Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

một số quan điểm về con người trong triết học mác lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.59 KB, 31 trang )

Mơc lơc
Mơc lơc.......................................................................................................1
Lêi më ®Çu.................................................................................................3
Néi dung.....................................................................................................5
Ch¬ng I. Con người – Khái qt về con ngêi................................5
I. Quan niệm chung về con người trong lịch sử triết học trước Mác......5
II. Quan điểm của triết học Mac- Lê Nin về bản chất con người............6
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt
xãhội........................................................................................................6
2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội ......................7
III. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội 8
1. Con ngườilàchủthể của lòch sử ......................................................8
2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội............................. 9
3. Chủ Nghóa Xã Hội ( CNXH ) là sự phát triển toàn diện của con
người................................................................................................ 11
Ch¬ng II. Vấn đề con người trong sự nghiệp Cơng nghiệp hóa - Hiện
đại hóa đất nước....................................................................................13
I.Con ngêi lµ mục tiêu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa...13
II. Vai trò của con người trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá ..........................................................................................................15
III. . Xây dựng con ngườøi trong thời kỳ Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá .................................................................................................. 17
IV.. Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong quá trình
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước........................................19
1. Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống .......................................19

1


2. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo.....................................21
3. Xây dựng và phát triển nềøn văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc


dântộc............................................................................................. 23
4. Xây dựng môi trường văn hoá .....................................................26
KÕt ln....................................................................................................30
Tµi liƯu tham kh¶o ..................................................................................31

2


Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Con ngi tạo ra lịch sử, tạo ra xã hội, nếu không có con ngời thì cũng
không thể có xã hội. Vì vậy phát triển con ngời là mục tiêu cao cả nhất cả nhất
của toàn nhõn loại.
Bản chất con ngời và giải phóng con ngời là vấn đề vĩnh cửu và cũng là
vấn đề luôn mới của triết học, bởi vì vấn đề con ngời cũng nh bao vấn đề về
các hiện tợng khác, luôn vận động và biến đổi. Khi xã hội ngày một phát triển,
nhận thức của con ngời ngày càng sâu rộng, con ngời ngày càng đặt ra những
vấn đề khó khăn phức tạp và đa dạng hơn, càng muốn đi sâu tìm hiểu. Với
triết học Mác-Lênin, lần đầu tiên vấn đề con ngời đợc giải quyết một cách
đúng đắn trên quan niệm biện chứng duy vật.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về
con ngời tại hội nghị lần thứ t của ban chấp hành Trung ơng khoá VII, Đảng ta
đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con ngời Việt Nam toàn
diện với t cách quyết về việc phát triển con ngời Việt Nam toàn diện với t cách
là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Đó là con ngời phát triển cao về trí tuệ, cờng tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
Do nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề con ngời, tụi đã chọn đề
tài: mt s quan im v con ngi trong triết học Mác-LêNin.
2. Mc ớch nghiờn cu ca ti

Nghiờn cu v con ngi.
3. Nhim v nghiờn cu

3


Tìm hiểu quan điểm vÒ con người của triết học Mác- Lênin , mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội….. Vấn đề con người trong giai đoạn phát triển
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu con người trong triÕt học M¸c – Lªnin, những
chiến lược chính sách cụ thể xây dựng nguồn lực con người trong mỗi giai
đoạn phát triển, đặc biệt giai đoạn phát triển hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiÓu luận
gồm 2 chương.

4


Néi dung
CHƯƠNG 1
CON NGƯỜI - KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI
1.1.

Quan niệm chung về con người trong lịch sử triết học trước Mác
Triết học duy vật trước Mác, coi con người là một thực thể tự nhiên-


thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí
còn là duy tâm. Theo triết học Phương Đông với sự chi phối bởi thế giới quan
duy tâm hoặc duy vật chất phác thơ ngây, biểu hiện trong tư tưởng Nho Giáo,
Lão Giáo, quan niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong
phú. Chẳng hạn như Khổng Tử quy tính thiện của con người vào năng lực
bẩm sinh, do ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán xấu mà bị nhiễm cái xấu, xa
rời cái tốt đẹp. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái,
quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hường tới các giá trị dạo đức tốt đẹp.
Tuân Tử cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác nhưng có thể cải biến
được, qua một quá trình chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được. Lão
Tử cho rằng con người sinh ra từ “ Đạo” . Do vậy con người cần phải sống
theo lẽ tự nhiên thuần phát, không hành động một cách giả tạo, gò ép trái với
quy luật tự nhiên.
Cũng như triết học phương Đông, triết học phương Tây củng có nhiều
quan niệm khác nhau về con người. Đặc biệt là Kitô giáo, họ nhận thức con
người trên cơ sở thế giới quan duy tâm và thần bí. Triết học Hy Lạp cổ đại
bước đầu cũng đã có sự phân biệt con người với giới tự nhiên, nhưng cũng chỉ
là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người. Triết học thời kỳ phục hưng cận
đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người xem con người là một
thực thể có trí tuệ.

5


Nói chung nền triết học thời bấy giờ, vấn đề con người vẩn chưa được
nhận thức đầy đủ cả về bản chất, về mặt sinh học và xã hội. Con người mới
chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội. Bởi vì họ đã quy
đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hoá những thuộc
tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của thực

tiễn. Chẳng hạn, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen thì Phơbách
cho rằng vấn đề giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con người vì chỉ
có con người mới có tư duy và sự tồn tại của con người cũng như tư duy của
con người không thể tách khỏi quá trình tâm sinh học. Tuy nhiên, Phơibách
đã mắc phải sai lầm khi ông tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người hoặc
tách con người ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy bản chất
con người vào tính tộc loại, mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo đức, tôn giáo
và tình yêu.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước
Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy
vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Họ đều xem xét
con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá về mặt tinh thần hoặc thể xác
con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên- sinh học mà không thấy được mặt xã
hội trong đời sống con người. Tuy vậy củng không thể phủ nhận hết những
thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các
giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có
ý nghĩa quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học
Macxít sau này.
1.2. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về bản chất con người
1.2.1 Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã
hội
Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý
và khắc phục những thiếu sót, hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử
6


triết học trước đó, Mác khẳng định rằng con người hiện thực là sự thống nhất
giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm
của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh

học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định
sự tồn tại của con người.Vì vậy giới tự nhiên là ” thân thể vô cơ của con
người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt
của con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Tính xã hội của con người
biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động lao động
sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu
cuộc sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy; xác lập quan
hệ xã hội. Bởi vậy lao động chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của
con ngươi, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển, con người luôn phải chịu sự tác động của ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau. Bao gồm: Hệ thống quy luật tự nhiên chịu
sự quy định của mặt sinh học, hệ thống quy luật tâm lý ý thức hình thành và
vận động trên nền tảng sinh học của con người, hệ thống quy luật xã hội quy
định các quan hệ giữa người với người trong xã hội.
1.2.2 Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối
lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo
thành bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con
người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: “Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng

7


biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều

kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất
xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người.
Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới động
vật trước hết là bản chất xã hội và đó củng là để khắc phục sự thiếu sót của
những nhà triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con
người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính
quy luật; vì vậy cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa
dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng
xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn
toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật,
trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử . Với vai trò là chủ thể của
lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả
năng của mình. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ
điều kiện để phát triển toàn diện.Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các
quốc gia nói riêng, nhân loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự
phát triển của xã hội.
1.3. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
1.3.1 Con người là chủ thể của lịch sử
Lịch sử loài người được hình thành khi con người biết chế tạo ra công
cụ sản xuất, con người bắt đầu sinh sống theo một cách riêng, tách mình ra
khỏi thế giới loài vật, hình thành thế giới loài người. Trong quá trình lao động
sản xuất, con người không ngừng cải tiến công cụ, tích luỹ kinh nghiệm làm
cho lực lượng của sản xuất tiến dần từ trình độ thấp lên trình độ ngày càng
cao. Lực lượng sản xuất phát triển đã kéo theo sự thay đổi của các quá trình
8


sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Lịch sử xã hội từ chế độ
cộng sản nguyên thủy đến nay, trước hết là lịch sử phát triển của các phương

