Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và í thức và sự vận dụng của đảng ta trong thực tiễn cách mạng việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.29 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
===== o0o =====

TIÓU LUËN triÕt häc
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỰC
TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM HIỆN NAY

Người hướng dẫn khoa học : TS. Vi Thái Lang
Học viên

: Trần Thị Ngọc Hân

Lớp

: K18 - Lý luận văn học


2
Hà Nội - 2015


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..........................................................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Sau khi hoàn thành, luận văn phải đạt được mục đích là: ............................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.


Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp của phép biện chứng với quan điểm: lịch
sử, cụ thể, toàn diện và phát triển.
..........................................................................................................2
NỘI DUNG..........................................................................................................................................................3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA .........................................................................3
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC..................................................................................................................................3
1.1. Vật chất.....................................................................................................................................................3
1.1.1. Quan điểm của các nhà triết học duy tâm và duy vật trước Mác..................................................3
1.1.2. Quan điểm của Các Mác và Ăngghen...............................................................................................3
1.1.3. Quan điểm của V. I. Lênin................................................................................................................4
1.2. Ý thức.......................................................................................................................................................5
1.2.1. Quan điểm của các nhà triết học duy tâm và duy vật trước Mác..................................................5
1.2.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin...............................................................................................6
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức........................................................................................................9
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY...........................................................................................................................................13
2. 1. Tôn trọng khách quan............................................................................................................................13
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................22


1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới của nước ta trong thời gian
qua đã tạo ra thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào
một thời kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước đã được tạo ra. Quan hệ của nước ta với các
nước trên thế giới mở rộng hơn bao giờ hết. Khả năng giữ vững độc lập tự
chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Cách mạng khoa học và

công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều có cơ hội phát
triển. Tuy nhiên ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường thuộc các nước phát
triển, khiến cho những nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước
những thử thách to lớn. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của chúng
ta quá thấp, lại đang ở trong môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt, bên cạnh
đó chúng ta còn gặp phải sự chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch.
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại. Đảng và nhà
nước ta cần liên tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt xây
dựng văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Chính vì vậy, tìm hiểu mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức giúp Đảng ta vận dụng vào việc
giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra góp phần thực hiện thành công
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
Với ý nghĩa đó tôi quyết định chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng của Đảng trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam giai đoạn hiện nay".


2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Sau khi hoàn thành, luận văn phải đạt được mục đích là:
+ Làm rõ được những vấn đề lý luận chung về mqh giữa vật chất và ý
thức .
+ Thấy được sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn CMVN giai đoạn
hiện nay
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Khái quát vài nét về những vấn đề chung về mqh giữa vật chất và ý

thức .
+ Phân tích để thấy được sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn
CMVN giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất - ý thức và sự
vận dụng của Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.
+ Phạm vi nghiên cứu: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Sự vận dụng của Đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện
nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp của phép biện
chứng với quan điểm: lịch sử, cụ thể, toàn diện và phát triển.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp,
diễn dịch và quy nạp, đối chiếu và so sánh.


3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Vật chất
Vật chất là phạm trù cơ bản của triết học. Trong lịch sử tư tưởng triết
học, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các
trường phái triết học, phản ánh sự đối lập về nguyên tắc giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật trước đó.
1.1.1. Quan điểm của các nhà triết học duy tâm và duy vật trước Mác
Các nhà triết học duy tâm, cả duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan

tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng của thế giới
nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của chúng, phủ nhận đặc tính
khách quan của vật chất, dựa vào lực lượng tinh thần để giải thích thế giới.
Các nhà triết học duy vật trước Mác thừa nhận sự tồn tại khách quan của
thế giới vật chất, bác bỏ vai trò sáng thế của tinh thần, thượng đế, họ lấy bản
thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên, lấy hiện thực khác quan để giải thích
về thế giới vật chất song họ lại đồng nhất vật chất với một hình dạng cụ thể
của vật thể.
1.1.2. Quan điểm của Các Mác và Ăngghen
C. Mác và Ph. Ăngghen trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc
đã nêu ra quan điểm về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, cần phải sự
phân biệt rõ giữa vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học với
bản thân các sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới vật chất.


