh thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại
trong thể xác con người ở đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm
tưởng rằng linh hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác
với nguồn sống không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.
Vậy nên kinh Vêđa nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế
bắt chước hoà điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên
ngoài. Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng
nhất cá nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế
giới khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên
dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:

Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định
nhiều đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người
làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như
nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo
luận trong triết học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết
học phương Tây lại đặ trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất
hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích
thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của
vũ trụ.

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


18

Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng
quan niệm khác phương Tây:
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người
với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con
người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của
giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải
phóng con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa
người với người trong lao động sản xuất.
Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao
cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con
người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã
hội, cái gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới

dạng thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội
khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát
triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc
lập. Và có những thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học
của khoa học như triết học Trung hoa đan xen với chính trị lý luận,
còn triết học Ấn độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung ở
phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học
độc lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu
đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn
tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận
của giáo hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt
về chất có tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ,

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


19

kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ
thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ III – V
trước công nguyên đến thế kỷ 19).
Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay
đi sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên
cơ sở nhân – lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện
nào đó ví như Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời
Hán biến thành tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý...

Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng
hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát
triển nó hớn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra
thức triết học mới. Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã
được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn
đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không gay gắt và cũng không
triệt đêt. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài
và bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh
bên nhau.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi
thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra
đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái
Talét, Hêraclit... đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở
Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức... Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa
duy tâm và duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện
chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi
sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


20

vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ
thế giới quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ
lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như

phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét
hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác
thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác so
với triết học phương Tây ở 3 mảng:
Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo
sắc, hình, vạn pháp,... hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để
nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể;
con người với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn
phương Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần.
Trong đó hình thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều
nhất.
Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ
“biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái
đấu tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ
động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống
nhất, lấy cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông triết học được xây dựng
trên quan điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn
phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2



21

phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính
nhịp điệu, tính quy luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái cực đến
lưỡng nghi... Có nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp
khổng lồ các soắn ốc...
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây
nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết
những vấn đề có liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải
quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định, tư
duy vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất
hiện. Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết
học với những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại
hiểu cách nào cũng được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay
khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.
Trên đây là một vài điểm khác biệt căn bản giữa triết học phương
Đông và phương Tây mà chúng ta có thể nhận thấy, ngoài ra chúng còn
có nhiều điểm khác biệt với nhau nữa mà trong thời gian có hạn tôi có
thể chưa tìm ra được. Rất mong sự góp ý của cô giáo.

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2


22

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu và trình bày như ở trên, có thể thấy rằng triết học phương
Đông và triết học phương Tây thời cổ đại bước đầu đạt được những thành tựu
nhất định và có những đóng góp đáng kể cho lịch sử triết học phân loại.
Cùng đi sâu giải quyết vấn đề cơ bản của triết học: vấn đề quan hệ giữa tư duy với
tồn tại những nỗi trường phái triết học phương Đông và phương Tây cổ đại lại xây
dựng cho mình những học thuyết lí giải riêng, vừa có điểm tương đồng nhưng cũng
có phần khác nhau rất rõ. Sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết học
phương Tây cổ đại được thể hiện cụ thể ở 7 tiêu chí như đã trình bày ở trên:
Sự khác biệt này do nhiều nguyên nhân chi phối song nguyên nhân chủ yếu chính là
sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội. Bởi lẽ triết học là một hình
thái ý thức xã hội và chịu sự qui định của tồn tại xã hội.
Với nghiên cứu triết học phương Đông và triết học phương Tây cổ đại có ý nghĩa
hết sức to lớn. Bởi lẽ, thông qua hoạt động nghiên cứu triết học, chúng ta đã thấy
được sự phát triển lịch sử tư tưởng triết học của nhận loại thời cổ đại, nắm bắt được
quá trình hình thành và phát triển của những phương pháp nhận thức khoa học. Từ
đó, cho ta biện pháp hữu hiệu để nghiên cứu, đánh giá một học thuyết triết học
trong triết học cổ đại nói riêng và trong lịch sử triết học nói chung, đồng thời, góp
phần hình thành và phát triển phương thức tư duy khoa học.
Việc chỉ ra sự khác nhau giữa triết học phương Đông và phương Tây cổ đại đã giúp
ta có cách đánh giá thoả đáng vị trí hai nền triết học này trong lịch sử. Triết học
phương Đông cổ đại ra đời từ rất sớm và là cái nôi của triết học nhân loại. Triết học
phương Tây cổ đại ra đời muộn hơn nhưng “đã có mồng mống và đang nảy nở hầu
hết tất cả các loại thế giới quan sau này” (Ph.Ăngghen). Tuy nhiên, cả hai đều tồn
tại những hạn chế nhất định.

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2



23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trường Chinh: “Về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” , Nxb Sự Thật,
Hà Nội, 1970.
[2]. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên): “Về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” , Nxb Chính trị quốc gia.
[3]. Giáo trình Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không
thuộc chuyên ngành triết học tập 1, tập 2, tập 3. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
[4]. Giáo trình Đại cương lịch sử Triết học. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội,
1997.
[5]. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2005.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam : “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
[7]. Tổng cục thống kê: “Số liệu về sự biến đổi xã hội Việt Nam thời
kỳ đổi mới”, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.

Trần Huy Mạnh

Toán giải tích: K16 đợt 2



×