thức sản xuất .
Trong các chế độ xã hội có quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất chỉ được thực hiện thông
qua cuộc đấu tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh này diễn ra hết sức gay gắt mà đỉnh cao là các cuộc
cách mạng xã hội để xoá bỏ các quan hệ sản xuất lỗi thời. Ví dụ, cuộc đấu
tranh của giai cấp nô lệ xoá bỏ quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để xoá bỏ quan hệ sản xuất
Tư Bản Chủ Nghĩa .
Như vậy, lịch sử nhân loại chính là lịch sử hoạt động thực tiễn của con
người.Con người sáng tạo ra lịch sử dựa trên sự nhận thức và vận dụng qui
luật khách quan. Trong giới tự nhiên, sự phát triển diễn ra một cách tự động,
không thức. Ngược lại sự phát của xã hội gắn liền với ý thức những mục tiêu
nhất định và lựa chọn những phương thức để đạt được những mục tiêu đó. Vì
vậy, nhiều người lầm tưởng những qui luật khách quan chỉ chi phối giới tự
nhiên, còn con người có thể có thể làm ra lịch sử theo ý muốn chủ quan của
mình. Thực ra không phải như vậy, hoạt động con người không chịu sự chi
phối của những qui luật khách quan. Chỉ khi nào, những mục tiêu, phương
thức hoạt động của con người phù hợp với quy luật khách quan thì nó mới trở
thành hiện thực.
1.3.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được
sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở
thành hiện thực. Trong các chế độ xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất ( chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản), các
giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự
9


do và hạnh phúc của số đông quần chúng lao động, cho nên loài người không

ngừng đấu tranh chống lại sự áp bức bất công đó.
Xã hội ngày càng văn minh, đó xu hướng chủ yếu của xã hội. Nhưng
cho đến nay, bước tiến của nền văn minh vẫn chứa đựng những yếu tố, những
khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của loài người, nhiều thành tựu của
khoa học- kỹ thuật được sử dụng để huỷ diệt con người, công nghiệp hoá học
tạo ra năng suất chất lượng lao động cao, nhưng lại gây ô nhiễm môi trường,
máy móc thay thế sức người nhưng lại đẩy hàng chục triệu người vào thất
nghiệp, xu thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triên cho mỗi người, cho
các quốc gia nhưng lại nảy sinh những biểu hiện tiêu cực về lối sống làm mất
bản sắc văn hoá dân tộc... Ông Nobel đã phát minh ra thuốc nổ và nhờ thuốc
nổ trở thành giàu có nhưng bản thân ông lại không ngờ thuốc nổ lại sử dụng
rộng rãi trong chiến tranh tàn sát hàng chục triệu người vô tội. Ân hận về điều
đó ông đã để lại di chúc đề nghị sử dụng gia tài mà ông có được do phát minh
thuốc nổ làm giải thưởng cho những ai có công trình khoa học đem lại hạnh
phúc cho con người. Như vậy, Nobel đã đề xuất một tư tưởng: văn minh phải
hướng tới nhân đạo.
Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công
nghệ sẽ có những bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người,
mỗi quốc gia là phải làm chủ được các thành tựu của văn minh. Vậy con
người là chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng
nào khác, phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người
đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp
hơn. Thế giới hiện nay còn chứa đựng những yếu tố khác đe doạ tự do và
hạnh phúc của con người như đói nghèo, dịch bệnh, thất học, ô nhiễm môi
trường, bất bình đẳng xã hội, nguy cơ khủng bố, chiến tranh…. Do đó mọi
chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc

10



gia và hành động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh
phúc của con người.
Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng,
cần phải đảm bảo các quyền chính đáng của mình, phải là mục tiêu của mọi
tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư Bản hiện đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng
theo qui luật tiến hoá của lịch sử tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp hơn.
Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc lột, một xã hội thống nhất và văn
minh với nhân đạo, một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do,
hạnh phúc, và xã hội chỉ có thể là Xã Hội Chủ Nghĩa.
1.3.3 Chủ Nghĩa Xã Hội ( CNXH) là sự phát triển toàn diện của con
người
Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.... mọi người có
cuộc sống tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục
tiêu cao cả cuả Xã Hội Chủ Nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn
độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”
Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co đầy thử thách
của lịch sử nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục tiêu
vì sự phát triển toàn diện của con người.
Nước ta là một nước nghèo đang trong giai đoạn quá độ đi lên Chủ
Nghĩa Xã Hội. Tuy vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng con người, coi con
người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát
triển sau:
• Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
• Thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các
quan hệ xã hội.
11



• Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát
triển kinh tế phù hợp với các vùng, miền nhiều khó khăn thực hiện chương
trình xoá đói giảm nghèo.
• Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cuả nhân
dân.
• Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm vóc
của con người Việt Nam.
• Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự công bằng xã
hội.Trong giáo dục thực hiện: giáo dục cho mọi người cả nước trở thành một
xã hội văn minh.
 Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm
xây dựng một xã hội: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

12


CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC

2.1. Con người là mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:"Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện
được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát
triển hết khả năng của mình".Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội
hướng tới giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng, giá trị nhân
cách của con người.Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Cộng Sản Việt
Nam xác định:"Phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục
đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước". Đây cũng là mục tiêu

nhân văn của nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: "Nội dung cốt lõi
là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự
phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người."
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không
phải là con người trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng
lớp người cụ thể. Vì hạnh phúc của mỗi người"dân" của "đồng bào" và của cả
dân tộc Việt nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ngay trong thời kỳ cách mạng giành độc lập cho dân tộc, Hồ
Chí Minh đã nói:"Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".Ngày nay trong sự
nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Cộng
Sản, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra một cách thiết thực, trực
13


tiếp.Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở
nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Đại hội của Đảng đã đề ra đường lối
và chiến lược phát triển kinh tế xã hội: Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu
cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được
xác định là đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ đưa nước ta thành môt nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất phù hợp theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, phát huy cao nội
lực đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện cơ sở vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
và trật tự xã hội.

Đây là con đường phát triển bền vững đất nước ta nhằm mục tiêu "Dân
giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".Hay nói cách khác là con đường
phát triển nhắm tới một mục tiêu kép: vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển
con người và xã hội, vừa phấn đấu để dân giàu, nước mạnh, công bằng xã hội
và dân chủ, văn minh.
Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý
đến những vấn đề sau:
- Cần quan tâm đến lợi ích của con người, gồm lợi ích vật chất và lợi
ích tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất. Hồ Chí Minh cho rằng:
"Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá
nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa".
- Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời
sống xã hội bắt đầu từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hôi. Đặc biệt phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong sự

14


nghiệp đổi mới Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, Hồ Chí
Minh đã khẳng định:"
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân".
- Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa những cá nhân, nhóm
cộng đồng về cơ hội phát triển, tạo điều kiện cho mọi người và các
nhóm, cộng đồng có điều kiện phát triển ngang nhau, được hưởng
lợi ích công bằng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn cụ thể.

- Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân
tộc,xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với
bảo vệ Tổ Quốc vì hạnh phúc của nhân dân.
2.2. Vai trò của con người trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá
Từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người
trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.Con người không
chỉ là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà
còn là động lực và là nhân tố bảo đảm cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá đất nước thành công.
Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn
lực con người bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo
đức…của con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW khoá VIII đã chỉ
rõ điều đó:"Đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì"dân giàu, nước
mạnh, công bằng, văn minh", là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của
15


nhân dân ta, đồng thời là một quá trình cải biến của xã hội sâu sắc, đòi hỏi
phát huy khả năng và trí tuệ ở con người Việt Nam".
Để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa Xã Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực khoa học và
công nghệ; nguồn lực tài chính; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực
lao động….

Trong các nguồn lực trên đều có vai trò của con người, con

người với tư cách là nhân tố liên kết tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hay có thể nói đó chính là

nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triển và đóng vai trò chủ đạo
trong quá trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp bí quyết hành nghề.Trong thời đại khoa hoc, công nghệ, tin học, con
người tiến lên không chỉ bằng sức mạnh cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là
chủ yếu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, có năng
lực thích ứngvới sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục
của nền kinh tế thị trường thì mới bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền
vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Sản sinh truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất
đối với tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng
sống. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của
loài người, từ chỗ chủ yếu sử dụng nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ.
Tri thức là yếu tố quyết điịnh đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải
vật chất.
Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
gắn với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất thì vấn đề
vai trò của tri thức, kỹ năng của người lao động được đặt ra. Chẳng hạn, trong
nông nghiệp muốn chuyển đổi vât nuôi, cây trông nào đó ta đều phải dùng
16


