Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

thực chất bước ngoặt cách mạng trong triết học do c mác –ph ăngghen thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.33 KB, 18 trang )

1

Lời mở đầu

1.Lớ do chn ti
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã gần 3000 năm. Sự phát triển
những t tởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc
đấu tranh giữa các phơng pháp nhận thức hiện thực phơng pháp biện chứng
và phơng pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên
cái logic nội tại khách quan của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó
lại hết sức phức tạp.
Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính
vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phơng pháp luận khoa học của giai cấp
công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa
những tinh hoa, từ đó đa ra những nguyên lý khoa học giúp con ngời nhân
thức đúng và cải tạo thế giới.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa
một cách có phê phán những thành tựu t duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa
duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu
hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy
vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng
thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bớc
ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học. Vì vậy em
nghiên cứu vấn đề Thực chất bớc ngoặt cách mạng trong triết học do
C.Mác Ph.Ăngghen thực hiện cho bài tiểu luận của mình.

2. Mc ớch v nhim v nghiờn cu
- Mc ớch nghiờn cu: Tỡm hiu thc cht bc ngot cỏch mng trong
trit hc do C.Mỏc v Ph.ngghen thc hin.


- Nhim v nghiờn cu:
+ Tỡm hiu ngun gc trit hc.

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


2

+ S phỏt trin cỏch mng trong trit hc.
3. C s lý lun v phng phỏp nghiờn cu
- C s lý lun: trit hc v nh hng ca nú n i sng con ngi.
- Phng phỏp nghiờn cu: c sỏch, phõn tớch tng hp.
4. i tng v phm vi nghiờn cu
- i tng nghiờn cu: trit hc do C.Mỏc v Ph.ngghen sỏng lp .
- Phm vi nghiờn cu: xoay quanh vn c bn ca trit hc .
5. Kt cu ca tiu lun
- Ngoi phn mc lc, ti liu tham kho, phn m u, phn kt lun,
tiu lun gm cú 2 chng.
Chng 1:V n c bn ca trit hc.
Chng 2: Thực chất bớc ngoặt cách mạng trong triết học do C.Mác
Ph.Ăngghen thực hiện.

Nội dung
CHƯƠNG 1: Vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là hệ thống những quan điểm chung về thế giới, nó xuất hiện
vào thời kỳ phát sinh và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ ở thời cổ đại,
vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trớc công nguyên với những thành
tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp.


Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


3

Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trờng phái
và hệ thống khác nhau. Các hệ thống và trờng phái đó phản ánh trình độ phát
triển về kinh tế xã hội, chính trị và trình độ phát triển của các tri thức khoa
học tự nhiên của các nớc. Lẽ đơng nhiên, sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trờng của các giai cấp nhất định.
Khi nghiên cứu các hệ thống, các trờng phái triết học, chủ nghĩa Mác
cho rằng, vấn đế quan trọng hàng đầu, vấn đề cơ bản lớn hay vấn đề tối
cao của triết học là vấn đề quan hệ giữa t duy và tồn tại, giữa tinh thần và thế
giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trớc, cái nào có sau và cái
nào quyết định?
Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách
quan không? Hay nói một cách khác, con ngời có khả năng nhận thức thế giới
hay không?
Vấn đề quan hệ giữa tồn tại và t duy hay giữa vật chất và ý thức là vấn
đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Bởi vì, một là,
đó là vấn đề triết học rộng nhất, chung nhất; hai là, nếu không giải quyết đợc
vấn đề này thì không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề ít
chung hơn; ba là, giải quyết vấn đề này nh thế nào sẽ quyết định tính chất của
thế giới quan của các nhà triết học. Và thế giới quan ấy là cơ sở tạo ra phơng
hớng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn lại. Các học thuyết triết
học đợc chia thành hai trào lu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó tuỳ thuộc
vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này.

Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trớc;
ý thức, tinh thần, t duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ
thống triết học coi ý thức là cái có trớc, tồn tại là cái có sau là trào lu duy tâm.
Việc xem xét và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu chuẩn khoa học
duy nhất để xác định các học thuyết triết học đã, đang và sẽ tồn tại là thuộc
trào lu nào: duy tâm hay duy vật.
Các trào lu cơ bản trong triết học chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm luôn luôn đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa các trào lu triết
học là biểu hiện về mặt t tởng của cuộc đấu tranh giai cấp và phản ánh tồn tại
xã hội của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Thông thờng, chủ nghĩa duy

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


4

vật là biểu hiện về mặt triết học của hệ t tởng các giai cáp và các tầng lớp tiến
bộ, các lực lợng xã hội quan tâm đến sự phát triển xã hội.
Chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện về mặt triết học của các giai cấp, các
nhóm xã hội bảo thủ, các đảng phái chính trị phản động, không quan tâm đến
sự phát triển xã hội. Các nhà duy vật với t cách là các nhà t tởng của các lực lợng xã hội tiến bộ thờng lấy những thành tựu, kết quả của khoa học tiến tiến
mà thực tiễn làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm luôn
luôn gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học
duy tâm.
Sự xuất hiện các giai cấp đối kháng và chế độ ngời bóc lột ngời, việc
tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay là những nguyên nhân xã hội làm
cho chủ nghĩa duy tâm xuất hiện. Các đại biểu của các giai cấp bóc lột, thống
trị độc quyền hoạt động trí óc luôn mong muốn tạo ra ấn tợng rằng, dờng nh

lao động chân tay, hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng lao động là cái
thứ yếu, cái phụ thuộc của lao động trí óc. Họ cho rằng lao động trí óc đóng
vai trò chủ yếu trong đời sống xã hội. Sự khẳng định này của các t tởng gia
của giai cấp phản động không tránh khỏi dẫn tới chủ nghĩa duy tâm triết học,
tới những mu toan, luận chứng các hiện tợng tinh thần là cái có trớc, các hiện
tợng vật chất là cái có sau.

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


5

CHƯƠNG 2: Thực chất bớc ngoặt cách mạng
trong triết học do C.Mác Ph.Ăngghen thực
hiện
2.1 T tởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc và nguồn gốc ra đời
của Triết học Mácxít
2.1.1 T tởng triết học của Hêghen và Phoi ơbắc
- Hêghen: Triết học Hêghen là biểu hiện của sự phát triển đầy đủ nhất
và rực rỡ nhất của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Hêghen là nhà t tởng của
giai cấp t sản Đức, ngời thể hiện chính sách thoả hiệp về chính trị của giai cấp
t sản với giai cấp phong kiến quý tộc Phổ. Quan điểm triết học của ông là hệ
thống duy tâm cổ điển cuối cùng, là trình độ cao nhất của sự phát triển phép
biện chứng duy tâm.
Hêghen là nhà duy tâm khách quan. Ông coi tinh thần thế giới là cái có
trớc, vật chất với tính cách dờng nh là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của tinh
thần thế giới, là cái có sau; tinh thần là đấng sáng tạo ra vật chất.
Tinh thần thế giới ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và chứa đựng dới dạng tiềm năng tất cả mọi hiện tợng của tự nhiên và xã hội. Nó là nguồn

gốc và động lực của mọi hiện tợng tự nhiên và xã hội. Tinh thần thế giới hay ý
niêm tuyệt đối trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các giai đoạn
khác nhau, ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó. Đầu tiên nó
phát triển trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dới hình thức tự nhiên thế
giới vô cơ, hu cơ và con ngời, tiếp nữa là thể hiện dới hình thức nhà nớc, nghệ
thuật, tôn giáo và triết học.
Theo hệ thống của Hêghen, toàn bộ thế giới muôn màu, muôn vẻ là sản
phẩm của sự phát triển tự nhiên của ý niệm với tính cách là lực lợng sáng tạo,
là tổng hoà của mọi hình thức khác nhau của sự biểu hiện của ý niệm. Bởi vậy,