4
1.1.3. Quan điểm của V. I. Lênin
Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V. I. Lênin đã bảo vệ và phát triển
quan niệm duy vật biện chứng về vật chất và đưa ra định nghĩa nổi tiếng hoàn
chỉnh về phạm trù vật chất: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác"
(V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, tập 18, tr. 151)
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách
thông thường là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác
rộng hơn vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật
chất, Lênin đã đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập đối với

cảm giác, với ý thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh
vật chất. Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái “Đặc
tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền với việc
thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là hiện thực khách
quan, tồn tại ở ngoài ý thức chúng ta” (V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ,
M. 1981, tập 18, tr. 321)
Khi định nghĩa “vật chất là một phạm trù triết học”. Lênin một mặt
muốn chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất, rộng vô hạn và muốn phân
biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát
và trừu tượng hoá, với những dạng vật chất cụ thể tồn tại cảm tính. Vật chất
với tư cách là một phạm trù triết học không có những đặc trưng cụ thể có thể
cảm nhận được.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó không do ai sinh ra không thể tiêu diệt
được, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người.


5
Định nghĩa vật chất của Lênin đã khẳng định được câu trả lời chủ nghĩa duy vật
cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học, phân biệt về nguyên tắc của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng như thuyết không thể biết.
Hơn thế nữa, Lênin còn khẳng định “ vật chất ….được cảm giác của
chúng chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Khẳng định như vậy, một mặt Lênin muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật
chất, vai trò quyết định của nó đối với ý thức, và mặt khác khẳng định phương
pháp và khả năng nhận thức khách quan của con người. Điều này không chỉ
phân biệt chủ nghĩa duy vật vói chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết
mà còn phân biệt chủ nghĩa duy vật với nhị nguyên luận.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, định nghĩa vật chất của Lênin một định
nghĩa toàn diện và triệt để, nó giải đáp được cả hai mặt về vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời nó còn

khắc phục lý thuyết siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ
nghĩa duy vật cũ.
Định nghĩa vật chất của Lênin còn giúp chúng ta xác định rõ vật chất
trong đời sống xã hội, và nó có ý thức trực tiếp định hướng khoa học tự nhiên,
giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu đa dạng cụ thể của
vật chất trong giới vi mô. Nó còn giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi
hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành
động.
1.2. Ý thức
Cũng như vật chất, có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trường
phái khác nhau
1.2.1. Quan điểm của các nhà triết học duy tâm và duy vật trước Mác
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức là thực thể duy nhất, có trước, tồn


6
tại vĩnh viễn và là nguyên nhân sinh ra chi phối sự tồn tại và biến đổi của thế
giới vật chất.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý
thức, tinh thần. Họ tìm nguồn gốc ý thức ngay trong thế giới vật chất, nhưng
họ lại coi ý thức cũng là vật chất, không thấy được sự khác biệt về chất giữa
vật chất và ý thức, hoặc cho rằng ý thức là thuộc tính phổ biến của mọi dạng
vật chất. Tất cả các quan điểm đó đều sai lầm và nó được giai cấp thống trị
dùng làm cơ sở lý luận, công cụ để nô dịch tinh thần đối với quần chúng nhân
dân.
1.2.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin
Đứng vững trên quan điểm lập trường duy vật với phương pháp biện
chứng triết học Mác -Lênin khẳng định rằng ý thức là đặc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc người, ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc của con người thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác

nhấn mạnh rằng tinh thần, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển
vào bộ óc của con người và được cải biến đi trong nó. Óc người là khí quan
vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Mối quan hệ giữa
bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức là không thể tách rời. Tất cả
những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến
quan điểm duy tâm thần bí hoặc duy vật tầm thường. Ý thức là chức năng của
bộ óc người hoạt động bình thường.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trên cơ sở nhận thức đúng đắn nguồn
gốc tự nhiên và xã hội của sự ra đời ý thức và nắm vững lý thuyết phản ánh
đã luận giải một cách khoa học bản chất của ý thức. Vật chất và ý thức là hai
hiện tượng chung nhất của thế giới hiện thực, mặc dù khác nhau về bản chất,
nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ không tách rời. Do vậy, muốn hiểu
đúng bản chất của ý thức cần xem xét nó trong mối quan hệ qua lại với vật