đến tri thức. Vai trò con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở
lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật. Nguồn lực con ngưòi
trong hoạt động kinh tế được thể hiện ở khả năng tổ chức.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thể hiện
qua ý chí, tình cảm, đạo đức…. Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước là
quá trình cải biến xã hội sâu sắc ở nước ta đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tư
tưởng lớn…Cho nên, nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua

khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng đất nước
thành công.
Do vậy, khi đề cập quan điểm về vai trò của con người trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội hiện nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh: "Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cho sự phát triển nhanh và
bền vững " ở nước ta.
2.3. Xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá
Đại Hội IX của Đảng đã nêu ra các phẩm chất nhân cách con người
Việt Nam trong giai đoạn Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước: “Xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất…"
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW khoá VIII đã đưa ra
những tiêu chuẩn xây dựng con người Việt Nam: "Có tính thần yêu nước, tự
cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có ý thức
tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung”.
Cần chú ý những yếu tố tâm lý xã hội trong công tác đánh giá và lựa
chọn cán bộ. Đánh giá cán bộ là khâu rất quan trọng thậm chí có ý nghĩ quyết
định trong công tác cán bộ nói chung, cán bộ cơ sở nói riêng. Lập trường tư
tưởng chính trị của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở nước ta hiện nay
phải được biểu hiện trong tư tưởng và hành đông của mỗi cán bộ văn kiện Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp Hành Trung Ương, khóa VIII về chiến lược cán bộ
17


thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đât nước khẳng định mỗi
cán bộ các cấp phải có :” tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội, phấn đáu thực hiện có
kết quả đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của nhà nước “ Đi
ngược lập trường tư tưởng chính trị tiến bộ đó là lập trường tư tưởng chính trị
phản động. Còn lập trường tư tưởng chính trị cơ hội biểu hiện ở tính xu

hướng, lập trường không dứt khoát, không nhất quán trong tư tưởng và hành
động. Khi cách mạng thuận lợi thì ủng hộ, khi cách mạng khó khăn thì sẵn
sàng phản bội. Thông thường những cán bộ có lập trường tư tưởng chính trị
cơ hội có nguy cơ ngã về lập trường tư tưởng chính trị phản động khi họ
không được giáo dục, rèn luyện đến nơi đến chốn.
Yêu cầu đánh giá về người cán bộ: đạo đức và hành vi của họ, yêu cầu
về ý thức đạo đức và hành vi đạo đức của người cán bộ các cấp ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới là:” Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham
những và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật,
trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín
nhiệm”.
Yêu cầu về tài đối với cán bộ nhân dân các cấp trong thời kỳ mới là
phải:”có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của
đảng ,chính sách và pháp luật của nhà nước, có trình độ văn hóa chuyên môn
đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
được giao”.
Đánh giá đúng đức và tài của người cán bộ cơ sở cần chú ý: phải đánh
giá một cách khách quan không đưa quan hệ tình cảm riêng tư vào đánh giá
cán bộ, phải căn cứ vào những tài liệu, số liệu cụ thể càng đầy đủ càng tốt,
cần tham khảo ý kiến làm việc của mỗi người, cần sử dụng nhiều phương
pháp thu nhập phân tích thông tin khác nhau. Cần sử dụng phương pháp đánh
giá hợp lý tùy điều kiện cụ thể mà đánh giá trực tiếp hay công khai gián tiếp.
18


Đánh giá công khai gián tiếp có tác dụng thúc đẩy sự nỗ lực lao động của đối
tượng bộc lộ khả năng một cách tự nhiên. Tùy theo đối tượng cán bộ mà sử
dụng biện pháp đánh giá thích hợp. Người cán bộ cần phải có:
- Lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải

thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo ,năng suất cao vì lợi ích của bản than, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lưc.
Như vậy việc xây dựng con người cần phát triển toàn diện và hài hoà về
nhân cách, nâng cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tâm
hồn, trong sáng về đạo đức. Để đạt được mẫu nhân cách đó, chúng ta phải
từng bước thực hiện các chiến lược xây dựng con người một cách tích cực,
chủ động nhưng cũng không được quá nóng vội.
2.4. Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong quá trình công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước
Xây dựng con người là mục tiêu của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện
đại hoá đất nước nên nó phải là kết quả tổng hợp của tất cả những hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của chúng ta. Song ở đây, chúng ta chỉ
bàn đến những nhiệm vụ cơ bản trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa tác động đến
sự hình thành con người trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất
nước, cụ thể như sau:
2.4.1. Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống
Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban Chấp Hành Trung Ương khóa VIII
về xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta đã chỉ rõ:” tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng
nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm”. Định hướng xây dựng con người, yếu
19


tố tư tưởng, đạo đức lối sống là yếu tố cơ bản nhẩttong phẩm chất tinh thần
của con người Việt Nam hiện nay.Trong đó, “hệ tư tưởng là cốt lõi của văn
hóa, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội”. Theo quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là tư tưởng: độc lập dân tộc gắn liền với