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


6

học thuyết của Hêghen coi tính thứ nhất là tinh thần, tính thứ hai là vật chất.
Đó cũng chính là sự thể hiện riêng về mặt triết học những lời khẳng định của
tôn giáo rằng Thợng đế sáng tạo ra thế giới.
Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Hêghen
chỉ lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trớc đó đã nói. Song, cái mới trong
học thuyết của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt
đối là một quá trình tự phát triển không ngừng, và ông là một nhà triết học
hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt đối,
tinh thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi tồn tại.
Hêghen đã phê phán phép siêu hình thống trị lúc đó và ông đã lấy phép
biện chứng đem đối lập với nó.
Các yếu tố biện chứng duy tâm có trong các tác phẩm triết học duy tâm
trớc Hêghen, nhng phép biện chứng duy tâm với tính cách là phơng pháp ít

nhiều hoàn chỉnh thì do Hêghen lập ra.
Công lao của Hêghen so với những ngời tiền bối của ông là ở chỗ đã
phân tích một cách tổng hợp và biện chứng tất cả các phạm trù quan trọng
nhất của triết học và hình thành trên cơ sở duy tâm ba quy luật cơ bản của t
duy: quy luật chuyển hoá từ lợng thành chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau của
các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
- Phoi ơbắc: là nhà triét học duy vật, đại biểu cho tầng lớp dân chủ
trong giai cấp t sản Đức. Ông đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen. Ông đã phê phán ý niệm tuyệt đối của Hêghen cũng nh chủ
nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học
duy vật.
Khi chống lại quan điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là tồn
tại khác của tinh thần, Phoi ơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự
nhiên tồn tại ngoài con ngời không phụ thuộc vào ý thức con ngời, là cơ sở
sinh sống của con ngời. Giới tự nhiên không do ai sáng tạo, nó tồn tại, vận
động nhờ những cơ sở bên trong nó.
Triết học của Phoi ơbắc mang tính chất nhân bản. Nó chống lại nhị
nguyên luận về sự tách rời giữa tinh thần và thể xác, ông coi ý thức tinh thần,
cũng là một thuộc tính đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là óc ngời. Từ đó
cho phép khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa tồn tại và t duy.

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


7

Phoi ơbắc không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm, mà với triết học nhân
bản của mình ông còn đấu tranh chống những quan điểm duy vật tầm thờng

quy các hiện tợng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không thấy sự khác
nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn nh coi óc tiết ra t tởng cũng nh gan tiết ra
mật.
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoi ơbắc còn thể hiện ở chỗ
ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa,
đặc biệt quan niệm về Thợng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn
giáo và thần học cho rằng Thợng đế tạo ra con ngời, ông khẳng định, chính
con ngời sáng tạo ra Thợng đế.
Khác với Hêghen nói đến sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối, Phoi ơbắc
nói đến sự tha hoá của bản chất con ngời vào Thợng đế. Ông lập luận rằng,
bản chất tự nhiên của con ngời là muốn hớng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hớng tới nhứng cái gì đẹp nhất trong một hình tợng đẹp nhất về con ngời, nhng
trong thực tế những cái đó con ngời không đạt đợc nên gửi gắm tất cả ớc
muốn của mình vào hình tợng Thợng đế.
Phoi ơbắc đã đi đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị
Thợng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con ngời, chi phối cuộc sống con
ngời.
Triết học của Phoi ơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, khi ông
đòi hỏi triết học mới triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên đồng
thời đã đứng trên lập trờng của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tợng
thuộc về con ngời và xã hội.
Con ngời, theo quan niệm của Phoi ơbắc là con ngời trừu tợng, phi xã
hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoi
ơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính
con ngời là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, khi thay thế cho
thứ tôn giáo tôn sùng một vị thợng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn
giáo mới phù hợp với tình yêu của con ngời. Ông cho rằng cần phải biến tình
yêu thơng giữa con ngời thành mối quan hệ xã hội khác, thành lý tởng xã hội.
Trong điều kiện của xã hội t sản Đức bấy giờ, với sự phân chia và đối
lập giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoi ơbắc về tình yêu thơng giữa con
ngời trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tợng, duy tâm.


Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


8

Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoi ơbắc
đã không biết rút ra từ đó cái hạt nhân hợp lý mà đã vứt bỏ luôn cả phép
biện chứng của Hêghen.
Mặc dù có nhng hạn chế, triết học của Hêghen và Phoi ơbắc có ý nghĩa
to tớn trong lịch sử triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận
quan trọng của triết học Mác
2.1.2 Nguồn gốc ra đời của triết học Mác xít
Triết học Mác (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử) là bộ phận cấu thành và là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng thời là
chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát triển của t tởng nhân
loại.
Quê hơng của chủ nghĩa Mác là nớc Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của
lực lợng sản xuất ở Anh, Pháp, Đức và các nớc t bản chủ nghĩa khác đã chứng
tỏ phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa u việt hơn hẳn phơng thức sản xuất
phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa t bản, những mâu
thuẫn giai cấp xã hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng
bộc lộ gay gắt, trớc hết là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và t sản.
Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn cơ bản của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và
trình độ phát triển ngày càng cao của lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất t
nhân t bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển
mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành cuộc

khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Khởi nghĩa của công nhân
Liông (Pháp) năm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi
(Đức) năm 1844, phong trào Hiến chơng ở Anh vào cuối những năm 30 đầu
những năm 40 của thế kỷ XIX đã thu hút sự chú ý của các đại biểu tiên tiến
của các tầng lớp tri thức t sản tiến bộ, trớc hết là C.Mác và Ph.Ănghen tới vấn
đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp xã hội và những
triển vọng của các cuộc đấu tranh giai cấp ấy.
Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nớc t bản chủ nghĩa tiên
tiến ở châu Âu những năm 30-40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng
tỏ rằng đã có những tiền đề xã hội- giai cấp và những điều kiện để xuất hiện
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; là chứng cứ để nói

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


9

rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới
triết học mácxít.
Những t tởng xã hội trực tiếp xuất hiện trớc chủ nghĩa Mác và biểu hiện
rõ ràng nhất và kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tởng
pháp, triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết ấy chứa đựng những giá
trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là
những dự đoán thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một số đặc điểm của
xã hội xã hội chủ nghĩa tơng lai và sự phê phán của các ông đối với xã hội t
bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải duy vật về vấn
đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc.
Những học thuyết đó là những đỉnh cao của sự phát triển t tởng lý luận

xã hội loài ngời trong thời kỳ trớc Mác. Sự phát triển hơn nữa về kinh tế chính
trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có đợc với
sự ra đời của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những thành tựu đã đạt
tới của nhân loại lại là những tiền đề lý luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn
gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít nói riêng.
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tới những đỉnh cao trong khoa
học tự nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên nh R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh),
E.Kh. Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đã xác định sự thật về chuyển
hoá năng lợng. R.Maye và P.P Giulơ đã nêu lên thành định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lợng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá
trình vô tận của sự chuyển biến những hình thức vận động của chúng.
Các nhà sinh vật học ngời Đức nh Svan và Slâyđen đã đa ra lý luận tế
bào, chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả
các cơ thể động vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ
thể động vật, thực vật đều là sự phát triển bằng sự hình thành tế bào.
Nhà khoa học ngời Anh là Đácuyn cũng đã phát hiện là lý luận duy vật
về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Chính định
luật bảo toàn và chuyển hoá năng lợng, lý luận tế bào, học thuyết về sự xuất
hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính
quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó đợc hình thành

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


10


nh là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về những quy luật chung
nhất của sự phát triển thế giới.
Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là một học thuyết
thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế
chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
2.2 Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do C.Mác
Ph.Ăngghen thực hiện.
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng
thời là qúa trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng
của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ XIX dới ảnh hởng
trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm
của Hêghen và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trớc nửa năm sau của năm 1843, Mác và Ăngghen
là những nhà biện chứng duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của
Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình của triết học Hêghen
và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan
điểm chính trị và xã hội của Mác và Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân
chủ cách mạng. Song, ngay từ năm 1842, khi Mác còn làm biên tập viên Báo
Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang nghiên cứu tình cảnh giai cấp công
nhân Anh, các ông đã có những biểu hiện chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang
chủ nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành
tựu của khoa học và triết học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng
tạo của các ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị xã hội.
Khi Mác làm biên tập viên Báo Rainơ, ông đã bày tỏ ý kiến của mình trên báo
trí về vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống xã hội, những
vấn đề kinh tế xã hội đặt ra ở tỉnh Rainơ, về vấn đề sở hữu đất, vấn đề đốn
rừng, về thơng nghiệp và về thuế quan bảo hộ...
Nhng khi sử dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nớc và