7
chất, mà chủ yếu là đời sống hiện thực có tính thực tiễn của con người. Bản
chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản
ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Như vậy, khi xem xét ý thức từ mặt bản thể luận, thì ý thức chỉ là "hình
ảnh" về hiện thực khách quan trong óc người. Đối với con người, cả ý thức và
vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa
chúng có sự khác nhau, đối lập nhau về bản chất: vật chất là hiện thực khách
quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách
quan, ý thức không phải là sự vật, mà chỉ là "hình ảnh" của sự vật ở trong óc
người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập với các đối tượng vật chất mà nó
phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách quan là nguyên bản, là tính thứ
nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là "hình ảnh" về thế giới đó, là tính thứ hai..
Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Về nội dung mà ý
thức phản ánh là khách quan, còn hình thức mà nó phản ánh là chủ quan. Ý

thức là cái vật chất ở bên ngoài "di chuyển" vào trong đầu óc của con người
và được cải biến đi ở trong đó. Ph. Ăngghen đã từng chỉ rõ: "Trên thực tế, bất
kỳ phản ánh nào của hệ thống thế giới vào trong tư tưởng cũng đều bị hạn chế
về mặt khách quan bởi những điều kiện lịch sử, và về mặt chủ quan bởi đặc
điểm về thể chất và tinh thần của tác giả" (C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 57).
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã
hội. Đây là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức người
với trình độ phản ánh tâm lý động vật. Ý thức không phải là kết quả của sự
phản ánh ngẫu nhiên, đơn lẻ, thụ động thế giới khách quan. Trái lại, đó là kết
quả của quá trình phản ánh có định hướng, mục đích rõ rệt. Là hiện tượng xã
hội, ý thức hình thành, tồn tại và phát triển luôn gắn liền với hoạt động thực
tiễn xã hội phong phú. Thế giới không thoả mãn con người và con người đã


8
quyết định biến đổi thế giới bằng hoạt động thực tiễn đa dạng, phong phú của
mình. Thông qua thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới và qua đó chủ
động khám phá sâu, rộng các đối tượng phản ánh. Ý thức phản ánh ngày càng
sâu sắc, từng bước xâm nhập các tầng bản chất, quy luật, điều kiện đem lại
hiệu quả hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, bằng những thao tác của tư duy
trừu tượng sẽ đem lại những tri thức mới để chỉ đạo hoạt động thực tiễn chủ
động cải tạo thế giới trong hiện thực, sáng tạo ra "thiên nhiên thứ hai" in đậm
dấu ấn của con người. Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý
thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, song đây là sự
phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan
theo nhu cầu của con người.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy: Ý
thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

Tóm lại, ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất đặc biệt
là bộ óc người; nói cách khác, chỉ có con người mới có ý thức. Loài người
xuất hiện là kết quả của lịch sử vận động, phát triển lâu dài của thế giới vật
chất. Cấu trúc hoàn thiện của bộ óc người là nền tảng vật chất để ý thức hoạt
động; cùng với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội phong phú tạo động lực
mạnh mẽ thúc đẩy ý thức hình thành và không ngừng phát triển. Không có bộ
óc của con người, không có hoạt động thực tiễn xã hội thì không thể có ý
thức. Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Sức sáng tạo
của ý thức trong tinh thần và sức sáng tạo của con người trong thực tiễn khác
nhau về bản chất nhưng chỉ là những biểu hiện khác nhau của năng lực sáng
tạo, khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.


9
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng
giữa chúng luôn có mối quan hệ biện chứng, mặc dù vai trò không ngang
bằng nhau. Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa
tuyệt đối trong phạm vi hết sức hạn chế, trong trường hợp này, chỉ giới hạn
trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước cái gì là
caí có sau. Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập
đó chỉ là tương đối. Tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể
hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc
tính của chính nó.
Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được
rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, còn ý thức là
cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Sự vận
động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có
tư duy là bộ óc người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt

động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội
dung mà ý thức phản ánh.
Như vậy, để phân ranh giới của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa
vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có trước, cái nào có sau cái
nào quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong
triết học, lẫn lộn vật chất và ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng ta chỉ xét
chúng như là những nhân tố, những mặt không thể thiếu được trong hoạt động
của con ngời, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người.
Bởi vì, ý thức nó không thể cải biến được sự vật, không có khả năng tự biến
thành hiện thực, nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức
có thể cải biến được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục


10
đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay
bản tính phản ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà
chỉ có con ngời có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến
tự nhiên xa lạ thành tự nhiên trù phú và sinh động, tự nhiên của con người. Vì
vậy tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện tính độc
lập tương đối tính năng động của ý thức. Mặt khác đời sống con người là sự
thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng, những
nhu cầu vật chất cũng bị nhu cầu tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của
sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là khẳng định rằng cả hai
nhân tố có vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái
lại triết học Mác - Lênin khẳng định rằng trong hoạt động của con người
những nhân tố vật chất và ý thức có tác động qua laị song sự tác động diễn ra
trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý
thức.
Trong hoạt động của con người những nhu cầu vật chất xét đến cũng bao

giờ cũng giữ vai trò quyết định chi phối và quy định mục đích hoạt động của
con người vì nhân tố vật chất quy định khả năng các nhân tố tinh thần có thể
tham gia hoạt động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần này
hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện thực và qua đó quy định mục
đích, chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt động của mình bằng
cách chọn lựa sửa chữa, bổ sung, cụ thể hoá mục đích chủ trương biện pháp
đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu cải
biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu sống, hơn nữa cuộc sống tinh thần của
con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn những
nhu cầu vật chất và những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trò cơ
sở quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất. Hơn nữa trong hoạt động của


11
mình con người không thể để cho thế giới khách quan quy luật khách quan
chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con đường có lợi của mình. ý thức
con người không thể tạo ra các đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi
được quy luật vận động của nó. Do đó, trong quá trình hoạt động của mình
con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có thể thoả mãn mục
đích chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh cho phép.
Ý thức không tồn tại thụ động mà có tính độc lập tương đối tác động
trở lại đối với thế giới vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn của con người,
chỉ đạo hoạt động cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con
người thông qua thực tiễn. Theo chỉ dẫn của C. Mác: "Tư tưởng căn bản
không thực hiện được gì hết, muốn thực hiện được tư tưởng, thì cần có
những con người sử dụng lực lượng thực tiễn " (C. Mác và Ph. Ăngghen,
toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tập 2, tr. 211). Vai trò của ý thức cải
tạo thế giới sẽ rất khác nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng phản ánh hiện thực
khách quan là đúng đắn hoặc sai lầm. Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực
khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức

phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ở mức độ nhất định, có thể kìm
hãm hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo hiện thực khách quan.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết
những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp
và ý chí quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Tính
năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các
điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu
quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy
tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt


12
động thực tiễn.
Nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, bản chất về ý thức, mối quan hệ vật
chất - ý thức là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định thế giới quan duy vật
biện chứng, chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình trong
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và biết vận dụng linh hoạt lý luận khoa
học đó vào trong hoạt động thực tiễn, giải quyết đúng đắn mối quan hệ khách
quan - chủ quan đem lại hiệu quả trong hoát động thực tiễn.
Khẳng định tính độc lập và vai trò to lớn của ý thức tinh thần, về thực
chất là để khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức đó. Thế
giới không thoả mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới
bằng hành động của mình. Do đó về thực chất, sự tồn tại của đời sống xã hội
là có tính chất thực tiễn. Con người tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo
thế giới, khi đó ý thức trở thành tiền đề cơ bản hình thành mặt chủ quan của
hoạt động với tính cách là mặt đối lập với khách quan. Biện chứng khách
quan - chủ quan là vấn đề mấu chốt của mối quan hệ giữa hiện thực đang
được nhận thức và cải tạo theo nhu cầu của con người với bản thân con người

- chủ thể của hoạt động đó. Con người lao động sáng tạo để duy trì sự sống
với chất lượng ngày càng cao của mình. Qua đó, dần dần ý thức đầy đủ về
những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt động của mình và giới hạn sức mạnh
của bản thân mình.
Khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện
tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan,
không lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, không lấy
ý chí áp đặt cho thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn
trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, định kiến, thiếu
trung thực. Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy
luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan.