Chủ Nghĩa Xã Hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú tự do toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và
xã hội, giữa cộng đồng và tự nhiên. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra là:
Cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn
cảnh nước ta trong giai đoạn hiện nay và trước những biến đổi sâu rộng của
thời đại mới. Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu biết đầy đủ sâu sắc
chủ nghĩa Mác-Lênin củng cố lòng tin của nhân dân và tư tưởng Hồ Chí Minh
đã lựa chọn.
Khắc phục những biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên
Chủ Nghĩa Xã Hội, phủ nhận những thành quả của Chủ Nghĩa Xã Hội hiện
thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta,
phủ nhận lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự mơ hồ, bàng quan
mất cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta của các thế
lực thù địch. Đồng thời đấu tranh phê phán chống lại những tư tưởng phản
động, chống phá cách mạng nước ta và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
nhân dân ta dưới sư lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng tinh thần yêu nước có ý chí xây dựng đất nước vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Biến tinh thần đấu
tranh giành độc lập dân tộc trước đây thành tinh thần phục hưng đất nước
trong thời kỳ Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước hiện nay. Quyết tâm
xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, vì hạnh phúc của
nhân dân, của dân tộc và của mỗi con người,

20


Xây dựng đạo đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người với tư
cách là mỗi cá nhân và cả cộng đồng, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của
cộng đồng, ở từng cơ sở, từng địa phương và trong cả nước. Hình thành lối

sống mới, lối sống văn minh tác phong công nghiệp, trật tự kỷ cương và trách
nhiệm. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đẹp đẽ và”
những thuần phong mỹ tục” của dân tộc, của từng địa phương. Phê phán lối
sống thực dụng, chạy theo đồng tiền hay quan liêu, cửa quyền, cục bộ mà ơ
nhiều địa phương đã trở thành hiện tượng nổi cộm trong đời sống xã hội hiện
nay.
Cần nêu gương người tốt, việc tốt những cá nhân đơn vị, tập thể tiêu
biểu có những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam hiện nay. Cần phát
huy sức mạnh của dư luận và sức mạnh của luật pháp để lên án và trừng phạt
thích đáng những kẻ cố tình vi phạm pháp luật, quấy rối mất trật tự, an toàn
xã hội, những kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư tưởng xấu hay
những tệ nạn xã hội….Công tác tư tưởng phải tạo ra sự nhất trí về tinh thần
,sự đoàn kết dân tôc, phấn đâu cho sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
đất nước và hình thành những con người hiện đại, con người Việt Nam với
những phẩm chất mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra.
2.4.2. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Để thực hiên chiến dịch con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết
định sự phát tr iển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước cần tạo sự chuyển hướng căn bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2013 của Đảng đã xác định nhiệm
vụ phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo như sau:
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự
tôn dân tộc , lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp
luật, tinh thần hiếu học chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn.
Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề
21


nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn
lên vì khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các

chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa.
Nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài
phải tận dụng mọi nhân lực, phát huy mọi tài năng của các tập thể và cá nhân
phục vụ sự nghiệp xây dụng và bảo vệ đất nước.
Phát triển giáo dục mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả
nước, phần lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn,
đồng bằng được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hoặc
đào tạo nghề. Tạo mọi điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập
thường xuyên suốt đời .
Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc họ, cơ cấu nghành, nghề, cơ cấu vùng
trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân
dân , yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú
trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào
tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát
triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, tập trung xây dựng
một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực, tiến tới đạt
trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà nước
dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển, khuyến khích
tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi trọng đào tạo
đội ngủ công nhân tay nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh doanh
giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn,
miền núi, xuất khẩu lao động, một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng
cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ dân tộc thiểu số .