pháp quyền của Hêghen, Mác đã rơi vào tình trạng khó xử, không giải đáp đợc
các vấn đề của thực tiễn chính trị xã hội đặt ra.
Lúc này, chính Mác đã cảm thấy rằng những lợi ích vật chất của con
ngời trong đời sống xã hội dã đóng một vai trò quan trọng đặc biệt. Mác đã đi

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


11

tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề kinh tế chính
trị và phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và
pháp quyền của Hêghen.
Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của Mác có cả
quan điểm của chủ nghĩa xã hội không tởng, song, vì cha đủ những tri thức
sâu sắc về những vấn đề đó, nên ông đã không thể bày tỏ quan điểm của mình
về các học thuyết xã hội chủ nghĩa của những ngời tiền bối.
Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để
giải quyết những vấn đề đã đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo.
Ông đã viết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen. Tháng 10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề
kinh tế chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây, ông đã
tham gia các cuộc hội họp của công nhân, đặt mối quan hệ với các nhà lãnh
đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức.
Những năm 1843-1844 là thời kỳ ông chuyển hoàn toàn sang lập trờng
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Các bài của Mác
đăng trên Niên giám Pháp Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2
1844 đã thể hiện rõ sự chuyển biến đó.

Trong thời kỳ này Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai ông độc lập trong
việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với họ, giải thích
vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tính cách là giai cấp cách
mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lợng sản xuất mới và phơng thức sản xuất mới
trong tơng lai, vợt chủ nghĩa t bản. Trong thời kỳ này, qua nghiên cứu và thực
tiễn, các ông đã khắc phục đợc phép biện chứng duy tâm, và sự hạn chế của
chủ nghĩa duy vật siêu hình, hình thành những cơ sở của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Quá trình phát triển thế giới quan của Mác là một quá trình không đơn
giản, mà nó đợc gắn với sự phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị xã
hội. Đó là một qúa trình thống nhất hai mặt, cải biến theo chủ nghĩa duy vật
cái nội dung hợp lý của phép biện chứng duy tâm của Hêghen và giải thích
theo phép biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc
phục phép siêu hình. Đó là một quá trình đồng thời khắc phục phép biện
chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt nền móng cho chủ nghĩa
duy vật biện chứng.

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


12

Triết học của Mác khác về chất với triết học của Phoi ơbắc và Hêghen.
Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới
phỏng đoán phép biện chứng của sự vật trong phép biện chứng của ý niệm.
Đối lập với Hêghen, Mác và Ănghen cho rằng phép biện chứng của khái niệm
chỉ là sự phản ánh phép biện chứng của thế giới khách quan trong ý thức của
con ngời.

Lời mở đầu tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen đăng
trong Niên giám Pháp - Đức tháng 2 1844, đã thể hiện rõ sự chuyển biến
của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Mác từng viết: tác phẩm đầu tiên mà ông dành để giải quyết những
nghi ngờ đã có trong ông là sự phân tích có phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen.
Mác còn viết: nghiên cứu của ông đã dẫn ông đến kết luận rằng, những
quan hệ pháp quyền, cũng nh các hình thức nhà nớc, không thể hiểu từ bản
thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển chung của tình thần con ngời, mà ngợc
lại, chúng ta có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời sống.
Cũng trong Lời mở đầu này, Mác đã giải thích trên cơ sở chủ nghĩa duy
vật vấn đề nhà nớc, pháp quyền, triết học, tôn giáo. Khác với những nhà triết
học trớc Mác, ông đã hiểu một cách hoàn toàn mới những nhiệm vụ của triết
học do ông đề ra, ông đã coi triết học là thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó có
nhiệm vụ phục vụ cho thực tiễn đấu tranh chính trị xã hội. Cung với việc
phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đã phê phán trên quan điểm
chính trị thực tiễn cái mà nhà nớc đơng thời, cái hiện thực tồn tại là hợp lý
của Hêghen, Mác đã kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn tại của ý
thức pháp quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó.
Đồng thời, Mác nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của t tởng tiên tiến trong
cải tạo xã hội và nhà nớc. Ông chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những t tởng
tiên tiến trong quần chúng nhân dân, để nó trở thành một động lực thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội.
Luận chứng một cách duy vật vai trò của lý luận tiên tiến trong mối
quan hệ của nó với thực tiễn cách mạng, Mác viết Vũ khí của sự phê phán cố
nhiên không thể thay thế đợc sự phên phán của vũ khí, lực lợng vật chất chỉ có
thể bị đánh đổ bằng lực lợng vật chất; nhng lý luận cũng sẽ trở thành lực lợng
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng

Tiu lun trit hc


Th Hng Thm. K16 - TGT


13

ý nghĩa lớn lao của Lời mở đầu trong tác phẩm Phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen là ở chỗ, lần đầu tiên, Mác đã phát biểu với t cách là nhà
các mạng, trực tiếp hớng tới giai cấp vô sản, với tính cách là lãnh tụ của quần
chúng nhân dân, và coi triết học của ông là triết học của giai cấp vô sản, là vũ
khí t tởng của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản để cải biến cách mạng đối với xã
hội. Mác viết: Giống nh triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của
mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt nhà nớc và pháp quyền, Mác
thực hiện một thể nghiệm đầu tiên đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ nghĩa
duy vật sang lĩnh vực các hiện tợng xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử, ông chỉ
ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật, là phơng pháp tạo ra
khả năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho phép
giải quyết một cách triệt để những nhiệm vụ nhận thức không thể giải quyết đợc nếu đứng trên lập trờng của phép biện chứng duy tâm, hay đứng trên lập trờng của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Bởi vậy, ngay trong Lời mở đầu tác phẩm trên, Mác đã bắt đầu nghiên
cứu những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch
sử. Đồng thời với Mác, Ăngghen cũng đã nghiên cứu những nguyên tắc của
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chứng cứ hùng hồn là bài báo Sơ thảo về phên phán kinh tế chính trị
học cùng đăng trên Niên giám Pháp - Đức số tháng 2 1844. Cuộc gặp gỡ
đầu tiên của C.Mác và Ph.Ăngghen diễn ra vào tháng 11-2842, khi Mác làm
biên tập viên cho Báo Rainơ.
Tháng 8-1844, tại Pari, trên đờng từ Anh về Đức diễn ra cuộc gặp gỡ
thứ hai. Và từ đó, hai ông đã có mối quan hệ bền chặt, gắn bó trong cả cuộc
đời. Từ đó hai ông cùng làm việc để sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mác xít và lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Năm 1875, C.Mác viết Phê phán cơng lĩnh Gô-ta, đây là tác phẩm lí
luận quan trọng nhất sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và bộ T bản. Trong
tác phẩm, C.Mác làm sâu sắc và phong phú thêm học thuyết về hình thái kinh
tế xã hội , phát triển hơn nữa học thuyết macxit về nhà nớc và cách mạng, và
lần đầu trình bày t tởng về hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa.

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


14

Tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức của Ph.ăngghen đã
phân tích sâu sắc nguyên nhân, tính chất và động lực của cuộc cách mạng ở
Đức năm 1848- 1849, khả năng phát triển và thái độ của nó đối với giai cấp
trung gian, cũng nh đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, qua
đó làm phong phú thêm lí luận macxit về cách mạng.
Tác phẩm cũng chỉ ra nguyên nhân kinh tế sâu xa của mọi cuộc cách
mạng là mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất tiến bộ và quan hệ sản xuất lạc hậu,
chứng minh tính qui luật của cách mạng, vai trò quyết định của quần chúng
nhân dân trong lịch sử, và nhiều vấn đề quan trọng khác.
Tác phẩm Chống Đuyrinh, ông Đuyrinh đảo lộn khoa học của Ph.ăngghen
đợc viết vào mùa thu năm 1876 đến giữa năm 1878, là một trong những tác
phẩm quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác nói chung.
Tác phẩm gồm ba phần chính :Phần thứ nhất : Triết học ; phần thứ hai :kinh tế

