BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ SEN
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA
ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ SEN
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA
ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Toán giải tích
Mã số: 60 46 01 02
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vi Thái Lang
HÀ NỘI - 2013
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành tiểu luận "Ảnh hưởng của
nho giáo Trung Hoa đến nền văn hoá truyền thống của Việt Nam", tôi
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của các thầy, cô giáo và các bạn
học viên Trường ĐHSP Hà Nội 2.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô
giáoTrường ĐHSP Hà Nội 2. Đặc biệt là Tiến Sĩ Vi Thái Lang – người trực
tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình, giúp tôi hoàn thành tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2013
Học Viên
Nguyễn Thị Sen
LI CAM OAN
Tiu lun của tụi đợc hoàn thành dới sự hớng dẫn của Tin S Vi
Thỏi Lang cùng với sự cố gắng của bản thân. Trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện tiu luận, tụi có tham khảo tài liệu của một số tác giả (đã nêu trong
mục tài liệu tham khảo).
Tụi xin cam đoan những kết quả trong tiu luận là kết qủa nghiên
cứu của bản thân, không trùng với kết qủa các tác giả khác. Nếu sai tụi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2013
Hc viên
Nguyễn Thị Sen
MC LC
Li m u
Chng 1: Khỏi quỏt lch s Trung Hoa.
Trang
1
2
1.1 Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại
1.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại
1.3 Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo
Chương 2: Những tư tưởng cơ bản trong triết học nho giáo
2.1 Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo
2.2- Nội dung cơ bản của Nho giáo
2.3- Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học
2
4
4
11
11
14
17
giả tiêu biểu
Chương 3: Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền
19
văn hoá truyền thống của Việt Nam.
3.1 Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
3.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền
19
21
thống của Việt Nam
Kết luận
Tài liệu tham khảo
25
26
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh
vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh
Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh
những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi
sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh
Châu Á cũng như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết
học Nho giáo. Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân”
(người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà
nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho
mọi người sống hợp với luân thường đạo lý.
Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia
phong” là những câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có
phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời
còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh
thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn
hoá.
Tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn
hóa Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế nên em có hứng thú đặc biệt với đề
tài "Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hoá truyền thống
của Việt Nam".
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu và nghiên cứu vê nho giáo Trung Hoa.
- Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hoá truyền thống của Việt
Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
--Nghiên cứu lịch sử triết học trung hoa cổ - trung đại.
-Nghiên cứu những tư tưởng cơ bản trong triết học nho giáo.
-Nghiên cứu những ảnh hưởng đến Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
-Nho giáo Trung Hoa.
-Nho giáo Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp logic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh.
Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm.
6. Cấu trúc tiểu luận.
Nội dung đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát lịch sử Trung Hoa.
Chương 2: Nhừng tư tưởng cơ bản trong triết học nho giáo.
Chương 3: Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hoá
truyền thống của Việt Nam.
NỘI DUNG
.CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ TRUNG ĐẠI
1.1 Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại
2
1.1.1. Địa lý : Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía
Đông giáp bờ Thái Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non
hiểm trở như Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh
năm lạnh giá, phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước
Trung Hoa chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của
nước Trung Hoa thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau. Phía Bắc là những
cao nguyên, bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có núi sông
bao bọc hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như
Hoàng Hà, Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên,
khí hậu mà có nhiều chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến
nhiều nền văn minh, tư tưởng khác nhau.
1.1.2. Nhân chủng học : Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên
các khu vực chính như sau :
- Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục,
săn bắn. Do đời sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân
tộc kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau.
- Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng, săn
bắn, khai thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân tộc
này sống tương đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do.
- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : các dân tộc Tam Miêu
sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức
toán học, khoa học tự nhiên.
1.1.3. Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học :
Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN
kéo dài tới tận cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất
Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến.
Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời
kỳ lớn : 1. Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ VIII
tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN.
Trong thời kỳ thứ nhất : những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống.
Thời kỳ thứ hai : còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai
đoạn chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi)
sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân rã
làm 7 quốc gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ
Hoàng - vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước thống nhất giang sơn hình thành
nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên. Dưới thời thịnh vượng của nhà Chu,
đất đai thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị một
tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo
lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung
Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó,
một loạt học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều
có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội.
Điều đó trở thành nét đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính
trong thời kỳ loạn lạc này đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành
nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển theo
suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết
những vấn đề của triết học như vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của
triết học, vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến dịch
của vạn vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận thức.
1.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại :
1.2.1 Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng
hành vi cá nhân, hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
1.2.2 Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu : hướng vào
nội tâm - luôn cố gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con
người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính
là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân
sâu xa của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây
(hướng ngoại).
1.2.3 Đa dạng, phong phú : luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của
vấn đề, coi trọng sự hài hòa trong xã hội.
1.2.4 Phương pháp tư duy : nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm”
là gốc rễ của nhận thức. Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết
mà rời rạc thông qua các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn…
1.2.5 Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu
thần đan xen lẫn nhau.
1.3 Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo :
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ hành” đã
được lưu truyền từ trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời Xuân Thu
- Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm Dương - Ngũ hành đó đã đạt tới mức là
một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
1.3.1 Thuyết Âm - Dương :
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể,
không gian cụ thể mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn
vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối
lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.
Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự
biến hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh
tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái
âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn,
tốn, ly, khôn và đoài).
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng
đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và
thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó,
người xưa đặt ra "thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu
thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi
phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật.
Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài,
hướng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại,
hữu hình, lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ,
cây cỏ, đều được qui vào âm dương.
Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa
xuân, hè, đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có:
Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ;
Âm là mé trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý
nghĩa nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có
mầm mống của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
Tư tưởng triết học về Âm - Dương :
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành
đầu tiên và phổ biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập
nhau : Âm và Dương.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như
nguyên lý của sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý
này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất.
Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên
khả năng biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái
cực.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý :
Dương tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì
Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khỏi”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng,
phong phú của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái
cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương
- Thiếu Âm - Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng
vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn
chỉnh trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là
một động thái, một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn,
Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của một tác
giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại với những xu hướng khác
nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành” của sự chú giải, bao hàm những tư
tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
1.3.2 Thuyết Ngũ hành :
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn
đã giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm
dương hoàn bị hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp
nhau mà tạo nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả
là lửa thì bùng cháy, bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.
Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp
đỡ nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở
sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh,
tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp
của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng.
Đem ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau.
Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ
sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc
đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng. Trong luật tương sinh của ngũ hành
còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương diện: Cái sinh
ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là
mẹ của thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.
Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý
thăng bằng, giữ gìn lẫn nhau.
Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong
qui luật tương khắc thì mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả
lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ và cứ như vậu lại tiếp diễn mái.
Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng
bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác
thường.
Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó
và cái nó thắng. Ví dụ mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó.
Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý
tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong
chế hoá bao gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này
gắn liền với nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc.
Không có sinh thì không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá
độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc, có khắc trong sinh mới vận hành
liên tục, tương phản, tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là:
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị
sự cân bằng tất nhiên phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc
thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Coi bảng dưới
đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó, cái nó
sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.
Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như
nếu mộc khắc thổ một cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy
khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa là bản thân cái bị có đầy đủ
nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác dụng
chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế
cân bằng trongthiên nhiên.
Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ
nhìn hành mộc không thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là
hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt được sức của kim là một hành khắc
mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả mạnh mà hạn
chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị.
1.3.3 Thuyết Bát quái : Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được
tạo thành bởi 8 nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau.
Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ
Trời. Vì lúc đó chưa có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả.
Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho
phần Dương.
Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho
phân Âm.
Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm
gọi là Dương Nghi và Âm Nghi.
Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn
Dương nên gọi là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên
trên Dương Nghi thì ta có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu
Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ). Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì
thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch Dương lên trên Âm Nghi thì ta
có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm.
Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm,
Thái Âm. Thiếu Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương
thể hiện Âm trung hữu Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong
Âm có mầm Dương. Dương sinh ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch
Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương trưởng ở trên thành ra Thái Dương
với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm sinh ở trên cho nên Thiếu
Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới cho nên Thái Âm
với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh.
Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào),
còn được gọi là Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính
của hoạt động Âm Dương trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành
Bát Quái được thực hiện theo thứ tự hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước,
Âm sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự và tên gọi của Bát Quái như sau :
Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy.
Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.
Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy.
Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy.
CHƯƠNG 2: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC
NHO GIÁO:
2.1 Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo :
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
2.1.1 Tư Thư : là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa
được Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa
và Khổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
C Đại học : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên,
khi bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh
vác việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời
nói của Khổng Tử.
Mục đích và tôn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải
sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ
chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật,
trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của
đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ
dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến
thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
C Trung Dung : Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò
của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng
Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Không Tử nói về
đạo “trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở
mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh
nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên
trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp
với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
C Luận Ngữ : là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử
và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi
thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với nhau. Đọc
sách này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử,
nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo
đem lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người.
Như có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của
Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
C Mạnh Tử : Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn
đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương… ghi chép
lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và
các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác
như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia
làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học : Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú
cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối,
trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của
Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể.
Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào
vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử
đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất
với Trời.
- Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ
chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua
không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân.
Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt
ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc
nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu
rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương
về chính trị của Mạnh Tử vô cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm
cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có
thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
2.1.2 Ngũ Kinh :
C Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói
nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục
mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và
trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con
trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra
sao" (sách Luận Ngữ).
C Kinh Thư : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có
trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo
gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
C Kinh Lễ : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại
mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói:
"Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
C Kinh Dịch : nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại
dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt
tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải
thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời
Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho
dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
C Kinh Xuân Thu : ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của
Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục
đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác
thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta
bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là
cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa
thu, ý nói những sự việc xảy ra.)
C Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn
lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh
chỉ còn lại ngũ kinh.
2.2- Nội dung cơ bản của Nho giáo :
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ
chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào
tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để
trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu
thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo".
2.2.1 Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ
Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được
an bình.
C Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối
quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi
trung thành một dạ.
- Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu
kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
- Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với
vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
C Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm
điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
C Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ
nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
C Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người
phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :
· Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà
người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm
điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách
Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng
hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt
nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ
còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là
Tam tòng.
· Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng
Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân
không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách
Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở
thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có
tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ
thường.
· Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức",
người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn
phải có một vốn văn hóa toàn diện.
2.2.2 Hành đạo:
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho
đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên
hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là
hai phương châm:
C Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là
yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là
nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không
muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều
cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà
làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
C Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó,
mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời
không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng
tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra
vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho
giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà
thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư,
lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà
không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo
đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
2.3- Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu
biểu :
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã
hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 tr.CN) phát triển tư tưởng của Chu
Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà
người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca
Mầu Ni, Giê-xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng
tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép
do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho"
của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm
hiểu tư tưởng Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời
sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông.
2.3.1 Nho giáo nguyên thủy : Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định,
hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ,
Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên
chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất,
học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận Ngữ. Học trò xuất
sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà
soạn ra sách Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi
là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tửđưa ra các
tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử
đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền
Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới
hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật,
nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo.
Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo
chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.