22


Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước

chương trình và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển
mới . Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích
học chữ dân tộc. Đổi mới chương trình đào tạo đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề theo hướng thiết thực, hiện đại. Chú trọng trang bị và
nâng cao kiến thức tin học, ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên.
Đổi mới phương phap dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực
đào tào của người học, coi trọng thực hành thực nghiệm, ngoại khóa làm chủ
kiến thức tránh nhồi nhét, học vẹt, học chạy.Đổi mới và thực hiện nghiêm
chỉnh chế độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của trường học. Phát triển đổi ngũ
giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ.
Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so
với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế chính sách bảo đảm đủ
giáo viên cho miền núi, hải đảo.
Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường (lớp
học, sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm, thiết bị giảng dạy hiện đại, thư viện,
kí túc xá…..). Phấn đấu đến năm 2013, phần lớn các trường phổ thông có đủ
điều kiện cho học sinh học tập và hoạt đông cả ngày tại trường.
Tăng cường đầu tư cho ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa
giáo dục, đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phấn kinh tế dầu tư phát
triển giáo dục ở tất cả các cấp học đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Ngân
sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng
nông thôn, miền núi cho đào tạo trình độ cao và những nghành khó thu hút
đàu tư ngoài ngân sách nhà nước; bảo đảm điều kiên học tập cho con em
người có công với cách mạng và gia đình nghèo. Tăng cường quản lý nhà
nước đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các
hoạt động tiêu cực. Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập và
nghiên cứu ở nước ngoài.
23



2.4.3. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của xã hội. Nghị quyết hội nghị lần năm ban chấp hành
trung ương khóa VIII đã chỉ rõ vai trò của văn hóa nhiêm vụ xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đạm đà bản sắc dân tộc: chăm lo văn hóa
là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến
bộ, lành mạnh không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế bền
vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì con
người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động
lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với
đời sống và hoạt động trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật
pháp, kỉ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển
đất nước.
Để phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội và con
người, Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã đặt ra các nhiệm vụ xây
dựng và phát triển môi trường văn hóa trong những năm tới:
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vân động “toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”.
Phong trào người tốt việc tốt làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam,
kế thừa các giá trị văn hóa của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài
người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn
hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân.
- Chú trọng giữ gìn, phát triển các di sản văn hóa phi vật thể, tôn tạo và
quản lý tốt các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử ; nâng cấp các bảo
24



tàng. Phát triển mạng lưới thư viện, lưu trữ. Xây dựng các công trình văn hóa,
các khu vui chơi công cộng.
- Khuyến khích sáng tác những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị
theo các chủ đề lớn về chiến tranh và cách mạng, về sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, về xã hội và con người Việt Nam. Nâng
cao chất lượng nền điện ảnh Việt Nam. Phấn đấu xây dựng nhiều bộ phim hay
và tốt. Chú trọng thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam trong các công trình xây
dựng, kiến trúc mới.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao
chất lượng các sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản.
Đến 2013, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền
hình đến mỗi gia đình. Phát triển các điểm văn hóa với hệ thống bưu cục khắp
xã. Dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc có chữ viết trên các
phương tiện thông tin đại chúng ở vùng đồng bào dân tộc.
- Ban hành và thực hiện chính sách thể hiện rõ sự quan tâm và chăm
sóc đối với văn nghệ sĩ và những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật,
nhất là nghệ thuật truyền thống.
- Đẩy mạnh hoạt động hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể trạng và
tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào thể dục, thể thao quần
chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp. Đào tạo, bồi dưỡng vận động viên thể
thao có thành tích cao đưa thể thao Việt Nam lên trình độ chung trong khu
vưc Đông Nam Á và có vị trí cao trong nhiều bộ môn. Đẩy mạnh xã hội hóa,
khuyến khích nhân dân và các tổ chức tham gia thiết thực, có hiệu lực các
hoạt động văn hóa thể thao. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và bảo
trợ các hoạt động văn hóa, thể thao. Phát triển thị trường sản phẩm về dịch vụ
văn hóa, thể thao phong phú, lành mạnh.
- Tăng đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng với tăng trưởng kinh tế,
tập trung xây dựng một số trung tâm văn hóa lớn gắn kết với văn hóa, thể
25



×