chính trị học ; phần thứ ba :chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm, lần đầu tiên
Ph.ăngghen trình bày hoàn chỉnh thế giới quan macxit về chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã
hội khoa học, và chỉ ra mối liên hệ hữu cơ giữa ba bộ phận hợp thành của chủ
nghĩa Mác.
Cần lu ý, tuy đây là tác phẩm của Ph.ăngghen, mhng nh chính ông đã nói
trong Lời tựa viết cho ba lần xuất bản, một phần hết sức lớn của cuốn sách là
do C.Mác đặt cơ sở và phát triển, bản thân C.Mác đã viết chơng thứ X trong
phần kinh tế chính trị học.
Trong khoảng thời gian từ năm 1873 đến năm 1883, Ph.ăngghen đã viết tác
phẩm triết học nổi tiếng Biện chứng của tự nhiên. Tác phẩm gồm những bút
kí và những đoạn văn còn dới dạng bản thảo, cha hoàn thành, đợc xuất bản
toàn bộ lần đầu năm 1925 ở Liên Xô.
Tác phẩm đợc viết nhằm khái quát về mặt triết học những thành tựu về khoa
học tự nhiên đạt đợc vào giữa thế kỉ XIX nhằm bổ sung và phát triển phép
biện chứng duy vật.
Sau khi C.Mác mất(1883), Ph.ăngghen, một mặt tập trung sức lực và trí tuệ để
chuẩn bị cho việc xuất bản tập hai và tập ba bộ T bản- một việc làm mà sau
này đợc V.I.Lênin đánh giá nh là việc Ph.ăngghen đã xây dựng cho ngời bạn
của mình một đài kỉ niệm vĩ đại và trên đó Ph.ăngghen không ngờ đã khắc

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


15

luôn tên tuổi mình, mặt khác, tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai
cáp công nhân và hoàn thành các tác phẩm triết học quan trọng của mình,

trong đó đặc biệt có các tác phẩm Nguồn gốc và gia đình, của sở hữu t nhân
và của nhà nớc (1884), Lút-vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức (1886).
Tác phẩm Nguồn gốc và gia đình, của sở hữu t nhân và của nhà nớc đợc
Ph.ăngghen viết từ tháng ba đến tháng năm và xuất bản vào tháng 10 năm
1884.
Trong tác phẩm , Ph.ăngghen dựa vào những tài liệu của Moócgăng để phát
triển quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội nguyên thuỷ và quá trình
chuyển biến từ xã hội không giai cấp sang xã hội có giai cấp. Ph.ăngghen
chứng minh rằng, sự phát triển của sản xuất vật chất đã làm cho chế độ công
xã nguyên thuỷ tan rã và hình thành xã hội có giai cấp dựa trên sự sở hữu t
nhân.
Sự nghiên cứu lịch sử xã hội nguyên thuỷ đã giúp Ph.ăngghen khẳng định
thêm luận điểm về đấu tranh giai cấp nh là nội dung và là một động lực của
lịch sử xã hội có giai cấp .
Tác phẩm cũng chỉ ra quá trình tiến hoá của các hình thức gia đình, sự hình
thành giai cấp và nhà nớc. Đặc biệt, Ph.ăngghen đã khẳng định quan điểm
duy vật lịch sử về nhà nớc nh là sản phẩm của sự phân chia xã hội thành giai
cấp.
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển của triết học nhân loại.
C.Mác và Ph.ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của
t duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều
hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình.

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT



16

Kết luận
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép
biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Mác và Ăngghen đã giải
thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới
tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài ngời: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
Mác là thành tựu vĩ đại nhất của t tởng khoa học

Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


17

Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.

Giáo trình triết học - Bộ Giáo dục và đào tạo
Giáo trình triết học - Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Tạp chí Cộng sản
Tạp chí Giáo dục lý luận
Tạp chí Lý Luận chính trị


Tiu lun trit hc

Th Hng Thm. K16 - TGT


1

Tiểu luận triết học

Đỗ Thị Hồng Thắm. K16 – TGT

1



×