13
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỰC TIỄN
CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học
Mác Lênin thừa nhận chỉ có một thế giói duy nhất và thống nhất là thế giới
vật chất. Vật chất và ý thức có quan hệ biện chứng với nhau. Vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có tác dụng trở lại đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy nguyên tắc
phương pháp luận được rút ra để định hướng cho hoạt động của người là:
Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức phải tôn trọng khách quan đồng thời
phải phát huy cao độ tích tích cực, năng động sáng tạo của nhân tố chủ quan.
2. 1. Tôn trọng khách quan
Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Điều
này đòi hỏi trong hoạt động và nhận thức của con người phải xuất phát từ
thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ sở, căn cứ cho mọi hoạt động của
mình. Điều đó có nghĩa con người phải nhận thức và và vận dụng một cách
đúng đắn những quy luật khách quan. Mục đích, đường lối, chủ trương con

người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ
hiện thực khách quan, phải phản ánh được nhu cầu và tính tất yếu của đời
sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể. Không được lấy ý muốn chủ quan
của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan,
nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
bệnh chủ quan duy ý chí.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, trước Đại hội Đảng lần thứ VI, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được, chúng ta đã phạm phải những sai lầm như:
Chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều qui luật khách quan
trong đó quan trọng nhất là qui luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính


14
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nóng vội trong cải tạo xã
hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần: có lúc đẩy mạnh
quá trình mức xây dựng công việc nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập
trung quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả,
tiền tệ, tiền lương…. Tại Đại hội VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm
khắc, đã phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã
hội, đề ra các định hướng lớn và xác định chủ trương đổi mới, đặc biệt là đổi
mới về kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế lớn là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Hình thành nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sử dụng đúng
đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội
Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: Công cuộc đổi mới
bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội
được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được hạn chế bớt, đời sống vật chất

tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện. So với trước đây
thì mức khủng hoảng đã giảm bớt. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng
được phát huy...
Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra bài học: "Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan" ( Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 5.)
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam đã rút ra bài
học kinh nghiệm: “ Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân,


15
phù hợp với thực tiễn luôn sáng tạo”. Đổi mới là công cuộc cách mạng sâu
sắc, toàn diện, triệt để diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã
hội. Do đó phải sáng tạo. Sáng tạo nhưng luôn phù hợp với qui luật khách
quan, với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sáng tạo nhưng không bảo thủ trì
trệ. Trong quá trình đổi mới, một mặt Đảng ta coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận để có cơ sở kịp thời điều chỉnh bổ sung, phát triển
đường lối cho phù hợp. Mặt khác, Đảng rất coi trọng tìm tòi lựa chọn khâu
đột phá mới làm chuyển biến tình hình. Trong khi khẳng định đổi mới toàn
diện đồng bộ, triệt để, Đảng ta nhấn mạnh trước hết phải đổi mới tư duy về
chính trị trong việc hoạch định đường lối chính sách đối nội, đối ngoại.
Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác. Đảng ta đã đúng khi
tập trung trước hết vào việc đổi mới về kinh tế, khắc phục cuộc khủng hoảng
kinh tế – xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất, tinh thần để giữ vững ổn
định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo điều kiện đổi
mới các lĩnh vực khác thắng lợi. Trong đổi mới kinh tế, khâu trung tâm của
công cuộc đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh “ thực hiện nhất quán lâu dài chính
sách kinh tế nhiều thành phần” nhưng phải củng cố tăng cường kinh tế nhà

nước để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể làm nền
tảng cho nền kinh tế quốc dân và tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và
công bằng xã hội. Nhờ đó đã góp phần làm chuyển biến tình hình tạo điều
kiện cho sự phát triển mới trong sự nghiệp đổi mới.
Hiện nay, thực trạng trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp, cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ, đời sống của nhân
dân chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng của đất nước thì việc Đảng chủ
trương thực hiện đường lối kinh tế: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nề kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan


16
hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an
ninh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb CTQG, H 2001, tr.89) thực hiện nhất quán, lâu dài thực hiện chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát
huy tối ưu nhân tài, vật lực, trí tuệ còn tiềm tàng, nhằm tạo sự chuyển hoá về
chất trong toàn bộ đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu mà thực tiễn cách
mạng Việt Nam đang đặt ra là vấn đề có tính qui luật trong nhận thức và tổ
chức thực hiện nhằm cải tạo xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Khi đã có mục đích, đường lối chủ trương đúng phải tổ chức được lực
lượng vật chất để thực hiện nó.
Mục đích, đường lối chủ trương thuộc về lĩnh vực tư tưởng. Tự bản thân
tư tưởng không thể giải quyết được vấn đề gì cả mà phải thông qua hoạt động

thực tiễn của con người. Mác viết: "Tư tưởng căn bản không thực hiện được gì
hết, muốn thực hiện được tư tưởng, thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn" ( C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,
1995, tập 2, tr. 211).
Mặt khác khi thực tiễn đặt ra những nhiệm vụ để con người giải quyết
thì bản thân nó cũng sản sinh ra những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm
vụ đó. Nên vấn đề trọng yếu trước tiên, quyết định thành công hay thất bại
của con người, đó là con người có tìm ra, có huy động, tổ chức được những
yếu tố vật chất thành lực lượng vật chất để thực hiện mục đích, đường lối chủ
trương của mình hay không.


17
Thực tiễn công cuộc kháng chiến cứu nước, chúng ta đã rất thành công
trong việc huy động, tổ chức sức mạnh của mỗi người, của cả nước tạo nên
sức mạnh của lực lượng vật chất khổng lồ của chiến tranh nhân dân, đánh bại
những thế lực hơn chúng ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế lẫn quân sự để bảo
vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
Đảng ta xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb CTQG, H 2001, tr.86) cũng chính là tạo ra lực lượng vật chất để thực
hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
2.2. Phát huy tính năng động chủ quan
Phát huy tính năng động chủ quan là quá trình phát huy tính tích cực,
năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong
việc vật chất hoá những tính chất ấy. Việc phát huy tính năng động chủ quan

của con người được thể hiện rất phong phú và đa dạng trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Nó được biểu hiện như sau:
Thứ nhất: Phải tôn trọng tri thức khoa học
Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới, được khái quát từ thực
tiễn của đời sống xã hội và được thực tiễn kiểm nghiệm. Tri thức khoa học có
một vị trí đặc biệt hết sức quan trọng trong cuộc sống của con người, nhân loại
vì nó chính là cơ sở, động lực phát triển của xã hội. Những bước tiến của lịch sử
nhân loại từ trước đến nay đều gắn liền với những thành tựu của tri thức khoa
học. Tri thức khoa học được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, song ở từng lĩnh vực của đời sống xã hội đó không phải là sự cô lập


18
tách rời mà chúng có mối quan hệ biện chứng khắng khít tác động qua lại lẫn
nhau, là cơ sở, tiền đề để bổ sung và giải thích, khái quát hoá cho nhau. Việc
phân chia chúng thành các ngành khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa
học xã hội và nhân văn … chỉ mang tính tương đối. Chính vì vậy việc tôn trọng
tri thức khoa học không chỉ là chống lại sự tuyệt đối hoá vai trò của chủ nghĩa
kinh nghiệm mà còn là sự chống lại việc tuyệt đối hoá bất cứ một loại khoa học
nào trong hệ thống các khoa học. Đây là cơ sở tiền đề giúp con người hoạt động
có hiệu quả trên các lĩnh vực xã hội khác nhau.
Nhận thức sâu sắc về vai trò tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh
phức tạp của thế giới hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Đảng ta đã khẳng định: “ Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr.94,95). Thực tiễn phát triển khoa
học công nghệ và giáo dục đào tạo ở nước ta trong những năm qua cho thấy,
chúng ta đã bước đầu nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước, thúc
đẩy việc đưa các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp

phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã hội tạo ra những
tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX đánh giá: “ khoa học xã hội và nhân văn, khoa
học tự nhiên và công nghệ chuyển biến tích cực, gắn bó hơn với phát triển kinh
tế -xã hội ” ( Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG, H 2001, tr.69)
Tiếp tục thực hiện quan điểm đó thì tại báo cáo chính trị tại đại hội X đã
đánh giá: “giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đầu tư nhiều hơn.
… khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào việc hoạch định đường lối,
chính sách, điều tra… phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng an


19
ninh” ( Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, H 2006, tr.358)
Để thực hiện nội dung tôn trọng tri thức khoa học tạo cơ sở tiền đề, động
lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, Đảng và Nhà nước
chủ trương “thực hiện cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội và nhân
văn với khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo,
sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể cả người Việt
Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao
lưu và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của
thế giới đóng góp vào sự phát triển đất nước bằng nhiều hình thức thích hợp”
Thứ hai: Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào
quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng hành
động.
Trên cơ sở tôn trọng tri thức khoa học, thì phải thực sự làm chủ tri thức
khoa học. Đây là một quá trình lâu dài và hết sức khó khăn. Việc vươn lên
làm chủ tri thức khoa học không chỉ liên quan đến quan niệm của con người
về khoa học mà còn liên quan đến năng lực, nghị lực, quyết tâm của con

người và những điều kiện vật chất để thực hiện nó. Bên cạnh đó, sức mạnh và
hiệu quả của tri thức khoa học phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào
quần chúng, nên sự thâm nhập này trở thành một trong những điều kiện trực
tiếp để phát huy vai trò nhân tố của con người trong hoạt động vật chất hoá tri
thức.
Vươn lên làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức khoa học là hoạt
động vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội và liên quan đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống. Chính và vậy trong báo cáo chính trị tại đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: “phấn đấu đến năm 2010, năng lực khoa
học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên


20
một số lĩnh vực quan trọng. Phát triển khoa học xã hội, tiếp tục làm sáng tỏ
nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta…. Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận; dự báo tình hình và
xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước, cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước…”. ( Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr.358)
Và thực tiễn của nước ta cho thấy việc khơi dậy trong nhân dân lòng yêu
nước, ý chí quật cường, phát huy tài năng trí tuệ, quyêt tâm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, việc đầu tư mạnh vào hệ thống giáo dục vào
khoa học công nghệ cũng như đa dạng các hình thức tuyên truyền; trong dụng
nhân tài, các tổng công trình sư, các nhà khoa học đầu ngành, các công nhân
kỹ thuật viên lành nghề, có tay nghề cao hoạt động, bám sát các cư sở sản
xuất, hướng dẫn nhân dân nắm bắt và làm chủ những tri thức mới, khoa học
và công nghệ tiên tiến … mà toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân đang tiến hành
là những hoạt động sống động về việc phát huy nhân tố ý thức, phát huy tính
năng động chủ quan phù hợp với yêu cầu và điều kiện của xã hội hiện tại.

Tóm lại tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa là
những yêu cầu có tính nguyên tắc, vừa là phương pháp luận cơ bản trong hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn. Những yêu cầu này khác nhau nhưng lại
thống nhất và có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau nên con người chỉ
có thể đạt hiệu quả tối ưu khi thực hiện chúng một cách đồng bộ, sáng tạo và
song song với đó là phải chống các quan điểm, tư tưởng và những biểu hiện
đối lập.


21
KẾT LUẬN
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp nó là một công cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động
nhiều mặt của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi
hỏi toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải kiên trì, kiên định, giữ vững
lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh,
nhạy bén, sáng tạo để thích ứng kịp thời với tình hình thực tiễn xã hội biến
đổi.
Quán triệt phương pháp luận duy vật biên chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu
làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn của xã hội Việt Nam có ý nghĩa to lớn cho
sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn hiện nay. Trong đó việc làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức có ý nghĩa to lớn cả về lý luận cũng như phương pháp luận
trong nhận thức và cải tạo thế giới theo đúng quy luật khách quan vốn có của
nó, đồng thời vận dụng một cách khoa học, sáng tạo, linh hoạt trong hoạt
động thực tiễn. Điều này có ý nghĩa quan trọng để Đảng ta vận dụng trong
thực tiễn công cuộc đổi mới của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay./.



22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nhà xuất
bản
Sự thật, Hà Nội, 1991.
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin NXB chính trị quốc gia Hà Nội - 1999.
5. V. I. Lênin, toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ 1981.
6. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H 2001.
7. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006.


×